← Quay lại trang sách

CON NHÂN SƯ[25] Ở LINCOLN’S INN

Ở tuổi hai mươi sáu, không ai có thể khẳng định mình đã đạt tới vị thế của một người giàu kinh nghiệm. Tuy thế, những hiểu biết thu thập được trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó về bản tính của con người cũng đủ khiến tôi cảm thấy tự tin rằng một lúc nào đó trong buổi tối hôm nay, tôi sẽ được đón tiếp bà Oman. Và hoàn cảnh thực tế cũng ủng hộ cho sự tự tin của tôi, khi tiếng đồng hồ điểm bảy giờ kém hai phút, tiếng gõ cửa phòng khám vang lên báo hiệu bà đã tới.

“Tôi tiện đường đi qua đây.” Bà giải thích trong lúc tôi cố nén cười nghe sự trùng hợp này. “Nên tôi nghĩ tốt nhất là ghé vào xem anh muốn hỏi tôi điều gì!” Đoạn, bà ngồi xuống ghế bệnh nhân và đặt một chồng báo lên bàn, giương mắt nhìn tôi chờ đợi.

“Cám ơn bà Oman.” Tôi nói, “Bà thật tử tế khi ghé thăm tôi. Thật ngại vì bắt bà phải tốn bao nhiêu công sức chỉ vì việc cỏn con này.”

Bà gõ các ngón tay lên bàn tỏ vẻ sốt ruột, “Đừng bận tâm tới điều đó!” Bà gắt hỏng, “Anh-muốn-hỏi-tôi-chuyện-gì?”

Tôi kể lại những khó khăn khi chuẩn bị cho buổi tiệc đêm, vẻ phẫn nộ lẫn thất vọng lan khắp khuôn mặt bà.

“Tôi không hiểu tại sao anh phải làm ra vẻ bí hiểm về chuyện đó như thế?” Bà vừa nói vừa nhăn nhó.

“Tôi cũng không cố ý muốn tỏ ra bí hiểm đâu, chỉ là tôi không muốn làm rối lên. Anh làm cao mà khinh bỉ những niềm vui trên bàn ăn thì cũng được thôi, nhưng một bữa ngon cũng rất có giá trị đấy, nhất là khi lối sống thanh đạm và suy nghĩ cao siêu là chủ đề chính.”

“Đó là một cách nói thô tục.” Bà Oman chép miệng, “Nhưng hoàn toàn đúng.”

“Rất tốt. Giờ nếu để bà Gummer lo liệu, có lẽ bà ta sẽ làm một món hầm kiểu Ireland âm ấm với thịt hoặc mỡ đông bên trên, một cái bánh pudding với lớp mỡ rắn như làm bằng chất dẻo hoặc thứ gì đó kiểu vậy, bà ấy còn sẽ lục tung cả cái nhà này lên trong quá trình chuẩn bị. Thế nên tôi đang tính ăn đồ nguội mua ở bên ngoài, nhưng tôi không muốn trông mình như có vẻ đã chuẩn bị kỹ càng quá mức.”

“Họ đâu có tưởng là những thứ đó từ trên trời rơi xuống!” Bà Oman nói.

“Không, tôi không nghĩ thế, nhưng bà hiểu tôi đang nói gì mà. Giờ bà bảo tôi nên mua những nguyên liệu cho buổi yến tiệc này ở đâu đây?”

Bà Oman trầm ngâm, rồi đi đến quyết định. “Tốt hơn hết là anh để tôi mua đồ và lo liệu việc này cho.”

Đây chính là điều tôi mong muốn, tôi bèn tán thành với vẻ biết ơn, bất kể bà Gummer có cảm thấy thế nào. Tôi đưa cho bà Oman hai bảng. Sau vài lời phản đối yếu ớt trước tính hào phóng quá mức của tôi, bà nhét chúng vào ví - một việc tốn khá nhiều thời gian vì cái ví đó chẳng khác nào một Sở Lưu trữ thu nhỏ với một đống hóa đơn nhàu nát bẩn thỉu, mẫu vải của thợ may, đầu mẩu băng dính, cúc áo vải lanh, móc gài áo, một cục sáp ong, đầu mẩu bút chì bị chuột gặm và một lố những thứ linh tinh mà tôi không nhớ hết được. Trong khi đóng cái ví bất chấp nguy cơ nhãn tiền sẽ làm cái khóa bật tung ra, bà nhìn tôi cay nghiệt và mím môi.

“Anh là một thanh niên có miệng lưỡi lợi hại đấy.” Một lần nữa, bà nhận xét.

