LẬT LẠI CÁC CHỨNG CỨ
“Vậy là cuộc chơi đã bắt đầu.” Thorndyke lên tiếng, quẹt một que diêm, “Trận đấu đã bắt đầu với sự mở màn thận trọng của đối thủ. Rất thận trọng và không được tự tin cho lắm.”
“Sao thầy lài nói ‘không tự tin cho lắm’?” Tôi hỏi.
“Ồ, có vẻ như Hurst, và tôi nghĩ là cả Jellicoe nữa, đã tỏ ra quá sốt sắng muốn dùng tiền mua chuộc Bellingham với một cái giá rất cao trong hoàn cảnh này. Xét tới việc Bellingham chỉ có thể chống cự yếu ớt thế nào nếu người ta công nhận anh trai ông ta đã chết, có lẽ về phía mình, Hurst cũng chẳng có bằng cớ gì nhiều.”
“Không.” Jervis nói, “Chắc chắn ông ta không có nhiều át chủ bài trong tay, bằng không, chẳng bao giờ có chuyện ông ta sẵn sàng trả bốn trăm một năm để mua chuộc đối thủ. Tốt thôi, tôi thấy có vẻ những quân bài ta đang có trên tay cũng chẳng khả quan lắm.”
“Chúng ta phải nhìn xa hơn những quân bài mình đang có trong tay thì mời biết mình thực sự đang nắm giữ những gì.” Thorndyke nói, “Quân chủ bài của chúng ta hiện giờ chỉ e rằng khá nhỏ, nó chính là chủ địn hiển nhiên của người lập di chúc rằng phần lớn tài sản sẽ được truyền lại cho em trai ông ta.”
“Có phải bây giờ thầy sẽ bắt đầu điều tra?” Tôi hỏi.
“Chúng tôi đã bắt đầu từ trước rồi, ngay từ sau hôm anh mang bản di chúc đến cho chúng tôi. Jerrvis đã kiểm tra sổ đăng kí và biết chắc chắn là kể từ khi John Bellingham biến mất, không có ai tên như thế được mai táng, đúng như những gì chúng tôi dự đoán. Anh ta còn phát hiện được một người khác cũng đang tiến hành những điều tra tương tự; một lần nữa, đúng như dự đoán.”
“Và cuộc điều tra của thầy thì sao?”
“Hầu hết chỉ mang lại những kết quả tiêu cực. Tôi thấy Giáo sư Norbury ở Viện bảo tàng Anh quốc rất thân thiện và sẵn lòng giúp đỡ, thực ra là quá thân thiện đến nỗi tôi đang nghĩ liệu có nên tranh thủ nhờ ông ấy giúp mình trong một số nghiên cứu cá nhân của riêng tôi, tham vấn ông ấy về sự thay đổi tính chất vật lý của những chất nhất định theo thời gian hay không.”
“Ôi, thầy chưa từng nói với tôi chuyện đó!” Jervis nói.
