← Quay lại trang sách

NHỮNG TRỞ NGẠI PHÁP LÝ VÀ CON BỌ HUNG

Dòng suy nghĩ vơ vẩn khiến tôi đi lòng vòng và có mặt ở cuối đường Fetter muộn mất mười phút. Tôi đỏi vẻ lơ đãng của mình sang dáng điệu hoạt bát đúng kiểu một bác sĩ bận rộn, sau đó rảo bước vào phòng khám, hàng lông mày nhíu lại như thể vừa mới hoàn thành một ca nghiêm trọng. Nhưng chỉ có một bệnh nhân đang chờ ở đó, bà ta chào khi tôi bước vào với một tiếng khịt mũi ngang ngược.

“Vậy là anh đã về rồi cơ đấy?” Bà ta nói.

“Phải, bà Oman.” Tôi đáp, “Thực ra, bà vừa mới tóm tắt toàn bộ mọi việc rồi. Tôi có thể hân hạnh giúp bà việc gì đây?”

“Không có gì.” Bà ta trả lời,” Bác sĩ của tôi là một phụ nữ, nhưng tôi mang tới thư của ông Bellingham. Đây này.” Rồi bà ta ấn cái phong bì vào tay tôi.

Tôi đọc lướt lá thư và được biết bệnh nhân của mình vừa trải qua hai đêm tồi tệ cùng một ngày đầy ưu phiền. “Anh có thể cho tôi thuốc gì để ngủ được ban đêm không?” là câu kết thư.

Tôi suy nghĩ một thoáng. Thường thì bác sĩ không mấy sẵn sàng kê thuốc ngủ cho bệnh nhân mình chưa quen, tuy thế mất ngủ là một chứng bệnh rất khổ sở. Sau cùng, tôi tự thỏa hiệp bằng cách kê một liều an thần vừa phải và quyết định sẽ ghé qua chỗ ông Bellingham để xem có cần đến những biện pháp mạnh tay hơn không.

“Ông ấy phải uống một liều thuốc này ngay, bà Oman ạ.” Tôi vừa nói vừa đưa cho bà ta lọ thuốc, “Tôi sẽ ghé qua đó sau để xem tình hình thế nào.”

“Tôi cho là ông ấy sẽ rất vui được gặp anh đấy.” Bà ta trả lời, “Vì đêm nay ông ấy chỉ có một mình với tâm trạng cực kỳ buồn bã. Cô Bellingham đi vắng. Nhưng tôi phải nhắc anh nhớ rằng ông ấy chỉ là một người nghèo khổ đang phải tự trang trải mọi thứ. Xin lỗi anh vì buộc phải nói đến điều này.”

“Cảm ơn bà đã nhắc nhở, bà Oman.” Tôi tiếp lời, “Đáng lẽ tôi không cần gặp ông ấy, nhưng tôi chỉ muốn ghé qua và nói chuyện một chút thôi.”

“Phải, như thế tốt cho ông ấy. Anh thật có nhiều ưu điểm lắm đấy, dù đúng giờ có vẻ không nằm trong số đó.” Và sau câu nói mỉa mai này, bà Oman vội vã rời đi.

Lúc tám rưỡi, tôi theo bà Oman bước lên cầu thang lớn tối tăm trong căn nhà ở khu Nevill để vào phòng. Ông Bellingham vừa mới dùng xong bữa, lúc này ông ta đang ngồi cúi mình trên ghế, ánh mắt u buồn nhìn lò sưởi trống không. Nhác thấy tôi bước vào, ông ta liền rạng rỡ hẳn lên nhưng vẫn không sao giấu nổi sự buồn bã.

“Tôi không định lôi anh tới đây sau giờ lagm việc.” Ông ta mở lời, “Dù tôi rất vui được gặp anh.”

“Ông có lôi tôi đi đâu, tôi nghe nói ông chỉ có một mình thế nên mới tạt qua tán gẫu một chút thôi.”

“Anh thật tử tế.” Ông ta tán dương với vẻ thành thật. “Nhưng tôi e rằng anh sẽ thấy nói chuyện với tôi chán ngắt. Một kẻ tâm trí đang rối bời vì những chuyện cực kỳ khó chịu vốn chẳng phải người bầu bạn hay ho.”

