VƯỜN CẢI XOONG
Công việc của Barnard, giống như phần lớn các việc khác, cũng có những khoảnh khắc khiến cho một bác sĩ khi thì hy vọng, khi thì tuyệt vọng. Công việc ào tới thành từng đợt cao điểm, rồi sau đó là những giai đoạn gần như chỉ ngồi không. Tôi đang trong giai đoạn rảnh rỗi sau cuộc viếng thăm tới khu Neville, và kết quả là mới mười một rưỡi, tôi đã phải tự hỏi không biết nên làm gì cho hết ngày. Nhân lúc suy nghĩ miên man, tôi tản bộ ra bờ sông, tựa mình vảo lan can ngắm nhìn phong cảnh phía bên kia bờ. Cây cầu đá xám vòm cong, những tháp làm đạn[13] đẹp như tranh vẽ, xa xa là hình bóng mờ ảo của khu Abbey và Nhà thờ St Stephen.
Thật là một khung cảnh dễ chịu, thư giãn, yên bình, điểm xuyến sức sống và vẻ lãng mạn trang nhã. Một chiếc xà lan đi qua những nhịp cầu cong với cánh buồm hình thang mắc trên cột được một phụ nữ đeo tạp dề trắng cầm lái. Tôi mơ màng ngắm chiếc xà lan trườn đi, để ý thấy nó chỉ hơi nổi trên mặt nước, gần như ngập hẳn. Nhìn người phụ nữ cầm lái, chú chó trên boong sủa về phía bờ sông đằng xa, tôi bất giác nghĩ tới Ruth Bellingham.
Điều gi ở cô gái kỳ lạ này để lại trong tôi ấn tượng sâu sắc đến thế? Đó là câu hỏi mà tôi tự đặt ra cho mình, và đây không phải lần đầu tiên. Về những chi tiết thực tế thì chẳng còn gì phải nghi ngờ. Nhưng lý do là gì? Có phải là khung cảnh lạ lùng quanh cô? Nghề nghiệp và những kiến thức kỳ lạ của cô? Tính cách nổi bật và vẻ xinh đẹp hiếm có? Hay mối liên quan giữa cô và tấn bi kịch bí ẩn về vụ mất tích của ông bác
Tôi cho là tất cả những yếu tố đó. Mọi thứ liên quan tới cô đều khác thường và cuốn hút, nhưng vượt trwn hoàn cảnh là sự cảm thông và gần gũi mà tôi nhận thấy rất rõ, và có chút hy vọng rằng cô cũng phần nào nhận thấy nó. Dù thế nào, tôi cũng thật sự quan tâm đến cô, chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Tuy chỉ vừa mới quen nhau, cô đã chiếm một vị trí đặc biệt trong lòng tôi - điều chưa người phụ nữ nào từng làm được.
Từ Ruth Bellingham, những suy nghĩ của tôi theo lẽ tự nhieenlieefn chuyển sang câu chuyện kỳ lạ mà cha cô đã kể. Đó quả là một sự việc lạ lùng! Bản di chúc rắc rối, viên luật sư phản đối ở phía sau... Dường như có thứ gì đó kết nối tất cả những chuyện này, đặc biệt là khi tôi nhớ tới lời đề nghị có một không hai của ông Hurst. Nhưng chúng nằm ngoài khả năng của tôi. Vụ việc này dành cho luật sư thì đúng hơn, tôi đúng là nên đi gặp một luật sư thật. Ngay tôi hôm đó, tôi quyết định sẽ đén gặp Thorndyke và thuật lại cho ông toàn bộ câu chuyện đúng như tôi đã được nghe người ta đã kể.
Đúng lúc ấy thì một việc ngẫu nhiên xảy đến. Ngẫu nhiên - điều mà ai trong chúng ta cũng tự hỏi bao giờ mới xảy ra nhưng lại hay gặp đến mức nó được trịnh trọng đặt vào thành ngữ. Ngay khi đưa ra quyết định, tôi bỗng nhìn thấy hai người đàn ông từ phía Blackfriars đi tới, và tôi nhận ra ngay thầy giáo cũ của mình cùng viên trợ tá.
“Đúng lúc tôi đang nghĩ tới hai người đấy.” Tôi gọi khi họ tới gần.
