← Quay lại trang sách

CHUYẾN ĐI KHÁM PHÁ

Vào một buổi sáng hai hay ba hôm sau bữa tiệc tối giản dị, tôi đứng trong văn phòng, chải chiếc mũ chuẩn bị cho buổi thăm khám. Adolphus xuất hiện nơi cửa, thông báo có hai người đang chờ tôi trong phòng khám. Tôi bảo anh ta đưa họ vào, một lúc sau Thorndyke xuất hiện, theo sau là Jervis. Tôi chợt thấy họ thật to lớn khác thường trong căn hộ nhỏ bé này, nhất là Thorndyke, nhưng tôi không có thời gian cân nhắc đến hiện tượng này mà đành gác lại sau, vì ông bắt tay tôi và nói ngay mục đích của buổi thăm viếng.

“Chúng tôi đến để nhờ anh một việc…” Ông trịnh trọng, “Một việc rất lớn để giúp đỡ gia đình Bellingham bạn anh.”

“Tôi rất sẵn lòng.” Tôi nhiệt tình đáp, “Việc gì thế?”

“Để tôi giải thích. Anh biết đấy, mà thực ra chắc không biết: Cảnh sát đã gom tất cả các mẩu xương được tìm thấy về nhà xác ở Woodford để ban hội thẩm xem xét. Tôi rất cần những chứng cứ cụ thể và đáng tin cậy hơn những gì viết trên báo, đáng lí tôi nên đích thân tới đó là tốt nhất, nhưng trong hoàn cảnh hiện tại thì tôi không muốn lộ chuyện mình đang điều tra vụ này. Vì thế tôi không thể tự mình đi được, và cũng vì lí do đó, tôi không thể cử Jervis. Mặt khác, giờ đây người ta đã khẳng định khá công khai rằng cảnh sát coi những mẩu xương đó là của John Bellingham, rõ ràng anh với tư cách là bác sĩ của Godfrey Bellingham, nên đại diện cho ông ta đến đó xem xét chúng.”

“Tôi rất muốn thế.” Tôi nói, “Tôi dám đánh đổi tất cả để có thể đi được, nhưng bây giờ tôi phải làm sao? Đi tới đó cũng có nghĩa là phải nghỉ nguyên một ngày, bỏ hết công việc.”

“Việc này có thể sắp xếp được mà.” Thorndyke nói, “Vấn đề trên cực kì quan trọng vì hai lí do. Một là buổi hội thẩm chính thức sẽ được tiến hành vào ngày mai, cần một người thay mặt Godfrey chứng kiến việc đó. Lí do tiếp theo là khách hàng của chúng ta đã nhận được thông báo từ các luật sư của Hurst rằng vụ việc sẽ được đưa ra tòa sau vài ngày nữa.”

“Như thế chẳng phải có phần quá đột ngột sao?” Tôi nghi vấn.

“Qua đó có thể thấy rất nhiều việc đã xảy ra mà chúng ta không được biết, nhưng chắc anh đã thấy được tầm quan trọng của việc này. Cuộc thẩm tra sẽ giống như một buổi tổng duyệt trước khi ra tòa, chúng ta cần đảm bảo mình có cơ hội ước đoán.”

“Phải, tôi hiểu. Nhưng chúng ta sẽ sắp xếp công việc của tôi thế nào đây? ’

“Chúng tôi sẽ tìm một người làm thay anh.”

“Qua một hãng dịch vụ y tế?”

“Phải.” Jervis nói, “Percival đã tìm người được cho chúng ta rồi. Tôi vừa gặp sáng nay xong, Percival tìm được một người đang chờ trong thành phố để thương lượng mở phòng khám và người đó sẵn sàng làm việc này đổi lấy hai đồng guinea. Đó là một người rất đáng tin cậy. Cậu chỉ cần nói đồng ý là tôi sẽ chạy đến phố Adam gọi anh ta ngay.”

“Rất tốt. Anh hãy đi gọi Iocum tenens[37] ngay đi, tôi sửa soạn đi Woodford ngay khi anh ta tới đây.”

“Tuyệt!” Thorndyke hồ hởi, “Nghe điều này mà tôi nhẹ cả người. Nếu anh có thể ghé qua chỗ tôi tối nay, chúng ta sẽ cùn hút tẩu và bàn kế hoạch, tôi sẽ cho anh biết anh cần thu thập những thông tin nào.”

