← Quay lại trang sách

NIỀM VUI TRONG VIỆN BẢO TÀNG

Có phải việc thực hành đã đánh thức kỹ năng bị lãng quên trong tôi, hay cô Bellingham đã đánh giá lượng công việc nhiều quá mức, tôi không thể nói được. Nhưng dù lý do gì, sự thật là đến chiều hôm thứ tư, công việc của chúng tôi đã gần hoàn thành, tôi phải lấy cớ để lại một phần nhỏ để có một chuyến viếng thắm nữa tới phòng đọc sách.

Khoảng thời gian hợp tác tuy ngắn ngủi nhưng đủ để thay đổi hẳn mối quan hệ giữa hai chúng tôi, bởi lẽ chẳng có tình bạn nào thân mật và hạnh phúc bằng thứ tình cảm sinh ra từ việc cùng làm chung, và cũng chẳng có tình cảm nào giữa nam và nữ lại thẳng thắn và toàn vẹn đến thế.

Mỗi ngày đến đó, tôi đều thấy một chồng sách có những đoạn văn đã được đánh dấu cẩn thận, cũng như tự bản thân đã chuẩn bị sẵn sàng cuốn sổ tay khổ bốn bìa xanh dương. Mỗi ngày chúng tôi làm việc đều đặn, xử lý phần công việc đã chia sẵn, rồi trả lại sách và cùng nhau thưởng thức một tách trà thân mật trong cửa hàng sữa rồi từ đó đi về theo lối Quảng trường Nữ hoàng, tán gẫu về các việc đà làm trong ngày và chuyện thế giới thời xa xưa khi vua Ahkhennaten còn trị vì hay những tấm bảng Tell el-Amarna còn là những lá thư.

Đó quả là một quãng thời gian dễ chịu, thực sự dễ chịu, đến nỗi khi trả lại những cuốn sách sau cuối, tôi đã thở dài mà nghĩ mọi chuyện hết thật rồi, không chỉ là nhiệm vụ của chúng tôi, mà còn là cả bàn tay bị thương của người bệnh nhân xinh đẹp của tôi, vì trong buổi sáng hôm đó tôi quyết định tháo nẹp, có nghĩa cô không cần đến sự giúp đỡ của tôi nữa.

“Chúng ta sẽ làm gì đây?” Chúng tôi bước ra sảnh trung tâm, tôi lên tiếng, “Hẵng còn quá sớm để dùng trà, ta cùng đi ngắm các phòng trưng bày nhé?”

“Tại sao lại không nhỉ?” Cô trả lời, “Chúng ta có thể đi xem những cổ vật liên quan tới những gì chúng ta đã nghiên cứu mấy ngày vừa rồi, bức phù điêu của Ahkhennaten trên gác trong phòng Ai Cập số 3 chẳng hạn, hãy cùng đến đó xem đi!”

Tôi phấn khởi đồng ý, làm theo sự hướng dẫn của cô gái đầy kinh nghiệm. Chúng tôi bắt đầu đi về hướng phòng trưng bày cổ vật La Mã, ngang qua một hàng dài những tượng Hoàng đế La Mã nổi tiếng và nhìn có vẻ hiện đại.

Cô ngừng lại một thoáng trước một bức tượng bán thân có tên “Trận” (nhưng rõ ràng là tương Phil May[22]), “Làm sao tôi có thể cảm ơn hết những gì anh đã làm cho cho tôi đây, chưa nói gì tới đền đáp?”

“Cô không cần phải làm cả hai điều đó,” Tôi đáp, “Tôi rất vui khi được làm việc cùng cô và đó chính là phần thưởng cho tôi rồi. Nhưng mà…” Đến đây, tôi nói thêm, “Nếu muốn ban cho tôi một ân huệ thật lớn, cô vẫn có thể làm được đấy.”

“Bằng cách nào?”