“Tôi chưa thực sự bắt tay vào lên kế hoạch cho các thí nghiệm của mình, mà ngay cả khi tôi có làm các thí nghiệm thì cũng có thể chúng sẽ chẳng mang lại kết quả gì cả. Tôi nghĩ là, có lẽ sau một khoảng thời gian nào đó, một số thay đổi ở cấp độ phân tử có khả năng xảy ra với các chất như gỗ, xương, đồ gốm, vữa, lẫn các vật liệu thông thường khác, và những thay đổi này có thể làm thay đổi khả năng phát hoặc truyền dẫn rung động phân tử của chúng. Nếu đúng là như vậy, đó sẽ là một phát kiến vô cùng quan trọng về mặt pháp y vì nó sẽ cho phép xác định một cách tương đối độ tuổi của bất kỳ vật thể nào một khi biết được thành phần cấu thành nên nó bằng cách kiểm tra phản ứng của nó với điện, nhiệt, ánh sáng và các rung động phân tử khác. Tôi đã nghĩ tới chuyện nhờ Tiến sĩ Norbủy hỗ trợ vì ông ấy có thể cung cấp cho tôi các vật liệu thí nghiệm rất cổ xưa để các phản ứng, nếu có, sẽ đều rất rõ ràng. Nwhng thôi, quay lại vụ án của chúng ta. Ngài tiến sĩ ấy cho tôi biết ông John Bellingham có một vài người bạn ở Paris là những nhà sưu tầm và các quan chức của Viện bảo tàng, ông ta thường đến thăm họ để phục vụ mục đích nghiên cứu và trao đổi các mẫu vật. Tôi đã điều tra tất cả những người đó nhưng chẳng ai gặp ông ta trong chuyến đi lần trước của ông ta tới đó. Thực tế thì tôi vẫn chưa tìm được bất cứ ai nhìn thấy Bellingham xuất hiện ở Paris dịp ấy. Vì thế nên cho tới giờ, chuyến đi này vẫn còn là một ẩn số.”
“Chuyện đó có vẻ chẳng quan trọng lắm đâu, vì chắc chắn ông ta đã trở lại mà.”
Tôi nhận xét, nhưng Thorndyke phản đối, “Không thể ước định tầm quan trọng của những điều chưa biết.” Ông nói.
“Hừm, vậy ta có thể đánh giá tình hình thế nào dựa trên những chứng cứ mà mình có?” Jervis đặt câu hỏi, “John Bellingham đã biến mất vào một ngày xác định. Có gì cho thấy cách thức ông ta biến mất không?”
Thorndyke giải thích, “Chứng cứ mà chúng ta có chủ yếu là những gì được viết trên báo cho thấy một vài khả năng khác có thể xảy ra, trong hoàn cảnh cuộc hội thẩm sắp được tiến hành, vì họ chắc chắn sẽ mang vụ này ra tòa nên ở một chừng mực nào đó, chúng có thể đáng để xem xét. Có năm giả thiết như sau.” Đến đây Thorndyke vừa nói vừa đếm trên đầu ngón tay, “Thứ nhất, có thể ông ấy vẫn còn sống. Thứ hai, có thể ông ấy đã chết và được chôn cất không xác định danh tính. Thứ ba, ông ấy đã bị giết bởi một kẻ nào đó mà ta chưa biết. Thứ ta, ông ấy có thể bị giết bởi tay Hurst và thi thể đã bị giấu đi. Thứ năm, ông ấy có thể bị giết bởi em trai mình. Chúng ta hãy cùng lần lượt xem xét các khả năng này.”
Thứ nhất, có thể ông ấy vẫn còn sống. Nếu vậy, hẳn ông ấy đã biến mất một cách có chủ đích, hoặc đột ngột mất trí nhớ và không ai nhận diện được, hoặc vào tù do bị buộc tội oan hoặc không. Hãy cùng xem xét khả năng đầu tiên: Biến mất có chủ đích. Hiển nhiên khả năng này là vô cùng khó xảy ra.”
“Jellicoe không nghĩ thế,” Tôi nói, “Ông ta cho rằng ông John Bellingham hoàn toàn vẫn có thể còn sống. Ông ta nói việc một người đàn ông biến mất một thời gian cũng không phải chuyện quá bất thường.”
“Vậy thì tại sao ông ta lại ủng hộ việc xin tòa công nhận người mất tích đã chết?”
“Tôi cũng đã hỏi như vậy. Ông ta nói đó là điều đúng đắn cần phải làm và tất cả trách nhiệm đều thuộc về tòa án.”
“Vớ vẩn!” Thorndyke phản đối, “Jellcoe là người được vị thân chủ bị mất tích ủy thác, và nếu ông ta nghĩ thân chủ của mình còn sống, thì nhiệm vụ của ông ta là giữ nguyên tài sản cho thân chủ, ông ta hiểu quá rõ điều đó. Chúng ta có thể nhìn nhận chuyện này rằng Jellcoe có chung quan điểm với tôi về việc John Bellingham đã chết.”