Tôi hứa sẽ đến King’s Bench Walk sớm nhất có thể sau tám rưỡi, sau đó hai người bạn tôi cáo từ, còn tôi vui vẻ bắt đầu buổi thăm khám.

Thật đáng kin ngạc khi xem xét sự việc dưới các góc nhìn khác nhau, chúng ta lại thấy những khía cạnh khác hẳn. Những ước đoán của chúng ta về các sự việc và hoàn cảnh trong đời chỉ là tương đối. Với những người lao động bình thường, chẳng hạn như thợ làm bánh hay thợ may - những người hết năm này qua năm khác chỉ làm việc trong một căn nhà, thì một chuyến nghỉ dưỡng ở Hampstead Heath đúng là cuộc du ngoạn khám phá kỳ thú; trong khi với một thủy thủ, ngắm nhìn thế giới rộng lớn trên những con sóng bồng bềnh chỉ đơn giản là công việc hằng ngày.

Tôi nghĩ ngợi những điều nêu trên khi lên tàu pử phố Liverpool ngày hôm sau. Trước đây, chẳng thể nào coi một chuyến đi bằng tàu hỏa tới bìa rừng Epping là trải nghiệm thú vị được, nhưng giờ khi được thoát khỏi cuộc sống vô vị ở đường Fetter, chuyến đi với tôi mà nói đúng là một cuộc phiêu lưu.

Sự nhàn rỗi trên chuyến tàu là điều kiện rất tốt để suy ngẫm, trùng hợp tôi cũng có quá nhiều điều để mà nghĩ ngợi. Chỉ vài tuần ngắn ngủi vừa qua thôi mà tôi đã có thay đổi lớn về cách nhìn đời. Những thú vui mới được khám phá, tình bạn chớm nảy nở, và trên hết, một thứ có sức ảnh hưởng cực kì to lớn đã chen vào cuộc sống của tôi, tốt hay xấu còn phải nhờ vận may nữa nhưng nhất định nó sẽ đem lại màu sắc và chi phối cuộc đời tôi cho tới ngày cuối cùng. Mấy ngày làm việc đầy cảm xúc trong phòng đọc sách, sự mến khách của cửa hàng sữa và những chuyến đi dạo trên đường về nhà qua khắp những con phố thân thiện của London… tất cả đã đem lại cho tôi một thế giới mới - thế giới mà trung tâm của nó là sự yêu kiều của Ruth Bellingham. Toi ngả mình trong góc toa tàu, tay cầm tẩu thuốc chưa châm lửa. Các sự việc vừa mới xảy đến cùng những sóng gió sắp tới choán đầy tâm trí tôi đến mức tôi quên bẵng luôn là công việc hiện tại cần xem xét những mảnh xương ở nhà xác Woodford, cho tới khi tàu đã đến Stratford - nơi mùi xà phòng và phân bón làm bằng cương động vật tràn qua cửa sổ, lôi tôi trở lại mục đích của chuyến đi (một cách tự nhiên).

Mục đích cụ thể của chuyến đi này tôi cũng chưa rõ lắm, nhưng tôi biết mình đang thực hiện nhiệm vụ thay thế cho Thorndyke. Ý nghĩ này làm tôi rất đỗi tự hào. Nhưng cuộc điều tra của tôi có thể đem lại những manh mối gì cho vụ việc rối rắm của Bellingham, tôi chưa thể biết được. Để ghi nhớ, tôi lấy trong túi ra mảnh giấy ghi những hướng dẫn của Thorndyke và đọc thật cẩn thận. Chúng rất đầy đủ và cụ thể, bù đắp hoàn toàn cho sự thiếu kinh nghiệm của tôi trong lĩnh vực Y học Hình sự:

Không được tỏ ra đang điều tra quá tỉ mỉ hoặc thu hút sự chú ý.

Đảm bảo tất cả xương tìm thấy ở các vùng đều được gom lại đầy đủ, nếu không, cần để ý xương nào bị thiếu.

Đo chiều dài các xương chính và so sánh với xương của chi bên kia.

Khám xét các mẫu xương nhằm điều tra tuổi, giới tính, sự phát triển cơ bắp của người đã chết.

Để ý tất cả các dấu hiệu (hoặc không có dấu hiệu) các bệnh thể chất, bệnh riêng trên một bộ phận hay các xương liền kề, các chấn thương cả cũ và mới cùng bất kỳ dấu hiệu nào khác thường.

Quan sát xem có chất sáp mỡ của xác chết hay không, nếu có thì ở vị trí nào.