“Tại sao bà lại nói vậy?” Tôi hỏi.

“Tán chuyện về các Viện bảo tàng…” Bà nói tiếp, “Với một quý cô xinh đẹp trong khi giả vờ làm việc. Hẳn là làm việc đấy! Tôi còn nhớ có nghe cô ấy kể cho cha mình nghe về chuyện đó. Cô ấy tưởng anh thực sự bị thu hút trước những xác ướp, xác mèo khô cùng mấy đống đá, và các thứ rác rưởi khác. Cô ấy đâu ngờ được bọn đàn ông ai cũng bịp bợm như nhau.”

“Thật sao, bà Oman…”

“Thôi đừng nói gì cả!” Bà ngắt lời, “Tôi biết hết. Đừng hòng qua mặt tôi! Tôi đoán anh nhìn chăm chăm vào mấy cái tủ kính, khẩn nài cô ấy nói tiếp, dỏng tai lên nghe với cái miệng há hốc và đôi mắt trợn ngược, quỳ rạp dưới chân cô ấy[26], đúng không?”

“Tôi không rõ về việc quỳ rạp dưới chân cô ấy…” Tôi nói, “Dù chuyện ấy hoàn toàn có thể xảy ra vì cái sàn nhà trơn tuột quỷ quái đó, nhưng quả thực tôi đã có một quãng thời gian rất vuii vẻ, tôi muốn trở lại đó nếu có dịp. Cô Bellingham đúng là người phụ nữ thông minh và hoàn hảo nhất mà tôi từng được nói chuyện cùng.”

Đây là một câu để gài bà Oman, người có sự ngưỡng mộ và trung thành theo tôi biết là chỉ có mình tôi sánh nổi. Hẳn là bà rất muốn vặc lại tôi, nhưng điều đó là không thể. Để che giấu thất bại của mình, bà nhấc chồng báo lên và bắt đầu giở chúng ra.

“’Ngủ đông’ là gì?” Bà đột ngột hỏi.

“Ngủ ddoong1?” Tôi khó hiểu.

“Phải. Họ tìm được một mảnh thứ đó trên mẩu xương nằm dưới ao ở St Mary Cray, và một mảnh tương tự trên mẩu xương được tìm thấy ở Essex. Thế nên tôi muốn biết ‘ngủ đông’ là gì.”

“Hẳn ý bà muốn nói tới ‘sự hóa ngà’[27]?” Tôi nói sau khi suy nghĩ một lúc.

“Báo viết là ‘ngủ đông’, tôi tin là họ biết mình đang viết gì. Nếu anh không rõ thì cứ thừa nhận đi, không phải ngượng ngùng gì cả.”

“Chà, thế thì đúng là tôi không biết.”

“Vậy tốt hơn là anh hãy đọc báo để tìm hiểu đó là gì.” Bà nói, có phần hơi mâu thuẫn, rồi tiếp tục, “Anh có ưa đọc chuyện giết người không? Tôi lại rất thích chúng.”

“Bà đúng là một người kinh dị!” Tôi buột miệng.

Bà hếch cằm về phía tôi, “Cảm phiền anh cẩn trọng lời nói một chút! Anh không thấy tôi đáng tuổi mẹ anh sao?”

“Không thể nào!” Tôi bật thốt.

“Thật đấy.” Bà Oman khẳng định

“Hừm, dù sao đi chăng nữa…” Tôi nói, “Tuổi tác không phải là yếu tố duy nhất. Vả lại, bà đến quá muốn mất rồi. Vị trí đó đã thuộc về một người khác.”

Bà Oman đập tờ báo xuống bàn và vụt đứng dậy.

“Anh nên đọc báo đi để xem có khôn ra được tí nào không!” Bà tỏ ra gay gắt khi xoay người bỏ đi, “À, và đừng quên chi tiết về cái ngón tay!” Bà hồ hởi nói thêm, “Cái đó thật sự giật gân đấy.”

“Ngón tay?” Tôi nhắc lại.

“Phải, họ đã tìm thấy một bàn tya bị thiếu một ngón. Cảnh sát cho rằng đó là chứng cứ quan trọng. Tôi không hiểu ý họ là gì, nhưng hãy đọc bài báo và cho tôi biết suy nghĩ của anh.”