“Nhưng mà…” Tôi vặn lại, “Vẫn có những người đột ngột mất tích hằng năm trời sau đó mới xuất hiện trở lại.”
“Đúng, nhưng phải có một lí do rõ ràng nào đó. Hoặc họ là kẻ lang thang vô trách nhiệm dùng cách biến mất để tránh né các trách nhiệm của mình, hoặc họ là người bị mắc kẹt trong một mớ những việc khó chịu. Ví dụ, một công chức, một luật sư hoặc một thương nhân bị mắc kẹt cả đời ở một nơi với một công việc đơn điệu không thể chấp nhận nổi, có thể người đó có một bà vợ nóng nảy dễ nổi cơn tam bành theo cái kiểu cách dễ mến của vài ba phụ nữ vì cho rằng chồng mình từ giờ bị kẹt cứng không đời nào thoát ra được nữa. Người đàn ông đã chịu đựng suốt nhiều năm, nhưng cuối cùng không thể chịu nổi nữa. Sau đó ông ta đột nhiên biến mất - một việc mà ta có thể dễ dàng tha thứ. Nhưng trường hợp của Bellingham thì không phải vậy. Ông ấy là một người đàn ông độc thân giàu có, sống với niềm đam mê cháy bỏng được tự do đi tới bất kì đầu và làm bất cứ điều gì ông ấy muốn. Vậy thì sao ông ấy phải biến mất? Chuyện này thật khó tin!”
Trong trườn ghợp ông ấy mất trí nhớ và không ai nhận ra, thì cũng khó xảy ra với một người đàn ông có thư từ và danh thiếp trong túi, quần áo có ghi tên viết tắt và được cảnh sát truy tìm khắp nơi. Còn trong trường hợp ông ấy phải vào tù thì chúng ta có thể loại bỏ, vì một tù nhân cả trước và sau khi bị tuyên án hoàn toàn có quyền liên lạc với bạn bè.
Giả thiết thứ hai, có thể ông ấy đã đột ngột qua đời và được chôn cất mà không xác nhận được danh tính, khả năng điều này xảy ra rất thấp, nhưng cũng có thể các vật dụng trên thi thể đã bị đánh cắp và do đó không còn gì để nhận dạng, đây vẫn là một khả năng cần xem xét dù nó cực kì khó xảy ra.
Giả thiết thứ ba, ông ấy có thể đã bị giết bởi một kẻ lạ mặt nào đó, trong hoàn cảnh này điều đó có khả năng xảy ra, nhưng vì cảnh sát đã tiến hành tìm kiếm ráo riết, mọi mô tả chi tiết về người đàn ông bị mất tích đã được đăng tải trên báo chí nên giả thiết này chỉ có thể khả thi khi cái xác được giấu kín hoàn toàn. Nhưng như vậy cũng đồng nghĩa với việc loại bỏ tội ác thông thường nhất: Giết người cướp của. Vì vậy khả năng này tuy vẫn có thể xảy ra nhưng xác suất cực kì thấp.
Giả thiết thứ tư là ông Bellingham bị Hurst sát hạn. Hiện giờ có một lập luận bản bác quan điểm này là ông Hurst rõ ràng không có động cơ giết người. Jellcoe đã cam đoan là không ai ngoài ông ta biết nội dung bản di chúc, và nếu như vậy… nhưng lưu ý nhé, chúng ta không có bằng chứng cho chuyện này… nếu như vậy thfi Hurst không có lí do gì để tin rằng ông ta sẽ được thừa kế bất kì tài sản nào nếu anh họ của mình chết. Ngoài chi tiết đó ra thì tự thân giả thiết này chẳng còn vướng mắc nào. Người mất tích được nhìn thấy còn sống lần cuối tại nhà ông Hurst, người ta đã thấy ông ấy vào nhà và chẳng ai thấy ông ấy trở ra… chúng ta vẫn đang dùng những thông tin được đăng trên báo, nhớ nhé! Và rõ ràng Hurst sẽ nhận được cả một gia tài khổng lồ nếu ông Bellingham đã chết.”