“Nếu ông muốn được ở một mình thì tôi không dám quấy rầy.” Đến đây, tôi lại đột nhiên lo mình đang tọc mạch quá.

“Ồ, anh chẳng làm tôi thấy phiền chút nào.” Ông ta đáp, với một tràng cười,” Ngược lại thì đúng hơn. Thực ra nếu không lo mình sẽ làm anh chán ngán muốn chết đi được, tôi định sẽ kể cho anh nghe về những vấn đề của mình.”

“Tôi không thấy tẻ nhạt đâu.” Tôi nói, “Được chia sẻ với người khác về những trải nghiệm của họ mà không khiến họ thấy bất tiện bao giờ cũng là chuyện thú vị. ’Ngành nghiên cứu đúng đắn nhất của nhân loại chính là con người’, ông biết đấy, nhất là đối với một bác sĩ.”

Ông Bellingham bật cười, “Anh làm tôi có cảm giác mình giống như một con vi trùng vậy. Tuy thế nếu anh muốn chiếu cô nhìn tôi qua kính hiển vi, tôi sẽ bò lên bàn soi cho anh xem, dù những việc tôi làm chẳng phục vụ cho công cuộc nghiên cứu tâm lý của anh được. Ông anh trai tội nghiệp của tôi mới là người nắm chìa khóa của câu chuyện, người mà tôi e đang nằm dưới một ngôi mộ vô danh, giật dây cho màn múa rối quái quỷ.”

Ông ta ngừng nói và trầm ngâm nhìn vào lò sưởi như thể quên hẳn sự có mặt của tôi. Một lúc lâu sau ông ta mới ngẩng lên rồi nói tiếp, “Thật là một câu chuyện kỳ lạ, bác sĩ ạ, rất kỳ lạ. Phần anh đã biết là phần ở giữa. Tôi sẽ kể cho anh nghe từ đầu, và rồi anh cũng sẽ biết nhiều giống như tôi, vì chẳng ai biết được phần cuối câu chuyện sẽ như thế nào. Đây chính xác là câu chuyện trong cuốn sách của số mệnh mà trang cuối vẫn chưa được lật.

Mọi vấn đề bắt nguồn từ cái chết của cha tôi. Ông là một giáo sĩ trung lưu, góa vợ, nuôi hai đứa con là anh John và tôi. Ông đã xoay xở để cho cả hai chúng tôi được học ở Oxford, sau đó John làm ở Bộ Ngoại giao còn tôi phải gia nhập Giáo hội theo kế hoạch. Nhưng tôi chợt nhận ra quan điểm của tôi về tôn giáo đã thay đổi nhiều tới mức gia nhập Giáo hội là điều bất khả thi, và đó cũng là khoảng thời gian cha tôi kiếm được một gia tài đáng kể. Và vì rõ ràng ý nguyện của ông sau này là chia đôi tài sản cho cả hai anh em nên tôi chẳng cần phải làm nghề gì kiếm sống nữa. Khi dó, Khảo cổ học đã trở thành niềm đam mê cả đời của tôi, và tôi quyết tâm cống hiến cho ngành nghiên cứu mà mình ưa thích mà tiện thể cũng nối tiếp truyền thống gia đình, vì cha tôi là một người đam mê nghiên cứu lịch sử cổ đại phương Đông, còn John, như anh đã biết, là một nhà Ai Cập học cực kỳ nhiệt huyết.

Thế rồi cha tôi đột ngột qua đời mà không để lại di chúc. Ông vốn có ý định viết một bản, nhưng cứ trì hoãn tới khi quá muộn. Bởi vì hầu hết gia tài đều là bất động sản, anh trai tôi thừa kế gần như toàn bộ. Tuy vậy, tuân theo ý nguyện của cha mà chúng tôi đều biết, ông ấy trợ cấp cho tôi năm trăm mỗi năm, bằng khoảng ¼ tổng thu nhập hằng năm. Tôi từng hối thúc ông ấy trả hết luôn trong một lần, nhưng ông ấy từ chối; thay vào đó, ông ấy đã hướng dẫn người cố vấn trả tôi khoản trợ cấp đó hàng quý cho tới cuối đời. Thật dễ hiểu là khi anh tôi chết, toàn bộ tài sản sẽ thuộc quyền sở hữu của tôi, hoặc nếu tôi chết trước, chúng sẽ thuộc về con gái tôi - Ruth. Sau đó thì anh biết rồi ấy, anh trai tôi đột ngột mất tích, và vì mọi thư cho thấy anh tôi có lẽ đã chết mà cũng không có bằng chứng gì chứng tỏ ông ấy còn sống, viên cố vấn của ông ấy là Jellicoe đã không thể tiếp tục trả khoản trợ cấp nữa. Mặt khác, vì chưa có bằng chứng nào xác nhận anh trai tôi đã chết, bản di chúc của ông ấy cũng không thể thực thi.”