“Rất hân hạnh.” Jervis nói, “Nói tới quỷ là quỷ xuất hiện ngay.”
“Có lẽ...” Thorndyke nói, “Anh ta đang tự nói với mình thì đúng hơn. Nhưng tại sao anh lại nghĩ tới chúng tôi, lại còn là nghĩ chuyện gì thế?”
“Đều chỉ xoay quanh vụ Bellingham thôi ấy mà. Tôi đã dành cả buổi tối qua ở khu Nevill.”
“Ai chà chà! Có diễn biến mới chưa?”
“Rồi chứ, lạy Chúa! Bellingham đã kể cho tôi nghe toàn bộ chi tiết của bản di chúc, nó đúng là một văn bản hay ho.”
“Ông ta có cho phép anh kể lại với tôi không?”
“Có. Tôi đã hỏi thẳng mình có được phép kể lại cho người khác không và ông ta không phản đối.”
“Tốt lắm. Giờ chúng tôi định đi ăn trưa ở Soho vì Polton bận bịu quá rồi. Hãy đi cùng chúng tôi và kể chuyện trên đường đến đó. Anh thấy thế nào?”
Một đề nghị quá tuyệt vời trong tình trạng rảnh việc của tôi, thế là đương nhiên tôi nhận lời ngay tặp lự với vẻ hân hoan ra mặt.
“Được rồi.” Thorndyke nói, “Thế thì ta nên đi chậm thôi, ráng nói cho xong câu chuyện này trước khi đến chỗ đông người.”
Chúng tôi chậm rãi thả bộ trên vỉa hè rộng rãi, tôi bắt đầu kể lại mọi chuyện. Cô gắng kể thật chuẩn theo trí nhớ, tôi xâu chuỗi những hoàn cảnh dẫn tới tình trạng hiện giờ của món tài sản rồi tiếp tục kể về những điều khoản thực sự được viết trong di chúc. Hai người bạn của tôi say sưa lắng nghe từ đầu đến cuối. Thorndyke thỉnh thoảng bảo tôi dừng kể để ghi mấy dòng vào cuốn sổ tay.
“Tại sao thế nhỉ?” Ông ta đúng là người thần kinh không bình thường!” Jervis thốt lên, “Bỏ bao nhiêu là công sức, và bằng sự khéo léo quái quỷ, ông ta đã tự phá bỏ chính mục đích của bản di chúc.”
“Đó không phải là điều quá hiếm gặp với những người làm di chúc đâu.” Thorndyke nhận xét, “Một bản di chúc thẳng thắn và dễ hiểu mới là ngoại lệ đó. Nhưng chúng ta khó mà phán xét được khi chưa nhìn thấy tận mắt bản di chúc. Ông Bellingham có giữ bản sao nào không nhỉ?”
“Không biết nữa.” Tôi nói, “Để tôi hỏi thử xem sao.”
“Nếu ông ấy có bản sao thì tôi muốn xem nó.” Thorndyke nói, “Các điều khoản trong đó rất ngược đời, chưa kể, như Jervis nói đấy, chúng được dàn xếp một cách đáng kinh ngạc để phá hỏng ý nguyện của người làm di chúc nếu thực sự những thông tin này là đúng. Ngoài ra chúng còn có ảnh hưởng rất lớn tới hoàn cảnh vụ mất tích. Tôi đoán chắc anh cũng đã để ý thấy điều này rồi.”
“Tôi thấy việc người ta chưa tìm thấy cái xác là rất có lợi cho Hurst.”
“Đúng vậy. Nhưng còn vài điểm nữa cũng nên chú ý. Tuy nhiên, hiện tại vẫn còn hơi sớm để bàn về những điều khoản trong di chúc cho đến khi nào chúng ta được tận mắt xem văn bản đó hoặc một bản sao được chứng nhận.”
“Nếu thực sự có bản sao...” Tôi đáp vội, “Tôi sẽ cố tìm cho ra. Nhưng Bellingham cực kỳ ngần ngại việc mình đang xin xỏ người ta tư vấn không công cho mình.”