Sau câu ra lệnh này, bà Oman vụt rời khỏi phòng khám, tôi đành bước theo để nói lời tạm biệt theo lệ nơi ngưỡng cửa. Nhìn hình bóng nhỏ bé của bà nhảy từng bước nhanh như chim dọc theo đường Fetter, tôi vừa định quay trở vào phòng khám thì chợt để ý thấy một người đàn ông đứng tuổi bên kia đường. Đó là một người với vẻ ngoài kỳ lạ, cao, gầy, xương xẩu. Từ cử động của đầu, dân hành nghề bác sĩ có thể nhận ra ngay là ông ta bị cận thị rất nặng, lại còn cả cặp kính dày cộp nữa. Rồi bất ngờ ông ta thấy tôi liền bước qua đường, cằm hếch lên, đôi mắt xanh dương quan sát tôi qua cặp kính.

“Tôi tự hỏi liệu anh có thể giúp tôi không?” Ông ta nói với một cái cúi chào lịch sự, “Tôi muốn tới gặp một người quen nhưng lại quên mất địa chỉ nhà ông ta. Ông ấy ở một khu phố nào đấy, nhưng hiện giờ tôi không nhớ ra tên của nó. Tên bạn tôi là Bellingham. Chắc anh cũng biết chớ? Các bác sĩ thường quen biết rộng mà.”

“Có phải ông đang muốn nói tới ông Godfrey Bellingham?”

“À! Vậy anh cũng biết ông ấy, tôi đến đây cũng không đến nỗi vô ích rồi. Chắc hẳn ông ta là bệnh nhân của anh?”

“Một bệnh nhân và cũng là một người bạn. Địa chỉ nhà ông ta là số 49 khu Nevill.”

“Cảm ơn, cảm ơn anh! Mà, vì anh là bạn của ông ấy, anh cho tôi biết luôn giờ giấc sinh hoạt ở đó được chứ? Tôi không định và cũng không muốn tới thăm trúng cái giờ trái khoáy của họ. Ông Bellingham thường ăn tối vào lúc mấy giờ? Tôi có thể qua ngay bây giờ được không?”

“Thông thường vào buổi tối tôi đến đó muộn hơn một chút, khoảng tám rưỡi, lúc ấy họ đã dùng bữa xong.”

“À, vậy là tám rưỡi tối? Thế thì có lẽ tôi nên đi dạo chờ tới lúc đó vậy. Tôi không muốn làm phiền họ.”

“Ông có muốn vào đây hút một điếu thuốc trong khi chờ đợi không? Nếu thế, tôi có thể đi cùng và chỉ cho ông đích xác căn nhà đó.”

“Anh thật tử tế!” Ông bạn mới quen của tôi nhìn tò mò qua cặp kính, “Tôi cũng muốn ngồi chờ hơn, đi lang thang ngoài đường khổ bỏ xừ, mà tôi cũng không có thời gian để về văn phòng của mình ở Lincoln’s Inn nữa.”

“Ủa?” Tôi vừa hỏi vừa dẫn ông ta vào căn phòng mà bà Oman vừa rời đi lúc nãy, “Ông là Jellicoe?”

Ông ta xoay thẳng cặp kính lại phía tôi, nhìn chằm chặp với vẻ nghi ngờ, “Điều gì khiến anh nghĩ tôi là Jellicoe?” Ông ta hỏi.

“Ồ, chỉ là vì ông sống ở Lincoln’s Inn.”

“Ha! Tôi hiểu rồi. Tôi sống ở Lincoln’s Inn, ông Jellicoe cũng sống ở Lincoln’s Inn, và vì thế tôi là Jellicoe. Ha ha! Thật là một lối suy luận tồi, nhưng lại đưa đến kết luận chính xác. Phải, tôi chính là Jellicoe. Anh biết gì về tôi nào?”

“Rất ít, ngoại trừ việc ông là cố vấn của ông John Bellingham quá cố.”

“Cái câu ‘John Bellingham quá cố’ ấy… Này, làm sao anh biết ông John Bellingham đã quá cố?”

“Thực ra thì tôi không biết, chỉ là tôi hiểu khá rõ chính ông cũng nghĩ như thế.”

“Anh hiểu được cơ à? Từ ai mà anh ‘hiểu’ được cái đó? Từ Godfrey Bellingham hay sao? Hừm… Làm sao ông ta biết được tôi nghĩ gì? Tôi chưa từng nói với ông ta điều gì tương tự. Tùy tiện nói về những suy nghĩ của người khác là một việc rất nguy hiểm đấy, anh bạn à.”

“Nghĩa là ông cho rằng John Bellingham vẫn còn sống?”

“Thật không? Ai nói thế nhỉ? Không phải tôi nhé.”