“Nó liên quan tới người bạn của tôi - Tiến sĩ Thorndyke. Tôi từng kể với cô rằng ông ấy là người cực kỳ nhiệt huyết. Giờ thì ông ấy đang rất quan tâm đến mọi thứ có liên quan tới ông bác cô vì một lý do nào đó, và theo tôi được biết, nếu bất kỳ thủ tục pháp lý nào được tiến hành, ông ấy sẽ rất muốn được theo dõi diễn biến sự việc, theo cách thân thiện thôi.”

“Vậy anh muốn tôi làm gì?”

“Tôi muốn cô nếu có cơ hội để ông ta có thể đưa ra những lời khuyên hoặc giúp đỡ cha cô dưới bất kỳ hình thức nào, hãy sử dụng sức ảnh hưởng của mình với cha cô để thuyết phục cha cô chập nhận thay vì gạt bỏ nó... đương nhiên nếu cô không phản đối.”

Cô Bellingham trầm ngâm nhìn tôi một hồi, rồi bật cười khe khẽ.

“Vậy ra cái ân huệ lớn lao mà tôi cần ban cho anh là để anh tiếp tục thực hiện thêm những nghĩa cử cao đẹp nữa thông qua người bạn của anh!”

“Không!” Tôi phản đối, “Đó chính là điểm mà cô đang nhầm lẫn. Đây không phải là bố thí, mà là niềm đam mê thuần thúy với chuyên môn của Tiến sĩ Thorndyke.”

Cô mỉm cười vẻ hoài nghi.

“Cô vẫn chưa tin tôi.” Tôi nói, “Nhưng hãy thử xem xét một vài trường hợp khác nhé. Tại sao một nhà phẩu thuật lai rời giường giữa đêm đông để thực hiện một ca cấp cứu ở bệnh viện? Ông ta không được trả công cho việc đó. Cô có nghĩ đó hoàn toàn là do lòng nhân đức?”

“Phải, dĩ nhiên. Không phải thế sao?”

“Chắc chắn là không. Ông ta làm thế vì đó là công việc, vì nghề nghiệp của ông ta là chiến đấu với bệnh tật, và chiến thắng.”

“Tôi không thấy có sự khác biệt nào lớn lắm.” Cô nói, “Công việc đó được thực hiện xuất phát từ tình cảm thay vì tiền bạc. Tuy thế, tôi sẽ làm như anh yêu cầu nếu có cơ hội, nhưng tôi sẽ không coi đó là để trả ơn những việc quá tử tế mà anh đã làm cho tôi.”

“Tôi không phiền đâu, miễn là cô giúp tôi việc đó.” Chúng tôi tiếp tục bước đi trong im lặng.

“Chẳng phải rất kỳ quặc sao?” Cô bỗng cất tiếng, “Những cuộc tán gẫu của chúng ta lúc nào cũng trở về chủ đề ông bác tôi. Oi chà, tự dưng tôi nhớ ra những vật ông ấy để lại cho Viện bảo tàng cất cùng phòng với bức phù điêu Ahkhennaten đấy, anh muốn xem không?”

“Đương nhiên là có.”

“Thế thì chúng ta sẽ cùng đi xem những vật đó trước.” Cô ngừng lại, và rồi, có phần hơi ngượng ngùng, mặt cô ửng đỏ, “Tôi muốn giới thiệu anh với một người bạn rất thân thiết của tôi, dĩ nhiên nếu anh cho phép.”

Cô nói thêm vế cuối cùng một cách vội vã, có lẽ do thấy tôi tỏ vẻ cau có khi nghe nó. Thực chất thâm tâm tôi chẳng hứng thú gì với bạn của cô đặc biệt nếu người đó là đàn ông, nhưng ngoài mặt tôi lại tỏ ra hào hứng muốn làm quen với bất kỳ ai có vinh dự được làm bạn với cô. Thành thử, trước vẻ lúng túng của tôi, cô bật cười đầy ẩn ý, tiếng cười rất nhẹ, trầm và du dương, như tiếng gù cyar loài bồ câu thần thánh.