“Ông có nhắc đến ’những sự việc’ cho thấy hình như anh trai ông có lẽ đã chết. Chúng là gì vậy?”

“Chủ yếu là vì anh tôi đã biệt tăm biệt tích quá đột ngột. Chắc anh còn nhớ, hành lý của anh tôi, được tìm thấy ở nhà ga mà không ai nhận. Một sự việc nữa thậm chí còn thuyết phục hơn, đó là anh trai tôi nhân lương hưu từ Bộ Ngoại giao, để nhận món tiền đó ông ấy phải đích thân có mặt, hoặc nếu ở nước ngoài thì phải cung cấp bằng chứng rằng mình vẫn còn sống khi tới thời hạn nhận tiền. Bình thường, ông ấy cực kỳ tỉ mỉ với việc này, chưa bao giờ người ta thấy ông ấy không đích thân tới hoặc gửi các tài liệu cần thiết cho viên cố vấn Jellicoe. Nhưng từ khi anh tôi mất tích một cách bí ẩn tới tận bây giờ, không ai còn nghe tin gì về ông ấy nữa.”

“Tình cảnh của ông thật trớ trêu.” Tôi nói, “Có điều, tôi cho là sẽ không quá khó để xin tòa công nhận ông ấy đã chết và tiến hành thực hiện di chúc.”

Ông Bellingham nhăn mặt, “Có lẽ anh nói đúng, mà cũng chẳng ích gì. Anh biết đấy, sau khi chờ đợi một khoảng thời gian hợp lý mà không thấy anh tôi xuất hiện trở lại, ông Jellicoe đã làm một việc rất bất thường nhưng theo tôi thì lại rất đúng đắn trong trường hợp đặc biệt này. Ông ấy triệu tập tôi và các bên liên quan khác tới văn phòng và cho chúng tôi biết những điều khoản trong di chúc. Hóa ra những điều khoản đó đều cực kỳ khó tin. Tôi nghe mà như sét đang ngang tai. Điều đáng giận là tôi cảm thấy chắc chắn ông anh tội nghiệp của tôi cứ tưởng mình đã thu xếp mọi thứ tuyệt đối an toàn và đơn giản.”

“Thông thường là thế.” Tôi nói, có phần hơi mơ hồ.

“Ừ.” Ông Bellingham lại tiếp, “Nhưng anh John tội nghiệp đã biến bản di chúc thành một mớ hỗn độn kỳ quặc, và tôi chắc chắn kết cục sau cùng là ông ấy đã tự đi ngược lại ý tốt của chính mình. Chúng tôi là một gia đình lâu đời ở London. Ngôi nhà ở Quảng trường Nữ hoàng trên danh nghĩa là nơi anh trai tôi ở, thực ra còn lưu trữ cả bộ sưu tập. Bao nhiêu thế hệ chúng tôi đã ở đó, phần lớn những người thuộc dòng họ Bellingham đều được chôn cất ở nghĩa trang St. George gần đấy mặc dù cũng có vài người được chôn ở các nghĩa trang khác trong khu phố. Nhân tiện, anh trai tôi - người vẫn độc thân, đã quyết tâm noi theo truyền thống gia đình, ông ấy ghi rõ trong di chúc rằng muốn được chôn ở nghĩa trang St. George cạnh tổ tiên, hay ít nhất ở một trong những nghĩa trang có liên quan tới xứ đạo gốc của mình. Nhưng thay vì đơn giản diễn đạt ý nguyện và hướng dẫn mọi người thực hiện di chúc, anh tôi lại đặt nó làm điều kiện ràng buộc việc thực hiện di chúc.”