Tôi phản bác, “Thầy đã quên rằng, ngay khi không thấy người kia đâu, ông Hurst và những người giúp việc đã cùng nhau tìm khắp nhà ư?”
“Ừ. Họ tìm ai?”
“Gì chứ? Thì đương nhiên là tìm ông Bellingham.”
“Chính xác, tìm ông Bellingham. Nghĩa là tìm một người sống. Anh tìm một người còn sống trong nhà mình bằng cách nào? Anh lùng sục tất cả các phòng. Khi ngó vào trong, nếu ông ấy ở đó, anh sẽ nhìn thấy, còn nếu không, anh sẽ cho rằng ông ấy không có ở đó. Anh không tìm dưới gầm ghế sô pha hay ngó ra phía sau cây đàn piano, không mở các ngăn kéo lớn hay tủ tường, anh chỉ ngó vào phòng, đó là điều mà có lẽ những người đó đã làm, và họ không thấy ông Bellingham. Thi thể ông Bellingham có thể đã bị nhét vào đâu đó khuất tầm mắt trong bất kì căn phòng nào mà họ kiểm tra.”
“Đó là một ý nghĩ ghê rợn!” Jervis phát biểu, “Nhưng hoàn toàn đúng. Không có bằng chứng cho thấy người đàn ông đó không chết trong nhà vào thời điểm họ tim kiếm.”
Tôi nói, “Nhưng ngay cả thế, Hurst cũng phải thủ tiêu cái xác bằng cách nào đó chứ? Sao ông ta có thể phi tang cái xác mà không bị ai phát hiện?”
“À!” Thorndyke nói, “Giờ thì chúng ta sẽ đề cập đến một vấn đề vô cùng quan trọng. Nếu ai đó viết một luận án về nghệ thuật giết người - không phải một tác phẩm văn chương hào nhoáng như của De Quincey đâu, mà là một luận án có giá trị chuyên môn thực sự ấy - người đó có thể bỏ qua hết thảy những chi tiết kỹ thuật cũng được miễn lã ông ta miêu tả được cho tôi một kế hoạch thực tế để phi tang thi thể. Đó đã và sẽ luôn luôn là trở ngại cực kỳ to lớn với kẻ sát nhân: Thủ tiêu xác.” Ông suy tư nhìn cái tẩu của mình, giống như những ngày tôi còn đi học, ông có thói quen diễn thuyết với viên phấn viết bảng, “Cơ thể con người là một thực thể rất đặc biệt, sở hữu những tính chất khiến người ta khó mà che giấu vĩnh viễn. Nó to lớn, cồng kềnh, hình thù kỳ quặc, nặng và hoàn toàn không bắt lửa. Về mặt hóa học thì cấu tạo của nó không ổn định, lúc phân hủy sẽ tạo ra mùi khó chịu, trong khi đó nó lại bao gồm những cấu trúc dễ dàng nhận diện và cực kỳ bền vững. Bảo quản nguyên vẹn một thi thể đã rất khó, nhưng muốn phá hủy nó hoàn toàn thì còn khó hơn. Bản chất bền vững của cơ thể con người được biết đến rộng rãi trong vụ án kinh điển của Eugene Aram[35], nhưng vẫn có một trường hợp ấn tượng hơn nữa là Sekenen-Ra Đệ Tam - một trong những vị vua Ai Cập cuối cùng của Triều XVII. Trong trường hợp đó, sau bốn nghìn năm, người ta vẫn có thể xác định được không chỉ nguyên nhân và cách thức diễn ra cái chết mà còn có cả cách vị vua ngã xuống, bản chất của loại vũ khí đã gây ra vết thương chí mạng, thậm chí cả vị trí của kẻ tấn công. Sự bền vững của cơ thể con người dưới các điều kiện khác cũng đã được minh chứng một cách đáng ngưỡng mộ trong vụ sát hại bác sĩ Parkman[36] ở Boston, Mỹ. Trong vụ án này, việc nhận dạng được thực hiện dựa trên các mẩu xương còn sót lại giữa đống tro tàn trong lò sưởi.”