Tôi bước đi bên cạnh cô, lo lắng phỏng đoán về cuộc gặp gỡ sắp tới. Liệu tôi có bị dẫn tới hang ổ của một trong những người giúp việc gắn bó với tòa nhà này? Liệu anh ta có trở thành kẻ thứ ba thừa thãi trong bữa tiệc nhỏ dành cho hai người của chúng tôi - một cặp đôi quá hoàn chỉnh và thân mật, chỉ một mình tôi cùng một cô gái chưa chồng, giữa chốn đông đúc nhưng hoang vu? Trên hết, liệu đó có phải một chàng trai trẻ, khiến những lâu đài trên mây của tôi đổ vỡ tan tành? Cái nhìn ngượng ngập và khuôn mặt ửng đỏ của cô khi nói tới chuyện này là những dấu hiệu đáng ngại, khiến tôi buồn bã trầm ngâm trong lúc cả hai bước lên cầu thang và đi qua một cánh cửa rộng. Tôi thấp thỏm liếc nhìn người bạn đồng hành của mình để rồi bắt gặp một nụ cười nhẹ nhàng đầy bí hiểm. Đúng lúc ấy, cô dừng lại trước một chiếc tủ kính rồi xoay lại phía tôi.

“Người bạn của tôi đây.” Cô nói, “Xin được giới thiệu với anh, Artemidorus - một xác ướp Fayyum. Thôi, đừng cười mà!” Cô khẩn nài, “Tôi đang rất nghiêm túc đây. Chẳng lẽ anh chưa từng nghe những con chiên Thiên Chúa ngoan đạo tôn sùng một vị thánh đã khuất từ lâu? Đó chính là cảm xúc của tôi dành cho Artemidorus. Giá mà anh biết được ông ấy đã đem lại niềm an ủi thế nào cho trái tim của một phụ nữ cô đơn! Ông ấy quả thực là một người bạn thâm trầm, dễ chịu với một người trong cảnh đơn độc, không bạn bè như tôi, lúc nào cũng sẵn sàng một lời chào nồng ấm trên khuôn mặt dịu dàng, trầm ngâm, chỉ riêng điều đó cũng đủ để mà yêu quý ông ấy rồi. Tôi mong anh cũng thích ông ấy và đồng cảm với tình bạn giữa chúng tôi. Có phải tôi đang rất ngớ ngẩn, rất yếu đuối không?”

Cảm giác nhẹ nhõm trào dâng trong lòng, cái nhiệt kế thủy ngân cảm xúc của tôi khi nãy đã tụt gần đến gốc, giờ lại vọt lên như trong nắng hè ấm áp. Cô thật đáng yêu làm sao, và ý muốn chia sẻ tình bạn bí ẩn này của cô với tôi cũng đầy dịu dàng, thân mật! Tuy nhiên chuyện này quả là kỳ lạ, một cô gái bí ẩn lạ lùng luôn ghé thăm để đối thoại trong im lặng với một người đã khuất từ lâu, tất thảy đều khiến tôi cảm động sâu sắc, ngay cả khi đang phấn khích với tình cảm vừa chớm bở.

“Anh không vừa ý à?” Cô hỏi, thoáng lộ vẻ thất vọng vì không thấy tôi nói gì.

“Hoàn toàn không,” Tôi trả lời thật thà, “Tôi chỉ muốn bày tỏ lòng cảm thông và trân trọng của mình mà không nói quá lên khiến cô phật ý, vì thế tôi chưa biết phải diễn đạt thế nào cả.”

“Ôi, đừng lo phải diễn đạt thế nào, miễn là anh thực sự cảm thấy thế. Tôi tin là anh hiểu được.” Cô nhoẻn miệng cười khiến toàn thân tôi run rẩy vì hạnh phúc.