“Ràng buộc về khía cạnh nào?” Tôi hỏi.

“Một khía cạnh cực kì cốt tử.” Ông Bellingham đáp, “Ông ấy trao lại phần lớn tài sản cho tôi, hoặc nếu tôi chết trước, thì sẽ trao lại cho con gái tôi là Ruth. Nhưng việc trao tài sản này phụ thuộc vào điều kiện mà tôi vừa nói, rằng anh tôi phải được chôn cất ở đúng địa điểm, và nếu điều kiện này không được thực hiện, hầu hết tài sản sẽ chuyển sang tay người em họ của tôi là George Hurst.”

“Nhưng trong trường hợp đó...” Tôi vỡ vạc, “Vì không tìm thấy xác nên cả hai đều không được nhận được gia sản.”

“Tôi không dám chắc nữa.” Ông ta nói, “Nếu anh trai tôi đã chết, khả năng cao là ông ấy không được chôn cất ở nghĩa trang St. George hay bất kỳ nơi nào được nêu, mà điều này cũng rất dễ xác nhậ, tra sổ sách là xong. Vậy nên nếu tòa công nhận anh tôi đã chết, gần như toàn bộ tài sản sẽ được trao cho Hurst.”

“Ai là người thực hiện di chúc?” Tôi hỏi.

“À!” Ông ta thốt lên, “Còn một rắc rối khác, là có hai người thực hiện di chúc. Một là Jellicoe; người còn lại là ngược được nhận gia tài - Hurst hoặc tôi, tùy trường hợp. Nhưng anh thấy đó, không một ai trong chúng tôi có thể trở thành người thực hiện di chúc cho tới khi tòa án xác nhận ai là người nhận phần lớn gia tài.”

“Nhưng ai sẽ đưa sự việc ra tòa? Tôi tưởng đó là việc của người thực hiện di chúc?”

“Chính xác, đó là khó khăn của Hurst. Hôm trước anh tới trúng lúc chúng tôi đang thảo luận chuyện đó với nhau và đó quả là một màn tranh luận sôi nổi.” Ông ta nở nụ cười u buồn, “Jellicoe hiển nhiên khước từ xúc tiến mọi việc một mình. Ông ta nói mình cẩn phải có sự ủng hộ của người thực hiện di chúc thứ hai. Nhưng giờ cả Hurst và tôi đều không phải người thực hiện di chúc thứ hai, vấn đêg là hai chúng tôi là những người đồng thực hiện di chúc thứ hai, vấn đề là hai chúng tôi là những người đồng thực hiện vì đó là trách nhiệm của một trong hai người ở bất kỳ trường hợp nào.”

“Thật là một tình huống phức tạp!” Tôi cảm thán.

“Đúng thế, và chính những rắc rối phức tạp này đã khiến Hurst đưa ra một đề xuất kỳ lạ mà theo tôi thì cũng khá đúng đắn. Ông ta chỉ ra điều kiện về nơi chôn cất đã không được tuân thủ, mọi tài sản nên về tay ông ta, và ông ta định dàn xếp khéo léo thế này: Tôi sẽ ủng hộ ông ta và Jellicoe xin chấp thuận coi như anh tôi đã chết để thực hiện di chúc, sau đó ông ta sẽ trả tôi bốm trăm mỗi năm cho tới hết đời, giao kèo giữ nguyên bất kể mọi tình huống có thể xảy ra sau này.”

“Ông ta nói vậy là có ý gì?”

“Ý ông ta...” Bellingham quắc mắt, nhìn tôi đầy dữ tợn, “Là nếu sau này có lúc nào người ta tìm thấy xác anh tôi và điều kiện về nơi chôn cất được thực hiện, ông ta vẫn sẽ giữ cả gia tài và tiếp tục trả tôi bốm trăm một năm.”

“Gớm thật!” Tôi gật gù, “Ông ta cũng biết cách mặc cả lắm chứ!”

“Theo đó vị thế của ông ta sẽ là, nếu không bao giờ tìm được cái xác, ông ta sẽ chịu thiệt bốn trăm một năm, đến khi tôi chết, ngược lại nếu tìm được, ông ta vẫn là người hưởng lợi.”