“Vậy…” Jervis kết luận, “Tôi có thể hiểu rằng John Bellingham hoàn toàn có khả năng xuất hiện trở lại.”
“Chúng ta có thể coi đó gần như là điều chắc chắn.” Thorndyke đáp, “Câu hỏi duy nhất, và rất quan trọng, là khi nào ông ta sẽ tái xuất hiện. Có thể là ngày mai hoặc cũng có thể là sau nhiều thế kỉ nữa, khi tất cả mọi chuyện đã rơi vào quên lãng.”
Tôi giành lời, “Giả như, Hurst đã sát hại ông ấy và thi thể được giấu trong văn phòng lúc cuộc tìm kiếm diễn ra, vậy thì làm thế nào để thủ tiêu nó sau đó? Nếu ở vào vị trí của Hurst, thầy sẽ làm thế nào?”
Thorndyke mỉm cười trước sự thẳng thừng trong câu hỏi của tôi, “Anh đang yêu cầu tôi nói ra một lời buộc tội, mà lại nói ngay trước sự hiện diện của nhân chứng đấy. Thế nhưng sẽ thất vô ích khi suy đoán chỉ dựa trên những giả định, khi ấy chúng ta sẽ phải dựng lại một tình huống hoàn toàn là giả tưởng, với những tình tiết mà chúng ta đều không biết, và gần như chắc chắn chúng ta sẽ dựng sai. Điều chúng ta có thể giả định được là không một người biết suy nghĩ nào, dù có vô đạo đức đến đâu, lại hành động như anh đã nói. Giết người thường là một tội ác gây ra bởi sự kích động, kẻ sát nhân là người không có khả năng kiềm chế bản thân. Những người như vậy gần như không thể phi tang thi thể nạn nhân theo cách khéo léo và tinh vi được. Ngay cả những tên sát nhân máu lạnh trong những vụ giết người được lên kế hoạch kỹ lưỡng nhất cũng đều mất bình tĩnh vào lúc này, đúng như tôi đã nói. Kẻ giết người thường không thể lường hết được những khó khăn không cách nào vượt qua trong việc phi tang xác người cho tới khi hắn đột nhiên thấy chính mình phải đối diện với việc đó. Trong trường hợp anh đặt ra thì có lẽ chỉ có hai sự lựa chọn: Hoặc là chôn xác chết trong nhà, hoặc là cắt xẻ thi thể rồi phân tán các mảnh nhỏ, và cả hai đều có khả năng lớn là bị phát hiện.”
“Giống như những mảnh thi thể mà thầy đã đề cập đến với ông Bellingham.” Jervis nhận xét.
“Chính xác!” Thorndyke trả lời, “Dù chúng ta khó mà tưởng tượng được một tên tội phạm có đầu óc lại chọn vườn cải xoong làm nơi giấu xác.”
“Không, đó quả là một sai lầm! Nhân tiện, tôi nghĩ tốt nhất mình nên im lặng khi thầy đang nói chuyện với ông Bellingham ban nãy, nhưng tôi nhận thấy trong lúc nói đến khả năng những khúc xương đó có thể là của anh trai ông ta, thầy không bình luận gì về việc thiếu ngón áp út của bàn tay trái. Chắc chắn thầy không quên chi tiết đó rồi, nhưng chả lẽ nó không quan trọng?”