“Điều đó cũng dễ hiểu mà.” Thorndyke nói, “Không có gì đáng xấu hổ cả. Nhưng anh phải tìm cách vượt qua sự ngại ngùng của ông ấy, tôi tin anh sẽ làm được. Anh là một quý ông trẻ tuổi đáng tin theo những gì tôi còn nhớ hồi trước, và dường như anh cũng đã dần trở thành một người bạn của gia đình họ rồi.”
“Họ đều là những người khá thú vị.” Tôi giải thích thêm, “Rất học thức và có thiên hướng đam mê khảo cổ. Hình như cái đó ăn sâu vào máu rồi.”
“Phải.” Thorndyke nói, “Đúng là thiên hướng của cả gia đình, có lẽ là do tiếp xúc và hoàn cảnh xung quanh hơn là do di truyền. Vậy anh cũng mến Godfrey Bellingham chăng?”
“Vâng. Ông ta hơi nóng nảy và bốc đồng, nhưng quả là một quý ông già dễ gần và tốt bụng.”
“Còn cô con gái?” Jervis lại hỏi, “Cô ta thế nào?”
“Ừm, đó là một quý cô rất có học thức, chuyên làm nghề tìm tài liệu tham khảo ở Viện bảo tàng.”
“A!” Jervis reo lên, “Tôi biết kiểu đó rồi. Tay đầy mực, không thấy ngực đâu và ai cũng đeo kính dày cộp.”
“Anh nhầm rồi.” Tôi bực bội phản đối, những miêu tả kinh khủng của Jervis hoàn toàn tương phản với vẻ duyên dáng nhã nhặn của cô, “Đó là một cô gái cực kỳ xinh đẹp, và phóng thái của cô ấy đúng với một quý cô đài các. Có lẽ hơi cứng nhắc, nhưng dù sao tôi cũng chỉ là một người mới quen, gần như là người lạ.”
“Nhưng mà...” Jervis khăng khăng, “Cô ấy như thế nào, ý tôi là vẻ bề ngoài. Lùn? Béo? Tóc hung? Miêu tả cụ thể cho chúng tôi đi nào?”
Những ý nghĩ của tôi khi nãy giúp tôi nhanh chóng mường tượng lại mọi thứ trong đầu.
“Cô ấy cao khoảng năm feet bảy inch, vóc người thon thả nhưng vẫn tròn trịa, lưng thẳng, dáng đi uyển chuyển, tóc đen rẽ ngôi giữa rủ xuống trán một cách duyên dáng, làn da trắng mịn, mắt màu xám đậm, lông mày thẳng, sống mũi cao và hài hòa, miệng nhỏ và đầy đặn, cằm tròn trĩnh... Anh cười gì thế Jervis?” Vì lúc này, anh bạn tôi bỗng lộ rõ bộ mặt thật và đe dọa, giống như con mèo Cheshire biến mất trong không khí chỉ còn lại khuôn miệng đang cười[14].
“Nếu di chúc đó có bản sao, Thorndyke...” Anh ta nói, “Chúng ta sẽ tìm được nó. Thầy đồng ý với tôi chứ, bậc tiền bối đáng kính?”
“Tôi đã nói rồi.” Ông trả lời, “Tôi tin tưởng Berkeley. Giờ thì hãy gạt công việc sang một bên thôi. Ta đến nơi rồi.”
Ông đẩy cánh cửa kính giản dị, chúng tôi bước theo ông vào quán ăn. Bầu không khí trong quán tràn ngập mùi thơm của tinh bột hòa lẫn với mùi vị ít dễ chịu hơn của chất béo chưng cất.
Chừng hai tiếng sau, tôi cáo biệt hai người bạn dưới tán lá vàng của hàng cây tiêu huyền trên đường King’s Bench Walk.
“Tôi không mời anh ghế qua chỗ tôi bây giờ được,” Thorndyke nói, “ Vì chúng tôi có một buổi tư vấn chiều này. Nhưng hãy ghé qua sớm chứ đừng đợi bản sao tờ di chúc đó.”
“Không!” Jervis nói vội, “Đến lúc buổi tối khi nào mà cậu xong việc ấy, đương nhiên, trừ phi cậu còn những chốn hấp dẫn hơn cần đi. Ấy này, khỏi phải đỏ mặt thế, anh bạn thân mến, ai trong chúng ta cũng từng có thời trai trẻ, ngay cả thầy Thorndyke đây cũng từng là một thanh niên từ thời cổ đại cơ.”