“Và tôi đoán ông đã khước từ lời đề nghị này?”

“Phải, rất quyết liệt là đằng khác. Con gái tôi cũng đồng tình với tôi, nhưng tôi không chắc đó là quyết định đúng đắn. Bao giờ ta cũng nên suy đi tính lại thật kỹ càng trước khi cắt hết lối rút lui.”

“Ông đã nói chuyện với ông Jellicoe về việc này chưa?”

“Rồi, hôm nay tôi đã đến gặp ông ta. Jellicoe là một người cẩn trọng, ông ta không khuyên tôi nên làm thế này hay thế kia, có điều tôi nghĩ ông ta không đồng tình với tôi lắm. Thực ra ông ta còn khuyên tôi thà nắm chắc một con chim trong tay còn hơn hai con trong bụi, nhất là khi ta còn chưa biết bụi cây đó ở đâu nữa.”

“Ông có nghĩ ông ta sẽ làm thủ tục xin phép tòa án khi chưa có sự đồng ý của ông không?”

“Ông ta không muốn thế, nhưng nếu Hurst gây sức ép thì ắt Jellicoe sẽ phải nghe thôi. Ngoài ra, với tư cách là một bên có quyền lợi trong việc này, Hurst cũng có thể tự mình đứng ra xin, và sau khi bị tôi khước từ, có lẽ Hurst sẽ làm thế thật, ít nhất Jellicoe cũng nghĩ vậy.”

“Toàn bộ vụ việc quả thực vô cùng rối rắm” Tôi nói, “Nhất là khi anh trai ông có hẳn một luật sư riêng. Chẳng lẽ ông Jellicoe lại không chỉ cho ông ấy thấy những điều khoản này là vô lý tới mức nào sao?”

“Có chứ. Jellicoe nói đã đề nghị anh trai tôi cho phép ông ta thảo ra một bản di chúc trong đó bao gồm vấn đề này dưới hình thức phù hợp, nhưng John không chịu nghe. Tội nghiệp! Ông ấy có thể trở nên rất cứng đầu khi muốn.”

“Hurst vẫn đồng ý cho ông thay đổi ý định chứ?”

“Không, đều là do tính khí nóng như lửa của tôi đấy. Tôi đã khước từ thẳng thừng và đuổi Hurst đi sau khi mắng ông ta không tiếc lời. Hy vọng tôi đã không phạm phải sai lầm nào. Tôi đã rất ngạc nhiên khi Hurst đưa ra lời đề nghị và giận sôi lên. Chắc anh vẫn còn nhớ lần cuối cùng anh trai tôi được nhìn thấy còn sống là ở nhà Hurst, nhưng đấy, tôi không nên nói chuyện đó, không nên quấy rầy anh bằng những rắc rối chết tiệt của mình khi anh tới đây chỉ để trò chuyện thân mật thôi, dù tôi đã cảnh báo anh từ trước, nếu anh còn nhớ.”

“Ồ, nhưng câu chuyện ông kể rất thú vị đấy chứ. Ông không biết tôi hứng thú với vụ của ông thế nào đâu.”

Ông Bellingham bật cười lo lắng, “Vụ của tôi?” Ông ta nhắc lại, “Anh nói cứ như tôi là loại tội phạm quý hiếm và kỳ lạ lắm ấy. Tuy thế, tôi rất vui khi anh thấy tôi thật khôi hài. Còn bản thân tôi thì chẳng thấy thế chút nào.”

“Tôi không nói khôi hài, mà là thú vị. Tôi coi ông là nhân vật chính của tấn bi kịch này với sự tôn trọng. Và tôi không phải người duy nhất nghĩ như vậy về ông. Ông nhớ có lần tôi đã nhắc tới Tiến sĩ Thorndyke không?”

“Có, dĩ nhiên là tôi nhớ?”

“Chà, hay ho là tôi vừa gặp ông ấy chiều nay và chúng tôi đã trò chuyện rất lâu trong văn phòng của ông ấy. Tôi đã đánh liều mà nói rằng mình là người quen của ông. Như thế có sao không?”

“Không. Không sao cả. Tại sao anh lại không được phép kể với ông ấy chứ? Ông ấy có nhớ vụ việc quỷ quái của tôi, đúng như cái cách mà anh vẫn gọi không?”