“Nhưng hẳn ông ta phải còn sống hoặc đã chết...?”

“Về cái đó thì...” Ông Jellicoe ngập ngừng, “Tôi lại hoàn toàn đồng ý với anh. Anh vừa khẳng định một sự thật không thể chối cãi.”

“Nhưng không lấy gì làm hữu ích.” Tôi bật cười.

“Những sự thật không thể chối cãi thường thế.” Ông ta vặn lại, “Chúng cứ chung chung. Thực ra, tôi dám khẳng định rằng mức độ đúng đắn của một mệnh đề phụ thuộc trực tiếp vào tính chung chung của nó.”

“Tôi hiểu.” Tôi đáp lời ông ta.

“Không còn nghi ngờ gì nữa. Hãy thứ lấy một ví dụ từ nghề nghiệp của chính anh đi. Trong một triệu người dưới hai mươi tuổi, anh có thể nói chắc chắn phần lớn bọn họ sẽ chết trước một độ tuổi nào đó do những hoàn cảnh và bệnh tật nhất định. Nếu tách riêng một cá nhân trong một triệu người đó, anh có thể dự đoán gì về anh ta? Không gì cả. Anh ta có thể chết ngay ngày mai, hoặc có thể sống đến hai trăm tuổi. Anh ta có thể chết vì bị cảm hay đứt tay, hay rơi xuống từ cây thánh giá của Nhà thờ St Paul. Với một trường hợp cụ thể, anh sẽ chẳng thể dự đoán được điều gì.”

“Chính xác!” Tôi gật gù, để rồi nhận ra mình đã lạc khỏi chủ đề về John Bellingham bèn đánh liều trở lại với nó, “Đó quả là một vụ việc cực kỳ bí ẩn... ý tôi muốn nói tới vụ mất tích của John Bellingham.”

“Tại sao lại bí ẩn?” Ông Jellicoe đặt ngược vấn đề, “Người ta thỉnh thoảng có lúc biến mất, và khi xuất hiện trở lại, những lời giải thích của họ (nếu có) thường cũng khá đầy đủ.”

“Nhưng những tình tiết hiện nay đang rất bí ẩn.”

“Là những tình tiết nào?” Ông Jellicoe hỏi.

“Ý tôi là cái cách mà ông ta biến mất khỏi nhà ông Hurst!”

“Ông ta biến mất khỏi đó bằng cách nào?”

“Chậc, đương nhiên tôi không biết.”

“Chính là thế đó, tôi cũng không biết, vậy nên tôi không thể khẳng định nó có bí ẩn hay không.”

“Ta còn chưa biết chắc liệu ông ta có rời khỏi đó hay chưa nữa cơ.” Tôi nhận xét có phần táo bạo.

“Đúng.” Ông Jellicoe nói, “Nếu chưa rời đi, hẳn ông ta vẫn còn ở đó. Và nếu vẫn còn ở đó, tức ông ta vẫn chưa mất tích, theo logic thông thường. Và nếu ông ta chưa mất tích, chẳng có gì gọi là ’bí ẩn’ được cả.”

Tôi cười phá lên song ông Jellicoe vẫn giữ vẻ nghiêm trang như tượng gỗ và tiếp tục dò xét tôi qua cặp kính (mà tôi đoán khoảng năm đi-ốp). Có gì đó rất thú vị ở ông luật sư nghiêm nghị này, tính khí thì tranh luận và cẩn trọng đến nực cười. Sự khoe mẽ của ông ta khiến tôi muốn hỏi dồn dập những câu hỏi khác nữa, càng ít kín đáo càng tốt.

Tôi đặt câu hỏi, “Trong hoàn cảnh hiện tại, ông sẽ không ủng hộ đề nghị của ông Hurst xin tòa công nhận người mất tích đã chết?”

“Trong hoàn cảnh nào?” Ông ta hỏi vặn.

“Tôi đang nói đến sự nghi ngờ của ông về việc liệu John Beliingham có phải thực sự đã chết.”

“Thưa anh...” Ông ta đáp, “Tôi chưa hiểu ý anh. Nếu chắc chắn ông ta còn sống, không bao giờ ta có thể xin phép coi người đó đã chết được, còn chắc chắn ông ta đã chết, việc xin phép này vẫn là bất khả thi. Anh không thể xin phép coi một điều hiển nhiên là nó đã xảy ra được. Sự không chắc chắn chính là bản chất của việc này.”