“Với việc nhận diện à? Trong hoàn cảnh hiện tại, tôi nghĩ là không! Nếu có một người đàn ông mất tích bị mất một ngón tay thì dĩ nhiên đó sẽ là một chi tiết quan trọng. Nhưng tôi chưa nghe nói về người nào như vậy. Hoặc là, nếu có bất kỳ bằng chứng nào cho thấy ngón tay đã bị cắt bỏ trước khi người này chết thì chuyện đó trở nên vô cùng quan trọng. Nhưng chẳng có bằng chứng nào như vậy cả. Nó có thể bị cắt rời sau khi nạn nhân đã chết, và đấy chính là khúc mắc quan trọng nhất.”
“Tôi không hiểu ý thầy cho lắm…” Jervis nói.
“Ý tôi là nếu không có thông tin về bất kỳ người đàn ông nào bị mất ngón tay đó từng mất tích thì có khả năng là ngón tay bị cắt ra sau khi nạn nhân đã chết, và từ đấy nảy sinh những câu hỏi thú vị về vấn đề động cơ. Tại sao nó lại bị cắt bỏ? Khó mà có chuyện nó chẳng may rời ra được. Anh nghĩ sao?”
“Ồ…” Jervis trầm trồ, “Đó có thể là một ngón tay đặc biệt, ví dụ có dị tật đặc trứng nào đó như bệnh cứng khớp chẳng hạn, sẽ rất dễ nhận dạng.”
“Đúng, nhưng giải thích như vậy dẫn tới khó khăn tương tự. Chẳng có ai có một ngón tay dị tật hay cứng khớp được thông báo là mất tích cả.”
Jerrvis nhíu mày nhìn tôi, “Tôi không thể tìm được cách giải thích nào khác.” Anh nói, “Cậu thì sao, Berkeley?”
Tôi lắc đầu.
“Đừng quên ngón tay bị thiếu là ngón tay nào,” Thorndyke nói, “Ngón áp út của bàn tay trái.”
“Ôi, tôi hiểu rồi!” Jervis thốt lên, “Ngón đeo nhẫn. Ý thầy là có thể nó bị chặt bỏ chính là vì chiếc nhẫn không tháo ra được.”
“Đúng vậy. Đây không phải lần đầu xảy ra chuyện kiểu này. Các ngón tay đã bị cắt lìa khỏi bàn tay người chết và thậm chí cả những người sống vì những chiếc nhẫn quá chặt để có thể rút ra. Trên thực tế, ngón tay đó nằm ở bàn tay trái cũng ủng hộ giả thiết này, vì một chiếc nhẫn quá chặt sẽ hay được đeo ở tay trái thường nhỏ hơn tay phải một chút. Sao thế, Berkeley?”
Một tia sáng vụt lóe lên trong tâm trí tôi, và có lẽ khuôn mặt tôi cũng thể hiện điều đó thật rõ ràng.
“Tôi đúng là một thằng ngốc!” Tôi giật nảy.
“Đừng nói thế!” Jervis động viên, “Cậu mà ngốc thì ai mới thông minh đây?”
“Lẽ ra tôi phải nhận thấy điều này từ lâu và nói với thầy! John Bellingham có đeo một chiếc nhẫn, và nó quá chặt đến nỗi khi đã đeo nó vào, ống ấy không thể tháo nó ra được nữa.”
“Anh có tình cờ biết được ông ta đeo nhẫn ở tay nào không?” Thorndyke hỏi.
“Có! Tay trái, vì cô Bellingham đã kể với tôi chuyện đó, còn nói nếu như không phải tay trái của ông ấy nhỏ hơn tay phải một chút thì ông ấy đã chẳng bao giờ có thể đeo nổi chiếc nhẫn ấy.”
“Vậy là rõ rồi!” Thorndyke nói, “Với chi tiết mới này, ngón tay bị mất đã đem lại những manh mối rất thú vị để ta bắt đầu suy luận.”
“Thí dụ như là…” Jervis nói.
“À, trong hoàn cảnh này, tôi phải để anh tự theo đuổi những suy luận đó độc lập. Bây giờ tôi hành động vì lợi ích của ông Bellingham.”