Chúng tôi đứng yên lặng một lúc và ngắm người bạn xác ướp Artemidorus của cô. Nhưng đây không chỉ là một xác ướp bình thường. Tuy có vẻ bề ngoài kiểu Ai Cập, nó đem lại cái cảm giác Hi Lạp đặc trưng, cách trang trí sawck sỡ theo đúng phong cách của nền văn hóa chuộng màu sắc, chiếc quách được chạm trổ cực kỳ trang nhã khiến những mẫu vật khác xung quanh có vẻ lòe loẹt cổ hủ. Nhưng nét đáng chú ý nhất là một bức tranh tuyệt đẹp ở vị trí của mặt nạ thông thường, đó đúng là một sự khai sáng đối với tôi. Ngoại trừ việc được vẽ bằng màu keo thay vì màu dầu, bức tranh không khác gì những tác phẩm hiện đại, ở nó không có vẻ gì cũ kỹ hay cổ xưa cả. Với phong cách vẽ phóng khoáng, tái hiện chính xác ánh sáng và bóng tối, trông nó như thể mới được vẽ hôm qua, chắc chắn nếu đặt trong một cái khung mạ vàng thông thường, bức tranh tuyệt đối không lạc lõng giữa một triển lãm các tác phẩm hiện đại.

Cô Bellingham quan sát vẻ thán phục của tôi và mỉm cười đồng tình.

“Đúng là một bức chân dung nhơ quyến rũ phải không nào?” Cô nói, “Khuôn mặt cũng thật dịu dàng, đầy suy tư và nhân bản, đượm chút buồn. Nhưng toàn bộ mẫu vật toát lên vẻ lôi cuốn. Tôi đã thích nó ngay từ cái nhìn đầu tiên, và nó mang đậm phong cách Hi Lạp.”

“Đúng thế, mặc dù có các họa tiết thần thánh và biểu tượng Ai Cập.”

“Có lẽ chính vì những thứ đó thì đúng hơn, tôi nghĩ thế.” Cô trình bày, “Ở đây chúng ta có thể nhìn thấy phong thái Hi Lạp điển hình, sự nồng ấm, tính phóng khoáng để lĩnh hội vẻ đẹp của cả những hình thức nghệ thuật kỳ quái nhất. Đây là Thần Anubis đứng cạnh chiếc đòn khiên, đây là Isis và Nephthys, bên dưới là Horus và Tahuti. Nhưng chúng ta không thể vì thế mà coi Artemidorus là người tôn thờ hay tin vào những vị thần đó. Những họa tiết này được vẽ lên đây bởi chúng là những hình trang trí tuyệt đẹp và phù hợp một cách hoàn hảo. Cảm xúc thật của những người yêu quý ông ấy nổi bật ở các dòng chữ.” Đoạn, cô trỏ tay vào một hàng chữ bên dưới phần ngực, nơi có hai từ tiếng Hi Lạp mạ vàng.

“Ừm …” Tôi công nhận, “Quả thực rất thanh nhã và đầy tính nhân bản.”

“Chân thực nữa chứ, chất chứa những cảm xúc thật.” Cô nói thêm, “Tôi cảm động không lời nào diễn tả nổi. ‘Ôi Artemidorus, vĩnh biệt! ’, đây là dòng chữ thể hiện niềm tiếc thương thực sự của con người, thể hiện nỗi đau khi phải chia lìa vĩnh viễn. Nó thật vô cùng thanh nhã nếu đem so sánh với sự khoe mẽ thô bỉ của các văn bia Do Thái hay của chính cái trò khốn khổ, giả dối ‘Đi trước chứ không mất đi’ của chúng ta. Ông ấy đã bị cướp đi khỏi bọn họ mãi mãi, họ chỉ có thể nhìn thấy khuôn mặt ông nhưng không bao giờ còn được nghe tiếng ông nữa, họ nhận ra rằng đây là lời từ biệt cuối cùng. Chỉ trong hai từ giản dị mà chứa đựng cả một thế giới tình cảm và đau thương!”