“Nhưng mà...” Tôi khăng khăng, “Nếu ông thực sự tin rằng ông ta có thể vẫn còn sống, tôi không nghĩ ông sẽ nhận trách nhiệm cho phép coi ông ta đã chết và chia gia tài.”

“Không.” Ông Jellicoe nói, “Tôi không nhận bất kỳ trách nhiệm nào hết. Tôi hành động dựa trên phán quyết của tòa và không có bất kỳ lựa chọn nào trong vụ việc này.”

“Tòa có thể quyết định coi ông ta đã chết trong khi thực ra người đó vẫn còn sống.”

“Không hề. Nếu tòa coi ông ta đã chết thì đúng là ông ta được coi như đã chết, dù về mặt thể xác quả thực ông ta vẫn còn sống, điều đó chẳng liên quan gì. Về mặt pháp lý, với mục đích thực hiện di chúc, ông ta đã chết. Hẳn là anh chưa lĩnh hội được sự khác biệt?”

“E rằng thế...” Tôi thú nhận.

“Phải rồi, những người làm ngành nghề của anh toàn thế, đâm ra họ luôn là nhân chứng tồi trước tòa. Góc nhìn của khoa học thực sự khác xa với góc nhìn về mặt pháp lý. Một nhà nghiên cứu khoa học dựa trên kiến thức, quan sát, nhận xét của chính mình mà gạt bỏ những lời khai. Nếu một người đến gặp anh và nói anh ta bị mù một mắt, anh có thừa nhận ngay lời nói của anh ta không? Dĩ nhiên là không. Anh sẽ khám mắt cho anh ta bằng một hệ thống kính màu quỷ quái nào đó, và rồi anh nhận ra rằng hai mắt người đó hoàn toàn bình thường. Vậy là anh nhận định anh ta không hề bị mù, đồng nghĩa với việc anh phủ nhận lời khai của anh ta dựa trên những chứng cứ mà mình tìm được.”

“Nhưng rõ ràng đó là cách hợp lý nhất để đi tới kết luận.”

“Trong khoa học thì đúng thế, nhưng trong lĩnh vực pháp lý thì không, Tòa án quyết định dựa trên những chứng cứ được đưa ra, và chúng chính là bản chất của lời khai. Nếu một nhân chứng dám thề rằng màu đen là màu trắng mà không có chứng cứ nào được đưa ra chứng tỏ điều ngược lại, các chứng cứ trước tòa sẽ là màu đen là màu trắng, và như vậy tòa phải đưa ra phán quyết dựa trên cái đó. Thẩm phán và bồi thẩm đoan có thể suy nghĩ hoàn toàn ngược lại, thậm chí bản thân họ biết điều ngược lại mới là đúng, nhưng họ phải đưa ra phán quyết dựa trên chứng cứ.”

“Ý ông là, một thẩm phán được phép đưa ra một phán quyết mà chính ppng ta cũng biết là trái với sự thất? Hoặc ông ta có thể kết án một người mà mình thừa biết là vô tội?”

“Đúng, điều đó đã từng xảy ra rồi. Có một vụ, viên thẩm phán kết án tử hình một người đàn ông và để mặc cho bản án được thi hành trong khi chính ông thẩm phán đã tận mắt chứng kiến vụ giết người được gây ra bởi tay kẻ khác. Nhưng trường hợp này đúng là tôn trọng các quy chuẩn đến mức cứng nhắc.”

“Phải, quá cứng nhắc!” Tôi đồng tình, “Nhưng hãy cùng trở lại với vụ việc của John Bellingham. Giả sử sau khi tòa tuyên bố đã chết, ông ta lại xuất hiện, vẫn còn sống thì sao? Khi đó người ta sẽ làm gì?”

“À, khi đó sẽ tới lượt ông ta phải xin cấp phép, và khi tòa án nhận được những chứng cứ mới, có lẽ sẽ xác nhận ông ta vẫn còn sống.”

“Trong thòi gian đó tài sản của ông ta đã bị chia hết?”

“Có lẽ thế. Nhưng anh có thể thấy việc tòa xác nhân ông ta đã chết bắt nguồn từ hành động của chính người đó. Nếu một người cố tình khiến cho mọi người tưởng rằng mình đã chết, ông ta phải tự gánh chịu hậu quả.”

“Như thế cũng hợp lý.” Tôi thoáng trầm tư, một lúc sau mới hỏi tiếp, “Liệu có khả năng những thủ tục này sẽ được tiến hành không?”