Jervis cười và im lặng một lúc, cẩn thận nhét thêm thuốc vào tẩu, nhưng khi vừa đặt nó xuống, anh ta lại tiếp tục nói, “Trở lại câu hỏi về vụ mất tích, thầy không nghĩ khó mà xảy ra việc Bellingham bị giết bởi tay Hurst đấy chứ?”
“Ồ, đừng nghĩ là tôi đang buộc tôi. Tôi đang xem xét các khả năng khác nhau một cách hoàn toàn trừu tượng. Với nhà Bellingham cũng vậy. Còn việc liệu có ai trong số họ phạm tôi giết người hay không thì lại là một câu hỏi cụ thể về cá nhân. Tôi chắc chắn không nghi ngờ gia đình Bellingham sau khi gặp họ, còn về Hurst, tôi chẳng biết gì cả, hoặc không thì cũng chỉ biết rất ít những điều bất lợi cho ông ta.”
“Vậy thầy có biết gì về ông ta không?” Jervis nói.
“Hừm…” Thorndyke có hơi ngần ngừ, “Có lẽ không hay ho gì khi phải bới móc từng chi tiết nhỏ trong quá khứ người khác nhưng ta buộc phải làm vậy thôi. Đương nhiên tôi đã tiến hành vài điều tra thông thường về các bên liên quan trong vụ này, và đây là những điều được đưa ra ánh sáng.
Hurst, như các anh đã biết, là một nhà môi giới chứng khoán, một người đàn ông có địa vị và danh tiếng tốt. Nhưng khoảng mười năm trước, có vẻ ông ta đã phạm phải sai lầm - đấy là nói giảm nói tránh. Điều đó suýt chút nữa khiến ông ta gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Ông ta đã đầu cơ rất nhiều, vượt xa khả năng chi trả của mình, rồi khi một biến động đột ngột của thị trường đi ngược với tính toán, ông ta đã chiếm dụng vốn và chứng khoán của khách hàng của mình. Có lúc tưởng như ông ta chắc chắn sẽ rơi vào khó khăn nghiêm trọng, nhưng rồi, một cách cực kỳ bất ngờ, ông ta đã xoay xở thế nào đó để huy động được số tiền cần thiết và giải quyết xong tất cả nợ nần. Cho tới nay, vẫn chưa ai biết nguồn tiền của ông ta từ đâu mà ra, đó là điều khiến người ta tò mò bởi lẽ khoản thiếu nợ lên đến năm nghìn bảng, nhưng quan trọng là ông ta đã có đủ tiền và trả hết nợ. Do vậy có thể nói ông ta là một người có khả năng xù nợ sau này, điều đó khiến độ tin cậy ở ông ta giảm sút nghiêm trọng, tuy nhiên thì cũng chẳng có can hệ trực tiếp nào với vụ việc hiện tại.”
“Đúng là không có.” Jervis tán thành, “Dù nó khiến người ta nghi ngờ ông ta hơn bình thường.”
“Chắc chắn rồi,” Thorndyke nói, “Một con bạc liều lĩnh là kẻ có hành vi không đáng tin cậy. Vận may lên xuống bất ngờ có thể buộc ông ta phải làm những điều xấu xa. Rất nhiều những kẻ biển thủ trước đó đã trải qua những vận hạn tuột dốc đen đủi.”
“Giả sử thủ phạm gây ra vụ mất tích chỉ có thể là Hurst hoặc… hoặc những người nhà Bellingham…” Tôi vừa nói vừa nuốt nước bọt vì không thoải mái khi nhắc đến tên những người bạn của mình, “Thì cán cân ghi vấn nghiêng về bên nào?”