“Cực kỳ rõ, từng chi tiết. Ông ấy là một người đầy tâm huyết, ông biết đấy, và cực kỳ nóng lòng muốn biết diễn biến vụ việc.”

“Về mặt này thì tôi cũng thế.” Ông Bellingham đáp.

“Tôi đang băn khoăn.” Tôi nói, “Liệu ông có phiền không nếu tôi kể lại những gì ông nói cho tôi biết tối nay? Hẳn ông ấy sẽ rất muốn được nghe.”

Ông Bellingham nghĩ ngợi một lúc, mắt nhìn trân trân vào lò sưởi trống không. Sau đó ông ta ngẩng lên, nói chậm rãi, “Tôi không thấy có lý do nào để mà phản đối cả. Nó chẳng phải bí mật gì, mà kể cả có đi chăng nữa, tôi cũng chẳng có quyền kiểm soát. Cứ nói cho ông ấy biết đi, nếu anh cho là ông ấy sẽ chiếu cố mà lắng nghe.”

“Ông không phải lo ông ấy để lộ mọi chuyện ra đâu.” Tôi nói, “Ông ấy kín miệng như một con hàu, và những manh mối có thể có ý nghĩa với ông ấy hơn là với chúng ta đấy. Ông ấy có thể cho chúng ta vài gợi ý hữu ích.”

“Ồ, nhưng mà tôi không định hỏi ông ấy đâu.” Ông Bellingham nói nhanh, có phần giận dữ, “Tôi không phải loại người đi xin xỏ người khác tư vấn miễn phí, anh hiểu không, bác sĩ?”

“Tôi hiểu.” Tôi vội vàng đáp, “Ý tôi không phải thế. Có phải cô Bellingham về không? Tôi nghe có tiếng đóng cửa trước.”

“Phải, con gái tôi đấy, chắc thế, nhưng đừng trốn đi đâu cả. Anh không sợ nó chứ?” Ông ta nói thêm trong khi tôi vội vã cầm lấy mũ.

“Tôi không chức là mình không,” Tôi trả lời, “Cô ấy quả là một quý cô đài các.”

Ông Bellingham cười khùng khục, nén một cái ngáp đúng lúc con gái ông bước vào phòng. Dù cô bận bộ váy màu đen tồi tàn, tay cầm cái túi xách còn tồi tàn hơn, tôi thấy dáng điệu và phong cách của cô hoàn toàn phù hợp với lời miêu tả vừa rồi của tôi.

“Mời vào, cô Bellingham.” Tôi nói khi cô lịch sự bắt tay tôi một cách lạnh lùng,”... Để thấy cha cô đang ngáp còn tôi thì nói lời cáo biệt. Cô xem, tôi cũng có ích đấy chứ. Nói chuyện với tôi là phương pháp chữa trị cực kỳ hữu hiệu cho chứng mất ngủ.”

Cô Bellingham mỉm cười, “Tôi đoán sự xuất hiện của mình đã buộc anh rời khỏi đây.”

“Không phải.” Tôi mau miệng đáp, “Công việc của tôi đến đây là hoàn thành rồi, đơn giản thế thôi.”

“Ngồi lại đây một lát đã, bác sĩ.” Ông Bellingham nài nỉ, “Để Ruth thử phương pháp chữa trị của anh đi. Con gái tôi sẽ phật ý lắm nếu thấy anh bỏ đi ngay khi mình vừa bước vào.”

“Nhưng tôi không thể cứ bắt ông thức khuya mãi được.” Tôi nói.

“Ừm, tôi sẽ cho anh biết khi nào ngủ.” Ông bật cười, và sau khi đã hiểu, tôi lại ngồi xuống, hoàn toàn không miễn cưỡng.

Đúng lúc này bà Oman mang một khay nhỏ bước vào, miệng nở nụ cười khiến tôi bất ngời.

“Cô sẽ dùng bánh mỳ nướng và ca cao nóng chứ, phải không nào?” Bà ta nói ngọt.

“Được rồi, Phyllis, cám ơn bà.” Cô Bellingham trả lời, “Tôi chỉ đi cất cái mũ mà thôi.” Đoạn, cô rời khỏi phòng, còn bà Oman chạy theo sau với dáng điệu kỳ cục.