Chú ý dấu vết còn lại của gân, dây chằng hay các phần mềm khác.

Kiểm tra bàn tay được tìm thấy ở Sidcup để xác định liệu ngón tay đã bị cắt rời trước hay sau khi người đó chết.

Ước lượng khoảng thời gian xác chết bị ngâm dưới nước và quan sát bất kì thay đổi nào (ví dụ khoáng chất hoặc các dấu vất hữu cơ) do tính chất của nước hoặc bùn.

Xác định hoàn cảnh (trực tiếp và gián tiếp) dẫn đến việc khám phá ra những mảnh xương và tên của những người liên quan.

Ghi lại toàn bộ thông tin ra giấy càng sớm càng tốt, vẽ lại hình ảnh ngay tại chỗ nếu hoàn cảnh cho phép.

Không để lộ cảm xúc gì bên ngoài, chú ý lắng nghe những không tỏ ra quá sốt sắng, hỏi càng ít càng tốt, bám sát bất kì thông tin nào tìm được nhờ quan sát tại chỗ.

Đó là toàn bộ những chỉ dẫn của ông. Đặt mình vào hoàn cảnh chỉ phải khám xét mấy mẩu xương khô sẽ thấy quả là ghê gớm, thực ra càng đọc, tôi lại càng thấy mình không đủ khả năng làm nổi.

Khi đến nhà xác, tôi thấy rõ ràng một số chỉ dẫn của Thorndyke không hề dư thừa. Nơi này được đặt dưới sự quản lí của một hạ sĩ cảnh sát - người nhìn tôi đi tới bằng con mắt nghi ngờ, cùng với nửa tá những người khác - rõ ràng là nhà báo - đang lượn lờ quanh lối vào như bầy chó rừng. Tôi chìa tờ giấy phép mà ông Marchmont đã xin được. Viên hạ sĩ đứng xoay lưng lại phía tường để đọc cho đám nhà báo không nhìn trộm qua vai mình.

Các giấy tờ của tôi đều hợp lệ. Cửa mở ra và tôi bước vào cùng ba nhà báo đánh liều bám theo song bị đuổi ra ngoài ngay. Sau đó viên hạ sĩ khóa cửa lại, dẫn tôi đi tiếp trong lúc chăm chú nhìn tôi làm việc với vẻ khéo léo nhưng cũng đầy bối rối.

Những khúc xương nằm trên một cái bàn lớn dưới tám ga được viên hạ sĩ chậm rãi lật lên, mắt thì vẫn nhìn tôi chăm chú hệt như khi nãy, trông chờ vẻ kinh ngạc xuất hiện. Tôi đoán anh ta có hơi thất vọng bởi vẻ bàng quan của tôi, vì những mẩu xương này đối với tôi cũng chẳng khác nào một bộ xương không mấy đẹp đẽ dùng trong lớp học. Tất cả các xương đã được bác sĩ của đồn cảnh sát (theo lời viên hạ sĩ nói) đặt theo đúng vị trí giải phẩu, tuy nhiên tôi vẫn đếm cẩn thận để đảm bảo không thiếu cái nào, so sánh với danh sách mà Thorndyke đã đưa.

“Nhớ các anh đã tìm thấy xương đùi bên trái mà nhỉ…” Tôi nhận xét khi thấy xương này không có trong danh sách.

“Phải.” Viên hạ sĩ nói, “Khúc xương này mới được tìm thấy hôm qua dưới một cái hồ lớn là hồ Baldwin ở bãi Sandpit, gần rừng Little Monk.”

“Có gần đây không?”

“Trong khu rừng trên đường Loughton.” Anh ta đáp.

Tôi ghi lại thông tin này (viên hạ sĩ nhìn tôi như thể hối hận đã nhắc đến chuyện đó), rồi nhìn bao quát đống xương trước khi xem xét chi tiết. Hẳn là nhìn chúng sẽ đẹp và dễ khám nghiệm hơn nếu được rửa sạch vì hiện giờ chúng nằm đó trong tình trạng hệt như khi được tìm thấy, thật khó để biết được liệu cái màu vàng đỏ của chúng là vết tích trên xương hay do các chất bám trên bề mặt. Dù vậy, vì xương nào cũng thế, nên tôi thấy điều này cũng đáng chú ý và ghi vào sổ. Các mẩu xương mang dấu vết vùi lắp dưới các đáy hồ khác nhau, nhưng tôi không tìm ra manh mối nào về việc chúng đã nằm dưới đó bao lâu, chúng đều bị phủ một lớp bùn dày, lác đác vài chỗ bị rong dưới hồ bám vào nữa, nhưng những chi tiết này chỉ là manh mối rất mơ hồ để ước lượng thời gian.