“Chắc chắn tôi sẽ nói là nghiêng về phía Hurst.” Thorndyke trả lời, “Vụ việc hiện tại dựa theo những chứng cứ mà ta có thì là như sau: Hurst có vẻ không có động cơ giết người quá cố (chúng ta sẽ tạm gọi ông John Bellingham như vậy), nhưng người quá cố lại nhìn thấy đã đi vào ngôi nhà và không thấy trở ra, cũng không ai gặp lại ông ấy ở trạng thái còn sống nữa. Mặt khác, ông Bellingham lại có động cơ gây án, vì ông ta tin rằng mình là người hưởng lợi chính theo di chúc. Nhưng người ta lại không nhìn thấy người quá cố ra vào nhà ông Bellingham, và cũng chẳng có bằng chứng gì cho thấy người quá cố đã tới ngôi nhà đó hay các nhà lân cận, ngoại trừ việc con bọ hung được tìm thấy ở đó. Nhưng bằng chứng con bọ hung đã không còn giá trị bởi thực tế là ông Hurst cũng có mặt khi người ta nhặt được nó, và rằng nó được tìm thấy ở chỗ mà ông Hurst mới đi qua chỉ một vài phút trước. Trừ phi ông Hurst trong sạch, bằng không tôi thấy sự hiện diện của con bọ hung chẳng chứng minh được điều gì chống lại gia đình Bellingham.”
“Vậy quan điểm của thầy trong vụ này hoàn toàn dựa trên những chứng cứ đã được công bố công khái?” Tôi hỏi.
“Đúng, gần như là vậy. Tôi không cần thiết phải chấp nhận tất cả các chi tiết như những gì chúng đã được công bố, tôi tự có quan điểm riêng. Song kể cả như thế, tôi vẫn đang không ở vị thế thích hợp để có thể đưa chúng ra thảo luận. Hiện giờ, mọi thảo luận phải được giới hạn dựa trên các thông tin và kết luận được đưa ra bới các bên liên quan.”
“Đó!” Jervis bật thốt, giơ tay nhấc cái tẩu của mình ra, “Đó là chỗ thầy Thorndyke đây nắm được thóp của cậu. Ông ấy để cậu nghĩ rằng câu đã ‘biết hết’ cho đến một buổi sáng cậu tỉnh dậy và nhận ra mình chỉ là một người ngoài cuộc đang há hốc miệng, và rồi cậu sẽ kinh ngạc tột độ, cả đối phương cũng vậy, vì chuyện đó. Nhưng giờ chúng ta nên nghỉ thôi phải không nhỉ, thưa bậc tiền bối đáng kính?”
“Nên thế thật.” Thorndyke trả lời, và khi đeo găng tay vào, ông hỏi, “Gần đây anh có nhận được tin gì từ Barnard không?”
“Có chứ.” Tôi trả lời, “Tôi đã viết thứ tới Smyrna cho cậu ấy để nói rằng mọi chuyện tiến triển thuận lợi và tôi rất vui vẻ, nên cậu ấy có thể đi chơi bao lâu tùy thích. Cậu ấy hồi âm lại rằng sẽ kéo dài kỳ nghĩ nếu có cơ hội và sẽ báo cho tôi biết sau.”
“Chà…” Jervis lên tiếng, “Barnard thật quá dỗi may mắn khi ông Bellingham tình cờ lại có một cô con gái xinh đẹp đến thế… Enày! Đừng bận tâm tới tôi, anh bạn! Cứ tiến tới và giành lấy đi, cô ấy cũng xứng đáng đấy, phải không, ngài Thorndyke?”
“Co Bellingham là một quý cô trẻ trung duyên dáng.” Thorndyke trả lời, “Tôi cực kì có thiện cảm với cả ông bố lẫn cô con gái, và tôi tin rằng chúng ta có thể giúp họ điều gì đó.” Cùng với phát biểu ngắn gọn nghiêm túc này, ông Thorndyke bắt tay tôi. Tôi nhìn theo hai người bạn của mình bước đi cho đến khi hình bóng họ xa dần, lẫn vào bóng tối đường Fetter.