Trở lại suýt soát lúc ông Bellingham đang ngáp một cú thật to, cô ngồi xuống để chuẩn bị dùng bữa ăn thanh đạm trong khi cha cô khiến tôi vô cùng băn khoăn bằng câu hỏi, “Tối nay cục cưng về muộn quá. Bọn Shepherd King lại gây rắc rối à?”

“Không ạ.” Cô đáp, “Nhưng con định dứt điểm luôn. Thế nên con mới ghé qua thư viện phố Ormond để giải quyết cho xong.”

“Thế chúng sẵn sàng nhồi rồi chứ?”

“Rồi.” Khi trả lời, cô bắt gặp ánh mắt kinh ngạc của tôi (vì một con chó Shepherd King nhồi đúng là một cảnh tượng đáng kinh ngạc) và khẽ bật cười, “Chúng ta đừng chơi chữ kiểu này trước mặt bác sĩ Berkeley đây nữa.” Cô giải thích, “Không anh ta sẽ biến chúng ta thành hai cột muối[8] mất. Cha tôi đang nói về công việc của tôi đấy.”

“Cô là người chuyên nhồi xác động vật à?” Tôi hỏi.

Cô vội vàng bỏ cái cốc bên môi xuống rồi bật ra một tràng cười sẽ sàng.

“Tôi e rằng cha tôi đã khiến anh nhầm lẫn bởi cái cách diễn đạt chẳng đâu vào đâu của mình. Thế thì cha phải chuột lỗi bằng cách giải thích cho anh ta hiểu thôi.”

“Anh thấy đó, bác sĩ...” Ông Bellingham tiếp lời, “Ruth là người chuyên lục tài liệu...”

“Ấy, đừng gọi con là người chuyên lục lọi!” Cô Bellingham phản đối, “Từ ấy ám chỉ người chuyên lục soát phụ nữ ở Sở Cảnh sát ấy. Cứ gọi con là người chuyên tìm kiếm.”

“Được rồi, chuyên gia tìm kiếm hay nữ chuyên gia tìm kiếm cũng được, nếu con muốn thế. Con gái tôi săn tìm các tài liệu tham khảo và các nghiên cứu lịch sử ở Viện bảo tàng cho những người viết sách. Nó tìm kiếm mọi tài liệu liên quan đến một chủ đề nào đó, rồi sau khi đã nhồi nhét các thông tin chật căng trong bụng rồi, nó đến gặp khách hàng để ‘nhả ‘ra, nhồi nhét người ta đến khi tới lượt người đó lại ‘nhả’ vào sách.”

“Thật là một cách miêu tả ghê tởm!” Con gái ông ta nói, “Nhưng công việc thực chất là như vậy. Tôi là con chó rừng săn tài liệu, kẻ thu lượm mồi cho bọn sư tử đói tài liệu. Như thế đã rõ chưa?”

“Hoàn toàn rõ ràng. Nhưng tôi thấy ngay cả bây giờ mình vẫn chưa hiểu về những con chó Shepherd King nhồi.”

“Ồ, không phải chó Shepherd King nhồi gì cả, mà chính là tác giả. Đấy chỉ là lối diễn đạt kỳ quặc của cha tôi thôi. Chuyện là thế này: Một Giám mục Phó đáng kính viết một bài về Cha Joseph...”

“... Mà chẳng biết gì về ông ta cả...” Ông Bellingham xen vào, “Rồi bị một chuyên gia về lĩnh vực đó làm bẽ mặt, vị Giám mục Phó ấy đã tức điên lên...”

“Chẳng có chuyện gì như thế hết.” Cô Bellingham nói, “Ông ta biết những gì mà một Giám mục Phó đáng kính cần phải biết, nhưng vị chuyên gia còn biết nhiều hơn. Vậy nên viên Giám mục Phó giao cho tôi thu thập tài liệu về Ai Cập cuối Triều XVII[9], tôi đã hoàn thành. Ngày mai tôi sẽ đi nhồi ông ta, cách nói của cha tôi, rồi...”