Có một số dấu vết khác rõ ràng hơn, ví dụ trên vài mẩu xương có những đám trứng đã khô của loài sên nước, trong hốc của xương bả vai bên phải có những đường ống bằng đất của loài giun đỏ, những dấu vết này cho thấy chúng đã nằm dưới nước một khoảng thời gian đáng kể vì những thứ này không thể có trên xương trừ phi trừ phi phần thịt đã phân hủy hết và điều này xảy ra cũng phải tới một hai tháng rồi. Một cách tình cờ, những dấu vết này cũng cho thấy khúc xương đã nằm ở vị trí như thế nào dưới nước, tuy điều này có vẻ chẳng có gì quan trọng trong hoàn cảnh hiện tại thì tôi vẫn ghi chép lại cẩn thận hiện trạng của các sinh vật này, phác họa vị trí của chúng.

Viên hạ sĩ cười xòa khi nhìn tôi làm việc, “Anh ghi chép chi tiết quá, như thể định đem chúng ra bán đấu giá vậy. Tôi không cho là đám trứng ốc sên đó lại giúp được gì nhiều trong việc nhận dạng. Mà ngay cả việc đó cũng đã được thực hiện rồi.” Anh ta nói thêm khi tôi lấy thước dây ra.

“Hiển nhiên thế.” Tôi đáp, “Nhưng việc của tôi là quan sát một cách độc lập và nếu cần thiết thì sẽ kiểm tra cả kết quả của những người khác.” Rồi tôi tiếp tục đo kích thước các xương chính để so sánh với xương phía bên kia. Các kích thước và tính chất chung của những mẩu xương cho thấy đây là các bộ phận của cùng một bộ xương, không còn nghi ngờ gì nữa. Kết luận này càng được củng cố bới lớp hóa ngà chỗ đầu xương đùi phải và lớp hóa ngà tương ứng ở khớp hông bên phải. Khi đã đo đạc xong, tôi kiểm tra tỉ mỉ các mẩu xương, xem xét kỹ càng có bất kỳ dấu hiệu nào Thorndyke đã dặn không. Nhưng lần nào cũng vậy, tôi chẳng thu được kết quả. Thật đáng buồn và thất vọng, tất cả chúng đều bình thường.

“Chà, anh đã thu được gì chưa?” Viên hạ sĩ phấn chấn hỏi khi tôi gấp cuốn sổ tay và đứng thẳng lên, “Xương của ai đây? Anh có nghĩ đó là của ông Bellingham không?”

“Tôi sẽ rất khổ tâm nếu phải nói đây là xương của ai.” Tôi đáp, “Xương nào mà chả thế.”

“Tôi cũng nghĩ vậy.” Anh ta đồng tình, “Nhưng tôi nghĩ sau khi đã đo đạc và ghi chép tỉ mỉ đến vậy, hẳn anh đã đi đến một kết luận cụ thể nào đó.” Rõ ràng anh ta rất thất vọng về tôi, và ngay cả tôi cũng thất vọng với chính mình khi so sánh những hướng dẫn cụ thể của Thorndyke với kết quả nhỏ nhoi mà mình thu được trong cuộc khám nghiệm. Những khám phá của tôi có ý nghĩa tới đâu? Việc điều tra có thể tiến triển thế nào dựa trên mấy ghi chú ít ỏi của tôi trong cuốn sổ tay chứ?

Những mẩu xương có vẻ là của một người đàn ông vạm vỡ nhưng không tới mức quá cơ bắp, trên ba mươi tuổi, nhưng nhiều hơn bao nhiêu thì tôi không nói được. Chiều cao của ông ta, tôi đoán vào khoảng năm feet tám inch, nhưng những đo đạc của tôi sẽ giúp Thorndyke ước lượng được chính xác hơn. Còn lại, những mẫu xương này chẳng còn gì đáng chú ý. Không có dấu hiệu bệnh tật nói chung, hay trên từng bộ phận không thấy có chấn thương mới hoặc cũ nào, không có gì khác thường, và, việc cắt xẻ đã được thực hiện cẩn thận đến nỗi chẳng có lấy một vết xước trên bề mặt phần bị tách rời. Không hề thấy chất sáp mỡ (một chất trơn giống như sáp thường thấy ở những xác chết phân hủy chậm trong môi trường ẩm ướt), dấu hiệu mờ nhạt duy nhất của phần mềm là một thứ nhìn giống như giọt keo - phần còn lại của gân ở đầu khuỷu tay phải.