Nhất thời, hai chúng tôi cùng yên lặng. Những hồi tưởng đầy mê hoặc về nỗi tiếc thương đã bị chôn bùi từ rất lâu choáng lấy tâm trí, tôi chỉ đứng im lặng bên cạnh người bạn đồng hành yêu quý của mình, tưởng nhớ những bóng ma của cảm xúc con người cách đây bao thế kỷ với một thoáng âu sầu dễ chịu. Chợt cô xoay lại phía tôi với một nụ cười thành thật, “Anh bị thử thách bằng cán cân của tình bạn…” Cô nói, “Và đã tỏ ra không hề nao núng. Anh sở hữu món quà của niềm cảm thông ngay cả khi đang đối diện với mơ mộng vẩn vơ yếu đuối của một người phụ nữ.”

Tôi ngờ rằng phần lớn những người đàn ông khác cũng sẽ có được đức tính quý hóa đó trong hoàn cảnh này mà thôi, nhưng đương nhiên tôi sẽ không nói ra điều ấy rồi. Làm người khác cụt hứng thật vô nghĩa! Tôi mừng vì đã chiếm được cảm tình của cô một cách dễ dàng đến thế, sau đó cô quay người rời khỏi chiếc quách để sang căn phòng kế bên, đi bên cạnh cô bây giờ là một chàng trai trẻ đầy tự mãn.

“Đây là Ahkhennaten, hay Khu-en-aten theo cách mà các nhà nghiên cứu ở phiên âm chữ tượng hình.” Cô chỉ vào một mảnh chạm khắc được tô màu với ghi chú: “Một phần của tấm tranh đá vẽ chân dung Amenhotep Đệ Tứ”. Chúng tôi dừng lại ngắm nhìn vẻ mỏng manh có phần nữ tính của vị vua vĩ đại với hộp sọ lớn, chiếc cằm nhọn kỳ lạ và chiếc đĩa mặt trởi[23] tỏa ra những tia nắng giống như những bàn tay kỳ quặc đang vuốt ve ông ta.

“Chúng ta không nên đứng lại đây nữa nếu anh còn muốn xem món quà của bác tôi, vì phòng này đóng cửa lúc bốn giờ.” Cô nhắc nhở rồi bước tới đầu kia căn phòng, dừng lại trước một chiếc tủ kính lớn đựng một xác ướp và nhiều cổ vật khác. Nhãn dán màu đen chữ trắng trên đó miêu tả vắn tắt các vật trong tủ như sau:

“Xác ướp của Sobekhotep - quan chép sử của triều XXII, cùng với các cổ vật được tìm thấy trong lăng mộ bao gồm bốn bình đựng nội tạng, tượng Ushabti, các vật dụng trong lăng mộ và vài món đồ của người đã chết, chiếc ghế ưa thích của ông ta, gối đầu, bảng mực có ghi tên ông và tên Hoàng đế Osorkon I trị vì ở thời đại, cùng với vật dụng nhỏ khác. Được hiến tặng bởi quý ngài John Bellingham.”

Cô Bellingham giải thích, “Họ đã để tất cả các cổ vật vào chung một chiếc tủ để người xem hình dung được những vậy dụng thông thường trong lăng mộ tầng lớp quý tộc. Anh có thể thấy người chết được cung cấp đầy đủ các vật dụng thường ngày. Đồ đạc, bàn ghế, bằng mực mà ông ta thường dùng để viết lên giấy cói, và một nhóm người hầu chờ phục vụ.”

“Những người hầu đâu?” Tôi hỏi.

“Những bức tượng Ushabti nhỏ đó.” Cô trả lời, “Họ là những người chứng kiến cái chết, hay cũng chính là người hầu của ông ta dưới cõi âm. Đúng là một suy nghĩ kỳ quặc phải không? Nhưng tất cả đều toàn diện và nhất quán nếu ta tin cuộc sống vẫn tồn tại sau khi thể xác mất đi.”

“Phải.” Tôi đồng tình, “Đây là cách công bằng duy nhất để phán xét một hệ thống tôn giáo, mặc nhiên công nhận những đức tin chủ chốt. Nhưng hẳn là phải vất vả lắm người ta mới mang được tất cả những thứ này từ Ai Cập tới London.”