“Theo tôi hiểu từ những lời anh vừa nói thì ông Hurst đang toan tính làn những chuyện kiểu như thế. Chắc anh có nguồn tin đáng tin cậy.” Ông Jellicoe nói mà không cử động một cơ bắp nào, khiến tôi nhớ đến sự lim dim của một bức tượng bán thân đeo kính.

Tôi mỉm cười chán ngán. Việc cố moi thông tin từ ông Jellicoe cũng hệt như đấm bốc với một con nhím, vì nó tỏ rõ sức mạnh của sự chống đỡ thụ động. Tuy nhiên, tôi quyết định cố thử thêm lần nữa, chủ yếu là để tận hưởng những điều thú vị khi quan sát cách phòng thủ của ông ta hơn là để moi thông tin. Thế là tôi chuyển đề tài, nói sang chủ đề “thi thể.”

“Ông có theo dõi những bản tin đáng kinh ngạc trên báo rằng người ta đã tìm thấy những mẩu xương người không?”

Ông ta lạnh lùng nhìn tôi chằm chằm một hồi rồi trả lời, “Xương người có lẽ thuộc chuyên môn của anh nhiều hơn là của tôi, nhưng vì anh đã nói tới chuyện đó, tôi nhớ mình có đọc thông tin này rồi. Hình như chúng là những mẩu xương rời rạc.”

“Phải, có lẽ từ những bộ phận của một thi thể bị cắt ra.”

“Chắc thế rồi, tại tôi không theo sát diễn biến của nó. Khi đã sống tới một độ tuổi nhất định, mối quan tâm của chúng ta thường chỉ tập trung vào một số thứ nhất định, và với tôi thì chủ yếu là liên quan đến các vấn đề sang tên chuyển nhượng tài sản là nhiều. Một luật sư hình sự sẽ dành nhiều quan tâm tới những khám phá xương xẩu đó hơn.”

“Hình như ông cũng đã liên hệ chúng với vụ thân chủ mất tích của mình hả?”

“Tại sao lại thế? Bản chất của mối liên quan là gì?”

“Chà...” Tôi nói, “Chúng là những mẩu xương người...”

“Thì vâng, thân chủ của tôi cũng có xương, đấy chắc là mối liên quan ở đây dù nó không mấy cụ thể hay nổi bật. Có lẽ anh đang nghĩ tới điều gì cụ thể hơn?”

“Ừm.” Tôi đáp, “Theo tôi thì việc những mẩu xương này được tìm thấy trên vùng đất của thân chủ ông là rất đáng chú ý.”

“Thật à?” Ông Jellicoe nghĩ ngợ một lúc trong khi vẫn nhìn chằm chằm vào tôi, mãi sau mới tiếp tục, “Tôi không hiểu tại sao anh lại nghĩ thế. Có lẽ đối với tôi, việc người ta tìm thấy những phần thi thể người trên một khoảnh đất nào đó có thể khiến chủ nhân hoặc những người sống trên mảnh đất ấy bị nghi ngờ là đã phi tang cái xác. Nhưng với trường hợp mà anh đang nói tới thì việc này là bất khả thi, con ngời không thể tự phi tang những mảnh thi thể bị cắt rời của chính mình.”

“Đương nhiên. Tôi không có ý nói rằng ông ta tự phi tang thi thể của mình, chỉ là việc chúng bị vứt trên mảnh đất của ông ta, theo một cách nào đó, khiến chúng liên quan tới ông ta.”

“Tôi đã nói rồi.” Ông Jellicoe nhấn mạnh, “Tôi không hiểu ý anh, trừ phi anh đang ám chỉ những kẻ giết người rồi chặt xác luôn luôn vứt mảnh thi thể lên đúng mảnh đất của nạn nhân. Trong trường hợp này tôi hơi bị nghi ngờ tính đúng đắn của nó, tôi chưa từng biết có thông lệ nào như thế tồn tại trên đời. Hơn nữa, hình như chỉ một phần thi thể bị bỏ lại trên phần đất của ông Bellingham, những mảnh còn lại thì rải rác khắp nơi. Làm sao mà nó đồng nhất với giả thiết của anh được?”

“Dĩ nhiên là không.” Tôi thừa nhận, “Nhưng còn một điểm nữa mà ông sẽ thấy đáng chú ý hơn. Mảnh thi thể đầu tiên được tìm thấy ở Sidcup, Sidcup lại ở gần Eltham, và Eltham chính là nơi mà ông Bellingham được nhìn thấy là vẫn còn sống lần cuối cùng.”