Khi viên hạ sĩ đang sửa soạn đắp lại tấm ga với dáng vẻ như ông bầu gánh xiếc vừa cho người ta xem màn biểu diễn, bỗng một tiếng đập cửa thật lớn vang lên. Anh ta trải tấm ga với sự chính xác trịnh trọng, rồi sau khi đã dẫn tôi ra tới sảnh, anh ta xoay chìa khóa cho ba người vào và giữ cửa cho tôi bước ra. Nhưng sự xuất hiện của những người này khiến tôi muốn nán lại một chút. Một trong số họ là viên cảnh sát địa phương, rõ ràng đến vì công vụ; người thứ hai là một anh thợ người ướt đẫm và đầy bùn, tay mang một chiếc túi nhỏ; còn người thứ ba tôi có thể đánh hơi thấy là một đồng nghiệp của mình.

Viên hạ sĩ vẫn giữ cánh cửa mở rộng.

“Tôi còn giúp gì được cho anh nữa không?” Anh ta vui vẻ hỏi.

“Ông có phải là bác sĩ của đồn cảnh sát?” Tôi hỏi.

“Phải, tôi là bác sĩ của đồn cảnh sát.” Người mới đến trả lời, “Anh cần gì ở tôi?”

Viên hạ sĩ giới thiệu, “Anh đây là một bác sĩ được cơ quan điều tra cho phép khám nghiệm thi thể, đại diện cho gia đình của nạn nhân, ý tôi là gia đình ông Bellingham.” Anh ta bổ sung khi nhận được cái nhìn đầy tò mò của bác sĩ.

“Tôi hiểu.” Bác sĩ nói, “Họ đã tìm được phần thân mình còn lại, theo tôi được biết là gồm cả các xương sườn đã bị tách ròi khỏi những bộ phận khác, có phải thế không, Davis?”

“Vâng, thưa ông.” Người kia đáp, “Thanh tra Badger nói rằng tất cả xương sườn và xương cổ đều nằm trong túi này.

“Ông thanh tra có vẻ như là một nhà giải phẩu.” Tôi nhận xét.

Viên hạ sĩ mỉm cười, “Ông Badger là một quý ông uyên bác. Ông ta tới đây khá sớm vào buổi sáng và dành nhiều thời gian xem xét những mẩu xương rồi ghi vào sổ. Tôi nghĩ ông ta chắc đã suy ra điều gì rồi, nhưng lại cực kì kín tiếng.”

Tới đây viên hạ sĩ đột ngột im lặng, có lẽ vì thấy cung cách làm việc của mình ngược hẳn với cấp trên.

“Hãy để những mẩu xương mới này lên bàn.” Viên bác sĩ của đồn cảnh sát nói, “Bỏ tấm ga ra, đừng có đổ ụp như than nữa. Lấy ra thật cẩn thận nào.”

Người thợ lấy trong túi ra những mẩu xương còn ướt bám đầy bùn, để lên bàn trong khi ông bác sĩ sắp xếp lại cho đúng vị trí.

“Việc cắt xẻ đã được tiến hành rất khéo.” Ông ta nhận xét, “Không hề có chuyện chặt chém vụng về bằng búa hoặc cưa. Những mẩu xương được tách ra rất gọ gàng ở khớp. Kẻ nào làm việc này hẳn phải có ít nhiều kiến thức giải phẩu, trừ phi hắn làm nghề bán thịt - khả năng này cũng không phải vô lí. Hắn đã sử dụng dao một cách khéo léo khác thường, anh có thể thấy mỗi cánh tay đã bị cắt rời cùng toàn bộ phần bả vai hệt như cách dân bán thị cắt thịt cừu vậy. Trong túi còn xương nào không?”

“Không, thưa ông.” Người thợ nói, lau tay vào ống quần tỏ vẻ đã xong, “Cả đống chỉ có thế.”

Viên bác sĩ trầm ngâm nhìn những khúc xương trong khi sắp xếp lại lần cuối cùng, và nhận xét, “Thanh tra nói đúng. Tất cả xương cổ đều đầy đủ, đúng là rất kì quái! Anh có thấy thế không?”

“Ý ông là...”