“Mà cũng không uổng, vì đây quả là một bộ sưu tập tuyệt đẹp và bổ ích. Các cổ vật đều rất tinh xảo. Anh có thể để ý thấy các bức tượng Ushabti và những cái đầu trên nắp bình nội tạng đều được tạo hình rất khéo. Cả bàn chân xác ướp cũng đẹp, tuy lớp nhựa bitumen phết phía sau chẳng giúp ích được gì, nhưng hẳn Sobekhotep đã từng là một người điển trai.”

“Chiếc mặt nạ đặt trên mặt là chân dung ông ta hả, tôi đoán thế?”

“Phải, thực ra còn hơn thế nữa. Ở một chừng mực nào đó, đây chính là khuôn mặt thật của người này. Xác ướp được đặt trong áo quan làm theo đúng hình người. Chiếc áo quan này được làm bằng từng lớp vải lanh hoặc giấy cói gắn bằng keo hoặc xi măng. Khi xác ướp được đặt vào bên trong, áo quan được ép theo hình người, vậy nên đường nét khuôn mặt và các chi thường khá rõ ràng. Sau khi xi măng đã khô, chiếc áo quan được phủ một lớp thạch cao mỏng và khuôn mặt được làm cho rõ nét hơn, sau đó các hình trang trí và chữ được vẽ lên đó. Vậy nên anh có thể thấy trong áo quan, cơ thể được phong kín hệt như hạt dẻ bên trong lớp vỏ của nó, khác với các xác ướp cổ xưa khi chúng chỉ đơn giản được quấn và đặt trong quan tài bằng gỗ.”

Đúng lúc này một giọng quả quyết vang lên bên tai chúng tôi lịch sự báo đã tới giờ đóng cửa, cùng lúc đó cơn thèm trà khiến chúng tôi nảy ra ý quay lại cửa hàng sữa mến khách nọ. Với vẻ thảnh thơi và tảng lờ người nhân viên đang dẫn chúng tôi ra khỏi phòng trưng bày, chúng tôi quay trở lại lối vào Viện bảo tàng, tiếp tục mải mê nói chuyện về chủ đề nghi thức chôn cất thời xưa.

Rời Viện bảo tàng, vẫn còn khá sớm so với thường lệ, hơn nữa đây lại là ngày cuối cùng của chúng tôi ít nhất là trong thời điểm hiện tại, do đó chúng tôi cố nán lại bên tách trà lâu đến mức bà chủ hiệu sữa nhìn chúng tôi bằng vẻ không mấy hài lòng. Dọc đường về nhà, chúng tôi đi theo nhiều lối ngang đến nỗi mãi sáu giờ mới tới Lincoln’s Inn Fields, tại đây chúng tôi đi đường vòng ngang qua Quảng trường Russell, Quảng trường Red Lion với lối đi cổ kính cùng tên, Bedford Row, Jockey’s Fiekds, Hand Court, và Great Turnstile (cùng một vài nơi khác).

Ơ con phố chót cùng này, sự chú ý của chúng tôi bị hút về phía tấm poster sặc sỡ trước cửa một quầy báo với dòng tiêu đề giật gân sau:

“THEM NHỮNG BỘ PHẬN KHÁC CỦA NGƯỜI BỊ GIẾT!”

Cô Bellingham liếc nhìn tấm poster và rùng mình.

“Thật kinh khủng!” Cô cảm thán, “Anh đã đọc tin đó chưa?”

“Vài ngày gần đây tôi không đọc báo.” Tôi đáp.

“Dĩ nhiên là không rồi, anh đã phải đổ bao nhiêu công sức vào mấy tờ ghi chú của nợ ấy. Chúng tôi cũng không thường xuyên đọc báo lắm, ít nhất chúng tôi không đem về nhà, nhưng bà Oman đúng là một người kinh dị khi hứng thú với đủ chuyện rùng rơn, mà càng rùng rợn thì bà ấy lại càng thích.”