“Đừng để tâm đến anh ta, Berkeley.” Thorndyke nói, “Vỏ trứng vẫn còn dính trên đầu anh ta đấy. Khi nào bằng tuổi tôi thì mới sáng mắt ra.”
“Trời!” Jervis bật thốt, “Tôi hy vọng mình sẽ không phải chờ lâu đến thế!”
Thorndyke mỉm cười nhân hậu với người học trò sắc sảo của mình, sau đó lịch sự bắt tay tôi, ông xoay người bước lên lối vào nhà.
Từ Tmple, tôi đi lang thang về phía Bắc, tới trường Đào tạo Bác sĩ Giải phẩu gần đó, dành hai giờ đồng hồ bổ ích xem xét “chất khử khuẩn”, ôn lại những chủ đề về bệnh lý và giải phẩu, một lần nữa thấy kinh ngạc (như mọi nhà giải phẩu đang hành nghề đều thấy) trước kỹ thuật mổ vô cùng hoàn hảo, thầm biết ơn người đã tạo ra bộ sưu tập này. Sau cùng, chuông đồng hồ cộng với cơn thèm trà ngày càng tăng đẩy tôi ra khỏi đó và kéo tôi trở lại với công việc không lấy gì làm vất vả của mình. Khi tâm trí vẫn còn quanh quẩn giữa các món đồ đựng trong hòm và những lọ thủy tinh vĩ đại, tôi thấy mình đang đứng ở góc đường Fetter mà không nhớ nổi mình về đến đó bằng cách nào. Nhưng, đúng lúc này, một giọng nói khàn khàn lôi tôi khỏi dòng suy nghĩ.
“Một phát hiện ’inh’ khủng ở Sidcup!”
Tôi giận dữ quay mặt lại vì tiếng rao trong khoảng cách ấy của một thằng bé bụi đời ở London này cũng chẳng khác nào một cái tát, nhưng dòng chữ trên tờ poster màu vàng nó giơ ra cho tôi xem khiến cơn giận bỗng hóa thành tò mò.
“Một phát hiện kinh khủng trong vườn cải xoong!”
Nếu ai muốn tỏ vẻ ta đây mà chối thì tùy, nhưng đúng là có gì đó rất hấp dẫn trong “phát hiện kinh khủng” đươch ghi. Nó gợi nên bi kịch, bí ẩn, những câu chuyện ly kỳ. Nó hứa hẹn đem đến cho cuộc sống u ám tầm thường của chúng ta những yếu tố kịch tính, nêm mắm dặm muối để ta thưởng thức sự tồn tại của mình trên cõi đời. Lại còn “trong vườn cải xoong” nữa! Khung cảnh quê mùa dường như càng tăng thêm sự rùng rợn cho khám phá này, dù nó có là gì đi chăng nữa.
Tôi mua một tờ báo, kẹp nó dưới cánh tay mà bước vội vào phòng khám, chắc mẩm sẽ được thưởng thức một bữa tiệc cải xoong trong đầu. Nhưng vừa mở cửa, tôi gặp một người phụ nữ béo quay, đầy mụn nhọt, chào tôi bằng một tiếng rên rỉ. Chính là người đàn bà trong hiệu bán than ở khu Fleur-de-Lys.
“Chào buổi tối, bà Jablett!” Tôi mau mắn nói, “Tôi mong bà không tới đây vì có vấn đề với sức khỏe.”
“Có đấy.” Bà ta trả lời, đứng dậy ủ rũ theo tôi vào phòng khám. Sau khi đã ngồi xuống ghế bệnh nhân còn tôi ngồi vào bàn làm việc, bà ta nói tiếp, “Bên trong người tôi, bác sĩ ạ.”
Câu nói chẳng đem lại thông tin gì về mặt giải phẫu và chỉ loại trừ được lĩnh vực của bác sĩ da liễu. Tôi chờ bà ta kể rõ hơn trong khi đầu óc thì phỏng đoán về khu vườn cải xoong, còn bà Jablett ngóng đợi tôi bằng đôi mắt mờ đục ươn ướt.