“Ý tôi muốn nói việc kẻ giết người tự bày ra bao nhiêu khó khăn chẳng để làm gì như thế này thì đúng là kid quặc hết sức. Ví dụ như những đốt sống cổ này. Hắn đã cẩn thận tháo xương sọ khỏi đốt sống đội thay vì đơn giản cắt ngang phần cổ. Rồi anh xem cả cách hắn cắt phần thân trên nữa, xương sườn thứ mười hai được tìm thấy trong đám xương mới này, nhưng đột sống thứ mười hai liền với nó lại gắn vào nửa thân dưới, thử tưởng tượng hắn đã phải mất nhiều công sức thế nào để thực hiện việc đó mà không cắt hay chặt những khúc xương ra. Đúng là rất đáng kinh ngạc, mà cũng rất thú vị nữa. Anh hãy cầm thật cẩn thận nhé.”

Ông ta cẩn thận cầm phần xương ức lên vì nó bàm đầy bùn, rồi đưa cho tôi với lời nhận xét, “Đây là chứng cứ cụ thể nhất mà chúng ta hiện có.”

“Ý ông là...” Tôi nói, “Khi ghép hai phần này với nhau, ta có thể kết luận đây là một người đàn ông lớn tuổi?”

“Phải, đó là kết luận rõ ràng, càng được củng cố hơn bởi tình trạng thoái hóa sụn sườn. Davis, anh có thể về nói với viên thanh tra, rằng tôi đã kiểm tra đám xương này, và giờ chúng đều nằm ở đây cả.”

“Ông làm ơn viết lại được không?” Viên cảnh sát nói, “Thanh tra Badger yêu cầu tôi phải ghi lại mọi thứ.”

Viên bác sĩ lấy ra một cuốn sổ tay. Trong khi tìm một trang phù hợp, ông ta chợt hỏi, “Anh có phỏng đoán gì về chiều cao củ người đã chết không?”

“Có, tôi đoán ông ta vào khoảng năm feet tám.” (Lúc này tôi bắt gặp cái liếc nhìn lấm lét của viên hạ sĩ. )

“Tôi thì đoán khoảng năm feet tám inch rưỡi.” Ông bác sĩ nói.” Nhưng chúng ta sẽ biết rõ hơn khi nào tìm được phần xương ống quyển. Những mẩu xương này đã được tìm thấy ở đâu vậy, Davis?”

“Trong cái hồ ngay cạnh đường ở Lord’s Bushes, thưa ông, và ông thanh tra giờ đã đi...”

“Khỏi cần quan tâm ông ta đi đâu!” Viên hạ sĩ ngắt lời, “Anh chỉ cần trả lời câu hỏi và lo việc của mình thôi.”

Câu nói của viên hạ sĩ khiến tôi nảy ra một ý tưởng mà tôi lập tức thực hiện ngay. Trong khi đồng nghiệp của tôi tỏ ra thân thiện đến vậy, rõ ràng viên cảnh sát coi tôi chỉ là kẻ nhúng mũi vào chuyện người khác, cần phải giữ bí mật hết mức có thể. Vậy là tôi cám ơn đồng nghiệp của mình cùng viên hạ sĩ về sự lịch thiệp của họ, nói lời chào tạm biệt và hẹn gặp lại ở buổi thẩm tra, sau đó bước thật nhanh tới khi tôi tìm được một chỗ kín đáo mà từ đó có thể quan xác cửa nhà xác. Một lúc sau tôi thấy viên cảnh sát Davis xuất hiện và đi ngược đường.

Tôi nhìn hình bóng đang dần biến mất của anh ta cho tới khi anh ta đã ở một khoảng cách đủ xa và đi theo anh ta. Con đường dẫn thẳng ra khỏi làng, sau nửa dặm thì tới bìa rừng. Đến đây, tôi bước nhanh hơn để rút ngắn khoảng cách, và đúng lúc này anh ta rẽ vào một lối đi rậm rạp khiến tôi bị mất dấu trong một chốc. Vẫn tiến nhanh về phía trước, một lần nữa tôi thấy anh ta rẽ vào một lối hẹp dẫn tới rừng gỗ sồi với những khóm cây nhựa ruồi rậm rạp, thế là tôi tiếp tục đi theo anh ta trong vài phút, dần dần thu hẹp khoảng cách cho tới khi một tiếng động đều đặn giống như tiến rít của máy bơm nước vọng đến tay tôi. Chẳng bao lâu sau, tôi nghe thấy tiếng nói chuyện, lúc này viên cảnh sát đã rời khỏi đường để đi vào rừng.