Ông Jellicoe lắc đầu, “Có vẻ anh đã nhầm lẫn thứ tự phi tang cái xác với thứ tự người ta khám phá ra nó rồi. Có bằng chứng nào cho thấy những mảnh thi thể được tìm thấy ở Sidcup đã bị phi tang trước các mảnh khác chứ?”

“Tôi không biết bằng chứng nào như thế cả.” Tôi thừa nhận.

“Vậy thì tôi cũng hiểu anh dùng cách nào để giải thích rằng kẻ đó đã bắt đầu từ Eltham?”

Khi suy nghĩ kỹ, phải thú thật là tôi chẳng có bằng cớ gì ủng hộ cho lập luận của mình, và sau khi đã bắn đi mũi tên cuối cùng trong cuốn chiến không cân sức này, tôi thấy đã tới lúc đổi chủ đề.

“Tôi mới đến Viện bảo tàng Anh quốc hôm trước...” Tôi nói, “Đã xem qua món quà cuối cùng của ông Bellingham cho đất nước. Tất cả cổ vật được bày biện rất đẹp trong cái tủ kính ở trung tâm.”

“Phải. Tôi rất hài lòng với vị trí mà họ đã chọn để bày bộ sưu tập, hẳn ông bạn già tội nghiệp của tôi cũng thế. Khi nhìn nó, tôi ước gì ông ta cũng có thể được chứng kiến. Nhưng biết đâu sẽ một lúc nào đó thôi.”

“Tôi cũng rất hi vọng thế,” Tôi nói, với sự thành thực nhiều hơn mức mà ông luật sư công nhận, bở lẽ việc John Bellingham trở về sẽ giải quyết rốt ráo mọi khó khăn cho ông bạn Godfrey của tôi, “Chắc ông cũng rất quan tâm đến Ai Cập học, phải không?” Tôi hỏi thêm.

“Rất quan tâm là đằng khác.” Ông Jellicoe đáp bằng vẻ phấn khởi mà không ngờ cái khuôn mặt như gỗ của ông ta có thể trưng ra được. Chủ đề quay ngược trở lại thời thơ ấu của loài người, nghiên cứu nền văn minh đáng kính này quả thực vô cùng hấp dẫn, nó được lưu trữ để lưu truyền cho muôn đời trên những tượng đài như một cách gợi nhắc về quá khứ. Mọi thứ liên quan tới Ai Cập đều cực kỳ trang nghiêm. Nó thắm đượm cảm giác vĩnh cữu, trường tồn, thách thức mọi đổi thay và thời gian, vượt qua chúng. Nơi chốn, con người và những tượng đài tỏa ra hơi thở vĩnh cữu.

Tôi vô cùng ngạc nhiên trước đoạn hùng biện của ông luật sư khô khan lầm lì này, nhưng thấy thế lại ưa hơn vì lòng nhiệt tình giúp ông ta trở nên giống con người hơn.

Muốn hùa theo thú vui của ông ta, nên tôi nói, “Con người sau bao thế kỷ đằng đẵng cũng phải thay đổi chứ?”

“Đúng thế. Những người chiến đấu chống lại vua Cambyses[28] không phải là tộc người năm nghìn năm trước đó đã tiến vào Ai Cập tức những vua chúa mà chúng ta vẫn nhìn thấy chân dung của họ trên các tượng đài cổ. Ròng rã suốt năm mươi thế kỷ, dòng máu người Hyksos, Syria, Ethiopia, Hittie và còn bao nhiêu tộc người khác không ai biết hẳn đã hòa trộn cùng với những người Ai Cập cổ. Nhưng đời sống của cả đất nước vẫn không bị gián đoạn, nền văn hóa cổ mở rộng tầm ảnh hưởng lên những người mới, và những người nhập cư lạ lẫm sau cùng trở thành người Ai Cập. Đó là một hiện tượng kỳ diệu. Xem xét từ thời đại của chúng ta, nó giống một niên đại địa chất hơn là lịch sử của một quốc gia duy nhất. Anh có chút hứng thú nào với chủ đề này không?”

“Có, mặc dù tôi hoàn toàn mù tịt về nó. Thật ra mối quan tâm của tôi cũng mới được nhen nhóm thôi. Gần đây tôi mới cảm nhận được sự kỳ diệu của những thứ liên quan tới Ai Cập cổ.”

“Có lẽ là từ khi anh quen biết cô Bellingham?” Ông Jellicoe phỏng đoán, mặt không hề biến sắc hệt như hình điêu khắc một người Ai Cập.