“À!” Cuối cùng, tôi bảo, “Là bên trong, bên trong cơ thể phải không, bà Jablett?”
“Phải. Và ’ầu’ tôi nữa.” Bà ta thở dài thường thượt khiến cả căn phòng phảng phất một mùi hương không lấy gì làm ngọt ngào.
“Bà bị đau đầu phải không?”
“Đó là chứng bệnh mãn tính rồi!” Bà Jablett nói, “Cảm giác như nó cứ mở ra rồi đóng lại, mở ra rồi đóng lại, hễ ngồi xuống đâu là tôi lại có cảm tưởng mình sắp nổ tung.”
Những miêu tả đầy gợi hình về cảm giác không đến nỗi trái ngược với vóc người của bà Jablett cũng giúp tôi phần nào hiểu được chứng bệnh. Cố ngăn cái thôi thúc phù phiếm là trấn an bà ta rằng da con người có tính đàn hồi cao thế nào, tôi xem xét ca bệnh cực kỳ tỉ mỉ, khéo léo vòng vo để tránh chủ đề “không ngọt ngào” rồi để bà ta ra về với tâm trạng đã vui vẻ trở lại với lọ thuốc từ bình thủy tinh to tướng của Barnard.
Sau đó tôi trở lại với việc xem xét “phát hiện kinh khủng” kia, nhưng còn chưa kịp giở tờ báo thì bệnh nhân lại đến (lần này căn bệnh chốc lở truyền nhiễm đã lan ra khắp “lồng ngực rộng nở nang” của một thiếu niên sống ở đường Fetter), rồi lại thêm một bệnh nhân nữa, cứ thế suốt cả tối, đến chót cùng thì tôi quên béng luôn cả “vườn cải xoong”. Mãi khi đã tắm rửa xong xuôi sau buổi khám bệnh bằng nước nóng, đánh sạch móng chân rồi sửa soạn ngồi xuống thưởng thức bữa ăn thanh đạm, tôi mới nhớ đến tờ báo và lấy nó ra khỏi ngăn kéo bàn làm việc mà trước đó đã phải giấu vội giấu vàng. Tôi gấp tờ báo lại cho thuận tiện, đặt nói tựa vào bình nước và vừa ăn vừa đọc thoải mái.
Bài báo khá dài. Rõ ràng tác giả của nó coi đây là một tin nóng hổi, và người biên tập hùa theo bằng cách dành cho nó một khoảng thật lớn vời dòng tít dựng tóc gáy:
“PHÁT HIỆN KINH KHỦNG
TRONG VƯỜN CẢI XOONG
Ở SIDCUP!
Người ta đã phát hiện một điều kinh khủng vào chiều hôm qua khi dọn vườn cải xoong gần ngôi làng cổ Sidcup ở Kent - một phát hiện có lẽ sẽ khiến những người có thói quen thết đãi bản thân mình món ăn này phải cảm thấy nôn nao trong bụng. Nhưng trước khi miêu tả về hoàn cảnh và những gì người ta phát hiện được chính là những mảnh thi thể người không hơn không kém, ta hãy cùng lần theo một loạt sự trùn hợp đáng kinh ngạc mà nhờ đó thứ này được tìm thấy.
Khu vườn trong vụ việc này nằm trong một hồ nhân tạo được cấp nước từ dòng suối nhỏ thuộc một trong rất nhiều nhánh sông Cray. Nó sâu hơn các vườn cải xoong thông thường khác, nếu không, những vật thể kinh khủng kia đã không thể bị giấu dưới làn nước. Dòng chảy qua đó tuy liên tục nhưng rất chậm. Nhánh sông nhỏ quanh co qua các đồng cỏ mà tại một trong số đó, người ta đã tạo ra mảnh vườn cải xoong này. Ở đây quanh năm có các loài động vật với bộ lông dày xốp vốn là nạn nhân của tính thích ăn thịt của con người, đã ăn cỏ và sản xuất ra loại thịt gọi là thịt cừu. Vài năm trước, những con cừu này nhiễm một căn bệnh gọi là sán lá gan, đến đây chúng ta sẽ đi lạc đề một chút sang lĩnh vực bệnh lý học.