Tôi thận trọng tiến tới, cố xác định vị trí của nhóm tìm kiếm dựa theo tiếng mát bơm, rồi đi vòng một đoạn để đến chồ đó theo hướng ngược với viên cảnh sát khi nãy.

Vẫn lần theo tiếng bơm nước, cuối cùng tôi cũng đến một khoảng trống nhỏ giữa những rặng cây, bèn dừng lại xem xét toàn bộ khung cảnh. Giữa khoảng trống là một cái ao nhỏ, khoảng cách hai bờ chưa đầy mười hai yard[38], bên kia bờ là một chiếc xe đẩy. Chiếc xe hai bánh nhỏ bé đó có vẻ được dùng để chở những thứ đồ nghề nằm trên mặt đất gần đấy, gồm một cái bồn lớn hiện đang chứa đầy nước, một cái xẻng, một cái cào, sàng, và một cái bơm nhỏ được nối với vòi nước dài. Ngoài viên cảnh sát còn ba người nữa, một người đang bơm, một người khác đang xem tờ giấy viên cảnh sát vừa đem tới. Ông ta ngẩng phắt lên khi tôi xuất hiện, nhìn tôi với vẻ thù địch không hề che giấu.

“Chào anh!” Ông ta nói, “Anh không được đến đây.”

Vì tôi đã ở đây nên câu nói đó rõ ràng là sai lầm, và tôi đánh liều chỉ ra sơ hở của ông ta.

“Tôi không thể để anh ở lại đây được. Công việc của chúng tôi đòi hỏi phải bí mật.”

“Tôi biết chính xác ông đang làm gì, thanh tra Badger ạ.”

“Ồ, thật à?” Ông ta cười ranh mãnh, “Tôi cho là mình cũng biết anh làm gì đấy. Nhưng chúng tôi không thể để đám nhà báo các anh bám đuôi lúc này được, thế nên mời anh đi cho.”

Tôi nghĩ mình nên nói thẳng ngay lập tức, vì thế dau khi đã giới thiệu mình là ai, tôi cho ông ta xem giấy phép của cơ quan điều tra, ông ta đọc với vẻ khó chịu thấy rõ.

“Vậy thì ổn rồi.” Ông ta trả lại tờ giấy cho tôi, “Nhưng nó không cho phép anh theo dõi công việc của cảnh sát. Bất kì mẩu xương nào chúng tôi tìm thấy cũng sẽ được chuyển về nhà xác nói anh muốn khám xét bao nhiêu cũng được, nhưng anh không được ở lại đây theo dõi chúng tôi.”

Tôi không định theo dõi công việc của viên thanh tra, nhưng viên hạ sĩ cứ cố giữ bí mật đã khiến tôi tò mò. Cảm giác này càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết khi ông thanh tra một mực muốn đuổi tôi đi. Hơn nữa, ông ta đang nói dở thì cái bơm ngừng lại (phần dáy hồ đầy bùn giờ lộ ra hoàn toàn), lập tức viên phụ tá liền vớ lấy cái xẻng với vẻ sốt ruột.

“Tôi buộc phải nói với ông, thưa thanh tra.” Tôi cố thuyết phục, “Liệu ông có muốn để lộ việc mình đã ngăn đại diện hợp pháp của gia đình nạn nhân tới xác nhận bất kì phát ngôn nào của các ông từ nay về sau hay không?”

“Ý anh là gì?” Ông ta hỏi.

“Ý tôi là nếu ông tìm được một mẩu xương nào đó được nhận diện là của ông Bellingham, thông tin đó sẽ mang ý nghĩa quan trọng với gia đình ông ta hơn bất kì ai khác. Ông biết đấy, hộ đang phải xử lí một bản di chúc rắc rối và một gia tài rất đáng giá.”

“Tôi không biết việc này, mà cũng chẳng thấy nó có liên quan gì.” Thực ra về mặt này thì chính tôi cũng thế.” Nhưng nếu anh đã đưa ra lí do như vậy để quan sát việc tìm kiếm này, chúng tôi không thể ngăn cản được, miễn là anh không được cản trở chúng tôi, thế thôi.”