“Rồi...” Ông Bellingham tiếp tục cắt ngang, “Ông Giám mục Phó sẽ xông lên trút xuống đầu vị chuyên gia toàn những con chó Shepherd King, Sequenen-Ra và những mẩu đầu thừa đuôi thẹo về Triều XVII. Tôi đảm bảo với anh là mấy bộ tóc giả sẽ nằm lăn lóc trên bãi cỏ cho mà xem[10].”

“Phải, tôi nghĩ rồi sẽ có cãi nhau to.” Cô Bellingham đồng tình, sau đó để kết thúc chủ đề này ở đây, cô tấn công nhiệt tình món bánh mỳ nướng trong khi cha cô ngáp một cái khổng lồ nữa.

Tôi nhìn cô với niềm ngưỡng mộ thầm kín và quan tâm sâu sắc. Dù làn da nơi cô xanh xao, đôi mắt mệt mỏi, khuôn mặt gầy gò gần như hốc hác, thì cô vẫn cực kỳ xinh đẹp; ở cô lúc nào cũng toát ra vẻ quyết đoán, mạnh mẽ và cá tính, khiến cô nổi bật hơn hẳn những người phụ nữ khác. Tôi thầm để ý điều này trong khi nhìn trộm cô hay xoay mặt trả lời những điều cô nói với mình, và tôi cũng để ý thấy cách nói chuyện của cô dù chất chứa nỗi buồn nhưng vẫn không thiếu đi sự hài hước có phần châm biếm, mai mỉa. Cô quả là một quý cô bí ẩn, nhưng vô cùng thú vị.

Dùng xong bữa, cô đặt khay sang một bên, đoạn vừa mở chiếc túi xách tồi tàn vừa hỏi, “Anh có quan tâm tới lịch sử Ai Cập không? Chúng tôi đều phát cuồng với chủ đề đó. Hình như ai trong gia đình tôi cũng thế.”

“Tôi không biết nhiều về khoản này.” Tôi đáp, “Việc nghiên cứu y khoa tốn rất nhiều công sức, vì thế tôi ít có thời gian đọc về các chủ đề khác.”

“Hiển nhiên rồi.” Cô nói, “Anh không thể là chuyên gia trong tất cả mọi lĩnh vực được. Nhưng nếu anh chiếu cố muốn biết công việc của loài chó rừng săn tài liệu là như thế nào, tôi sẽ cho anh xem các ghi chú của tôi.”

Tôi phấn khởi đồng ý ngay (nhưng tôi e hoàn toàn không phải vì mình hứng thú với chủ đề đó). Cô lấy ra khỏi túi bốn cuốn sổ khổ bốn[11] bìa màu xanh dương ghi chép về các vương triều từ XIV[12] tới XVII. Trong khi tôi đọc lướt qua những đoạn trích dẫn được ghi chép tỉ mỉ, gọn gàng, chúng tôi bàn về những điều phức tạp trong giai đoạn lịch sử khó khăn và rối rắm này và chỉ dần dần hạ giọng khi ông Bellingham dần nhắm mắt và ngả đầu trên lưng ghế. Chúng tôi chỉ vừa mới bàn tới triều đại chủ chốt Apepa Đệ Nhị thì một tiếng ngáy vang lên, phá tan sự yên tĩnh đầy tính học thuật của toàn căn phòng và làm cả hai chúng tôi bật cười dù không thành tiếng.

“Cuộc nói chuyện của anh phát huy tác dụng rồi đấy.” Cô thì thầm còn tôi rón rén đứng lên cầm lấy mũ, rồi hai chúng tôi cùng nhón chân bước ra cửa, cô mở cửa mà không gây tiếng động. Khi đã ra đến bên ngoài, đột nhiên cô vứt bỏ vẻ bông đùa ban nãy và nghiêm nghị nói, “Anh thật tử tế khi đến gặp cha tôi tôi nay! Anh đã giúp cha tôi rất nhiều, và tôi vô cùng biết ơn anh. Chúc anh ngủ ngon!” Rồi thân mật bắt tay với tôi.

Tôi bước xuống cái cầu thang không ngừng kêu cọt kẹt, tâm trí lâng lâng mãi trong vòng xoáy hạnh phúc mà ngay cả tôi cũng không biết dùng lời nào để diễn tả được nữa.