Sán lá gan là căn bệnh có nguồn gốc khá ly kỳ. Nguyên nhân là do một loại giun dẹt nhỏ tức là sán lá gan, sống ký sinh trong gan và ống mật của cừu.
Làm sao loại giun này vào được gan cừu? Đây mới là điểm ly kỳ. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu.
Vòng đời của chúng bắt đầu từ lúc trứng của loài sán phát tán trong các dòng suối hoặc rãnh nông chạy qua đồng cỏ. Trứng có một bộ phận như cái nắp, sẵn sàng mở để một sinh vật nhỏ xíu đầy lông lá bơi ra ngoài đi tìm loài sên nước mà các nhà nghiên cứu gọi là Limnosa truncatula. Khi tìm được một con sên, nó sẽ chui vào cơ thể sên và bắt đầu phát triển dần lên. Rồi nó sính ra cả đàn giun tí hon giống hệt như mình, các sinh cật nhỏ được gọi là ấu trùng và tới lượt chúng lại đẻ ra thêm con đàn cháu đống nữa. Việc này cứ thế tiếp diễn vài thế hệ, nhưng rồi tới một thế hệ ấu trùng mà thay vì sinh ra thêm ấu trùng giống như mình, thì chúng lại đẻ ra một đàn con khác hẳn: Đầu to, đuôi dài như nòng nọc thu nhỏ, gọi là ấu trùng có đuôi. Chẳng bao lâu sau loại ấu trùng này chui ra khỏi con sên, và lúc này vấn đề mới xảy ra: Loài sên này thỉnh thoảng có thói quen rời khỏi môi trường nước đi du ngoạn trên đồng cỏ. Vì thế, ấu trùng khi chui ra khỏi ốc sên rồi rơi xuống cỏ lập tức rụng đuôi và bám chặt vào lá cỏ. Sau đó một con cừu không hề hay biết gì, tới thưởng thức bữa ăn thanh đạm của mình, gặm chỗ cỏ đó và nuốt cả ấu trùng vào bụng. Loại ấu trùng này một khi đã vào dạ dày cừu liền đi thẳng tới ống mật và lên gan, tại đây, trong vài tuần, chúng phát triển thành sán trưởng thành và bắt đầu nhiệm vụ đẻ trứng..
Đó là những chi tiết ly kỳ về mặt bệnh lý học của sán lá gan, thế nhưng chúng có liên quan gì tới phát hiện bí ẩn này? Thì đây. Sau khi bệnh sán lá gan bùng phát, người chủ khu đất là ông John Bellingham đã giao cho phụ tá của mình thêm một điều khoản vào hợp đồng thê đất, quy định rõ khu đất phải được chuyên gia dọn dẹp và kiểm tra định kỳ để đảm bảo không có loài sên tai hại kia. Lượt thuê đất cuối cùng đã hết hạn hai năm trước, và từ đó mảnh vườn bị bỏ hoang. Tuy nhiên để đảm bảo an toàn cho các bãi cỏ liền kề, người ta coi việc kiểm tra định kỳ là cần thiết, trong quá trình dọn dẹp khu vườn, chính nhằm mục đích này, họ mới phát hiện ra thứ đã viết bên trên.
Công việc được tiến hành hai ngày trước. Một nhóm ba người đã là việc có hệ thống gồm nhổ cây và thu thập đủ các loại sên nước để đem về cho chuyên gia nghiên cứu xem có loài nào có hại không. Tới chiều hôm qua, họ đã dọn được gần một nửa, có một người làm việc ở khu sâu nhất đã tìm thấy vài mảnh xương và sự xuất hiện của chúng khiến anh ta nghi ngờ. Anh ta lập tức gọi đồng nghiệp tới. Họ cẩn thận nhổ các cây cối xung quanh và chẳng bao lâu, họ phát hiện một bàn tay người đang nằm trong bùn dưới lớp rễ. Rất may họ đã không đụng đến mảnh thi thể mà gọi ngay cảnh sát. Ngay tức thời, một thanh tra, một hạ sĩ cùng một bác sĩ đã đến hiện trường, tại đây họ được chứng kiến phần thi thể nằm đó đúng như khi nó được tìm thấy. Lúc đấy, họ lại phát hiện ra một chi tiết còn kỳ lạ hơn thế, nó là một bàn tay trái bị thiếu ngón áp út. Cảnh sát coi đây là một chi tiết rất quan trọng để nhận dạng vì số người bị thiếu ngón áp út tay trái hẳn là khá ít. Sau khi kiểm tra kỹ càng hiện trường, các mẩu xương được thu thập cẩn thận và mang tới nhà xác cất giữ nhằm phục vụ quá trình điều tra.