Chắc lúc đó tôi đã đỏ mặt - đương nhiên tôi không ưa gì lời nhận xét này - vì ông ta vẫn nói tiếp với giọng đều đều, “Tôi nói thế vì tôi biết cô ta quan tâm đến chủ đề này theo cách có học thức và thực chất cũng biết rất nhiều về nó.”

“Hình như cô ấy biết rất nhiều về những cổ vật Ai Cập, tôi công nhận nhận định của ông là chính xác, chính cô ấy đã cho tôi xem bộ sưu tập của ông bác mình.”

“Đúng như tôi nghĩ.” Ông Jellicoe nói, “Đó quả là một bộ sưu tập bổ ích với hầu hết mọi người, rất phù hợp để trưng bày trong Viện bảo tàng công cộng, mặc dù đối với các chuyên gia thì nó chẳng quá nổi bật. Các đồ đạc trong lăng mộ đều đẹp tuyệt, cái áo quan của xác ướp được chế tác, trang trí rất khéo.”

“Phải, tôi thấy nó đẹp thật. Nhưng ông có thể giải thích cho tôi biết tại sao sau khi đã bỏ bao nhiêu công sức trang trí, họ lại phá hỏng nó bằng những mảng nhựa bitumen bẩn thỉu không?”

“À!” Ông Jellicoe giật mình, “Một câu hỏi thú vị! Không khó để bắt gặp những xác ướp bị bôi bẩn bằng nhựa Bitumen. Một xác uố khác của thầy tế ở ngay phòng bên bị trát nhựa kín mít ngoại trừ khuôn mặt mạ vàng nữa cơ mà. Thứ nhựa bitumen này được phủ lên là có mục đích nhằm che đi những dòng chữ, nhờ thế sẽ che giấu cho thân phận của người đã chết khỏi bị trộm cướp và phá hoại lăng mộ. Xác ướp của Sobekhotep còn một điều đặc biệt nữa: Rõ ràng họ làm vậy có ý che đi những dòng chữ nên cả phần lưng được trát nhựa dày, và phần chân cũng thế, nhưng rồi hình như những người thợ đã thay đổi ý định, không động đến mấy dòng chữ và hình trang trí. Tại sao họ vốn định che nó đi, và tại sao khi đã tiến hành rồi lại chỉ trát nhựa một phần? Những điều này cho tới giờ vẫn còn là bí ẩn. Xác ướp được tìm thấy trong lăng mộ và chưa từng bị bọn trộm động tới. Ông Bellingham tội nghiệp rất muốn tìm hiểu lý do cho việc này.”

“Nói tới nhựa bitumen, tôi mới nhớ ra cái này cần hỏi.” Tôi nói, “Chất liệu này đã được các họa sĩ hiện đại sử dụng rất nhiều, nó có một đặc tính rất nguy hiểm, ý tôi muốn nói tới xu hướng vô cớ hóa lỏng trở lại rất lâu sau khi đã khô.”

“Phải, tôi biết điều đó. Chẳng phải có một câu chuyện về bức tranh của Reynold sử dụng nhựa bitumen hay sao? Hình như đó là chân dung của một quý bà. Bitumen mềm ra, làm một mắt của bà ta trượt xuống má, thế là người ta phải treo ngược bức tranh lại và giữ ấm cho đến khi cái mắt trở về đúng chỗ của nó. Nhưng câu hỏi của anh là gì?”

“Tôi tự hỏi liệu thứ bitumen được các nghệ sĩ Ai Cập cổ sử dụng có bị mềm ra sau một thời kỳ dài như vậy không.”

“Có, tôi nghĩ thế. Tôi đã từng nghe về những trường hợp lớp bitumen phủ ngoài bị mềm ra dưới những hoàn cảnh nhất định và khá ’dính’. Lạy Chúa! Tôi mải tán chuyện quá nên là phí bao nhiêu thời gian của anh, đã chín giờ kém mưới lăm rồi!”

Vị khách của tôi vội vã đứng dậy. Sau khi xin lỗi rối rít vì đã giữ ông ta lại, tôi giữ đúng lời hứa dẫn ông ta tới tận ngôi nhà. Trong khi hai chúng tôi đi cùng nhau, sự huyền diệu của Ai Cập mờ đi phần nào, đến khi ông ta cứng nhắc bắt tay tôi trước cổng nhà Bellingham, tất cả sự hoạt bát lẫn nhiệt tình của ông ta đã biến mất, chỉ còn lại viên luật sư lầm lì, khô khan, ít nói, và đương nhiên, vẫn thuộc diện đáng ngờ.