“Nhưng…” Tôi thắc mắc, “Họ đã tìm thấy gì?”

“Ừm… thi thể của ai đó đã bị giết và chặt thành từng mảnh. Thật kinh khủng! Đọc tin này mà tôi rùng mình, vì tôi không thể ngăn mình ngưng nghĩ tới bác John tội nghiệp, còn cha tôi thì nổi giận đùng đùng.”

“Có phải những mẩu xương này được tìm thấy trong một vườn cải xoong ở Sidcup?”

“Phải, nhưng họ đã tìm thêm được vài mảnh nữa. Cảnh sát đã làm việc cực kỳ tích cực. Hình như họ đã tiến hành tìm kiếm một cách có hệ thống và kết quả là thu được thêm vài phần thi thể nữa, một mảnh lại ở một nơi khác nhau: Sidcup, Lee, St Mary Cray. Hôm qua báo có đưa tin một cánh tay mới được tìm thấy tại hồ nước có tên Cockoo gần ngôi nhà cũ của chúng tôi!”

“Gì cơ! Ở Essex à?” Tôi bật thốt.

“Ừ, trong rừng Epping, gần Woodford. Thật kinh hoàng khi nghĩ về nó phải không? Có lẽ chúng đã bị giấu khi chúng tôi còn đang sống ở đó. Tôi nghĩ chính điều này đã khiến cha tôi hoảng sợ đến thế. Lúc đọc tin này, ông ấy giận dữ đến độ ôm cả mớ báo ném ra cửa số, khổ thân bà Oman phải chạy ra sân nhặt hết lại.”

“Cô có nghĩ ông ấy đoán chúng là những phần thi thể của bác cô?”

“Tôi có, dù ông không nói lời nào, đương nhiên tôi cũng không gợi ra làm gì. Chúng tôi luôn cố duy trì ảo tưởng rằng bác John vẫn còn sống.”

“Nhưng cô không tin ông ấy còn sống, đúng chứ?”

“Không, tôi e rằng nó là sự thật, và tôi đoán chắc cha tôi cũng vậy, chẳng qua ông ấy không muốn thú nhận với tôi mà thôi.”

“Cô có nhớ phần xương nào đã được tìm thấy không?”

“Không. Tôi biết một cánh tay được tìm thấy ở hồ Cuckoo, hình như có cả một xương đùi đã được phát hiện dưới áo gần St Mary Cray. Nhưng bà Oman có thể kể hết cho anh nếu anh cần. Bà ấy sẽ mừng lắm khi gặp được người tâm đầu ý hợp.” Cô Bellingham cười mỉm.

“Tôi không dám khẳng định mình tâm đầu ý hợp với một kẻ kinh dị đâu.” Tôi vội chối, “… Lại còn hay cáu bẩn.”

“Ấy, đừng chê bai bà ấy như thế, bác sĩ Berkeley!” Cô Bellingham nài nỉ, “Bà ấy không phải người nóng nảy đâu mà, chẳng qua bề ngoài hơi khó tính. Đáng lẽ tôi không nên gọi bà ấy như thế, bởi thực chất bà ấy là một chú nhím thiên thần dịu dàng nhất, tốt nhất, ít vị kỷ nhất mà anh có thể gặp trên đời. Anh có biết bà ấy sẽ chẳng quản ngại vất vả để giúp cho bộ váy của tôi trở nên đẹp mắt một chút, vì bà ấy mong tôi sẽ trông thật xinh đẹp trong bữa tối nho nhỏ của anh không?”

“Dù thế nào thì cô cũng xinh đẹp sẵn rồi mà.” Tôi nói, “Song tôi sẽ rút lại lời nhận xét của mình về tính khí nóng nảy của bà ấy. Tôi thực sự không có ý đó, cô hiểu, phải không? Tôi lúc nào cũng yêu quý bà già nhỏ bé đó.”