Bác sĩ Brandon của Sở Cảnh sát trong một cuộc phỏng vấn với đại diện của chúng tôi đã tiết lộ: ’Các mảnh xương là từ tay trái của một người đàn ông trung niên hoặc đã nhiều tuổi, cao chừng năm feet tám inch. Tất cả xương cánh tay đều nguyên vẹn, kể cả xương bả vai và xương quai xanh, nhưng lại thiếu ba xương của ngón áp út. ’
’Đây là do khuyết tật bẩm sinh hay ngón tay đã bị cắt đứt? ’, phóng biên của chúng tôi hỏi.
’Ngón tay đã bị cắt đứt’, vị bác sĩ trả lời, ’Nếu bẩm sinh đã thiếu, thì phần xương tay tương ứng, hoặc xương bàn tay phải biến đổi hoặc bị dị tật theo, trong khi ở đây chúng vẫn hiện diện bình thường. ’
’Những mẫu xương này đã nằm dưới nước bao lâu? ’ là câu hỏi tiếp theo.
’Tôi cho là hơn một năm rồi. Chúng khá sạch, không còn dấu vết mô mềm nào.”
’Ông có giả thiết nào cho việc tại sao cánh tay lại nằm ở đây không? ’
’Tôi không thể trả lời’, vị bác sĩ hồi đáp thận trọng.
’Thêm một câu hỏi nữa thôi’, phóng viên tiếp tục, ’Người chủ đất - ông John Bellingham - chẳng phải chính là người đã mất tích bí ẩn cách đây một thời gian hay sao? ’
’Theo tôi biết thì đúng thế’, bác sĩ Brandon đáp.
’Vậy ông có thể cho tôi biết liệu ông Bellingham có bị mất ngón áp út bàn tay trái không? ’
’Tôi không thể tiết lộ;, bác sĩ Brandon đáp, rồi nói thêm với một nụ cười, ’Anh nên hỏi cảnh sát thì hơn’.
Đó là toàn bộ diễn biến sự việc đến giờ. Nhưng theo chúng tôi được biết, cảnh sát đang chủ động tìm kiếm bất kỳ người mất tích nào bị thiếu ngón áp út bàn tay trái, và nếu độc giả nào biết có người như vậy, hãy liêc lạc ngay với chúng tôi hoặc cơ quan chức năng.
Ngoài ta chúng tôi cho rằng một cuộc tìm kiếm có hệ thống sẽ được tiến hành nhằm phát hiện thêm những mảnh thi thể khác.”
Tôi đặt tờ báo xuống, chìm vào suy nghĩ. Quả là một sự việc bí ẩn. Ý nghĩ của người phóng viên cũng tự nhiên nảy ra trong tâm trí tôi. Liệu đó có phải mảnh thi thể của John Bellingham? Điều này hoàn toàn có thể, dù việc những mẩu xương này được tìm thấy trên mảnh đất của chính ông sẽ khiến người ta liên tưởng ngay tới giả thiết này thì nó cũng chưa thể làm khả năng đó trở nên khả thi hơn. Sự kết nối này chỉ là ngẫu nhiên, không hề liên quan.
Rồi còn cả ngón tay bị thiếu nữa. Trong các bài báo viết về vụ mất tích, không hề nhắc đến khuyết tật nào như thế cả, người ta đương nhiên khó mà bỏ sót chi tiết đó. Tôi phải gặp Thorndyke trong vài ngày tới để chắc chắn nếu phát hiện này có bất kỳ mối liên quan nào tới vụ mất tích của John Bellingham, tôi sẽ biết ngay. Với tâm tư như vậy, tôi bèn đứng sậy khỏi bàn, làm theo lời khuyên trong trích dẫn mà người ta vẫn gán bừa là của Samuel Johnson[15] – “tản bộ trên phố Fleet” trước khi ngủ.