“Phải rồi, sao bây giờ anh không vào nói chuyện vài phút với cha tôi nhỉ? Chúng ta về khá sớm dù đã lượn đủ đường ngang ngõ tắt.”

Tôi phấn khởi đồng ý ngay, đặc biệt là bởi tôi muốn trao đổi vài lời với bà Oman về vấn đề thức ăn mà không phải nói trước mặt những người bạn của mình. Thế là tôi vào tán gẫu cùng ông Beliingham, chủ yếu là về những việc mà chúng tôi cùng làm ở Viện bảo tàng, cho đến khi đã tới giờ tôi cần phải trở về phòng khám.

Sau khi cáo từ, tôi thong thả bước xuống cầu thang để đôi giày của mình gây ra thật nhiều tiếng cọt kẹt. Kết quả đúng như kỳ vọng, tôi vừa bước tới cửa phòng bà Oman, nó liền bật mở và bà già ấy thò đầu ra ngoài.

“Nếu tôi mà là anh, tôi sẽ chuyển hiệu làm giày khác đấy.” Bà ta gắt.

Tôi nghĩ tới cụm từ “con nhím thiên thần” và suýt nữa bật cười.

“Tôi tin chắc là như thế, bà Oman ạ, ngay lập tức là đằng khác, mặc dù tôi phải nhắc bà rằng người đàn ông tội nghiệp đó chẳng thể thay đổi vẻ ngoài của tôi được.”

“Anh là một thanh niên trẻ láu cá đấy.” Bà nói với vẻ cay nghiệt, lẳng lặng nhìn tôi với ánh mắt ác nghiệt trong khi tôi ngoác miệng cười. Chợt nhớ ra nhiệm vụ, tôi lập tức lấy lại vẻ nghiêm túc, tôn tính.

“Bà Oman.” Tôi gọi, “Tôi thực sự rất muốn nghe lời khuyên của bà về một vấn đề khá quan trọng, ít nhất là với tôi.” “Hẳn điều này sẽ làm bà thích thú, tôi nghĩ thầm, “Mồi câu bằng lời khuyên” mà Izaak Walton đã từng không đánh giá cao[24] thực chất lại luôn phát huy tác dụng dưới bất kỳ điều kiện thời tiết nào. ) Và đúng thất. Bà ta tức khắc nuốt chửng miếng mồi của tôi, cả lông lá và phần thân bằng sợi đan.

“Chuyện gì thế?” Bà hỏi dồn, “Đừng đứng ở noi mà ai cũng có thể nghe thấy ngoại trừ chính tôi. Vào đây ngồi đã!”

Tôi không muốn bàn bạc vấn đề này ở đây, vả lại giờ cũng không phải lúc. Thế là tôi cố tình ra vẻ bí hiểm, “Không được, bà Oman ạ. Tôi phải về phòng khám ngay. Nhưng nếu bà có dịp ghé qua và dành ra vài phút để xem xét vấn đề, tôi sẽ biết ơn bà lắm đấy. Tôi thực sự không biết phải làm gì nữa.”

“Có lẽ thế. Đàn ông hiếm khi biết mình phải làm gì. Nhưng anh vẫn còn khá hơn phần lớn mọi người vì anh biết khi nào thì mình thực sự khó khăn và có đủ minh mẫn để xin lời khuyên từ một người phụ nữ. Nhưng đó là chuyện gì thế? Có lẽ tôi cần có thời giann để suy nghĩ về nó trước.”

“Chà, bà biết đấy…” Tôi bắt đầu thoái thác, “Chỉ là một việc đơn giản thôi, nhưng tôi không thể… Ối trời ơi!!!” Tôi nói thêm, mắt nhìn đồng hồ, “Tôi phải vắt chân lên cổ mà chạy đây, nếu không thì sẽ có hàng tá người phải chờ tôi mất.” Dứt lòi, tôi lao vụt đi, để lại bà Oman nhảy múa trong sự tò mò theo đúng nghĩa đen.