Sau khi nghe xong, trợ tá của ông - người nhìn hệt như một cảnh sát mặc thường phục - bèn cầm xẻng và bước xuống mặt bùn dưới đáy hồ, vừa đi vừa cúi người nhìn giữa đám cỏ dại nơi nước đã được rút hết. Viên thanh tra nhìn anh ta bằng vẻ sốt ruột, thỉnh thoảng lại nhắc, “Cẩn thận bước chân đấy!”. Người thợ rời chỗ máy bơm để tới bờ hồ rồi cúi xuống quan sát, trong khi tôi cùng viên cảnh sát nhìn từ trên cao. Cuộc tìm kiếm không đem lại kết quả gì trong một lúc lâu. Có lúc người đó cúi xuống nhặt lên thứ hóa ra chỉ là một mẩu gỗ mục, sau đó là xác một con chim giẻ cùi đã chết từ lâu và vứt đi sau khi xem xét kỹ càng. Đột nhiên anh ta cúi xuống cạnh một vũng nước nhỏ đọng ở một cái hốc sâu hơn, nhìn chăm chăm xuống bùn, rồi đứng thẳng dậy.

“Có thứ gì ở đây nhìn giống như một khúc xương, thưa ông!” Anh ta báo cáo.

“Thế thì đừng có đào bới lung tunh!” Viên thanh tra lệnh, “Chọc thẳng mũi xẻng xuống lớp bùn anh nhìn thấy nó và mang ra chỗ cái sàng.”

Người kia là theo, sau đó quay trở lại bờ với một đống lớn bùn nhão còn chúng tôi đứng quây quanh cái sàng. Viên thanh tra cầm nó lên và đặt trên cái bồn, hướng dẫn viên cảnh sát và người thợ “giúp một tay”. Vậy là họ đứng vây quanh cái sàng và quên hẳn tôi. Thực ra với sự chỉ huy của ông ấy, họ làm việc rất hiệu quả, vì khi xẻng bùn được đổ lên mặt sàng, bốn người đàn ông cúi người gần như che khuất cả nó đi đến nỗi tôi phải nghiêng người hết bên nọ tới bên kia mói thoáng thấy lớp bùn dần trôi khi chiếc sàng được nhúng xuống nước và lắc mạnh.

Một lúc sau, viên thanh tra nhấc cái sàng lên khỏi bồn nước rồi cúi xuống nhìn những thứ bên trong. Có vẻ cuộc tìm kiếm không đem lại kết quả gì, vì những tiếng lầm bầm vang lên không ngớt.

Sau cùng viên sĩ quan đứng lên, xoay về phía tôi đồng thời nở một nụ cười vui vẻ mà ranh mãnh, giơ cái sàng ra, “Muốn xem chúng tôi tìm được gì không, bác sĩ?” Ông ta nói.

Tôi cảm ơn rồi tiến tới nhìn xuống cái sàng. Nó chứa đầy rác rưởi gồm những cành khô, xác lá, cỏ dại, sên nước, ốc chết và những con trai mà ta có thể vớt được dưới đáy một cái hồ cổ xưa như vậy, nhưng ngoài ra còn ba mảnh xương nhỏ khiến tôi kinh ngạc khi nhìn thoáng qua, cho tới khi quan sát kỹ chúng là gì.

Viên thanh tra tò mò nhìn tôi, “Hừm?”

“Phải...” Tôi đáp, “Rất thú vị.”

“Chúng là xương người, tôi đoán thế, phải không?”

“Đúng vậy, không còn nghi ngờ gì cả.” Tôi trả lời.

Viên thanh tra nói, “Giờ thì anh có thể nói ngay đây là xương ngón tay nào không?”

Tôi cố nén cười (vì đã chờ sẵn câu hỏi này) rồi trả lời, “Tôi có thể nói ngay rằng nó không phải là của ngón tay nào. Đây là xương ngón cái chân trái.”

Viên thanh tra há hốc miệng, “Khốn kiếp, đúng thế thật!” Ông ta thoort lên, “Hừ, nhìn chúng ngắn ngủn vậy mà.”

“Nếu các ông tiếp tục tìm kiếm xung quanh đám bùn nơi khám phá ra thứ naft, ta sẽ tìm được phần còn lại của bàn chân.” Tôi đưa ra ý kiến.

Viên cảnh sát mặc thường phục ngay lập tức làm theo lời tôi, cầm theo cái sàng để tiết kiệm thời gian. Và quả vậy, sau hai lần sàng bùn dưới đáy hồ, phần còn lại của bàn chân đã được phát hiện.

“Giờ chắc anh hả hê lắm, tôi đoán thế.” Viên thanh tra nói sau khi tôi đã kiểm tra và thấy các bộ phận đều đầy đủ.

“Lẽ ra tôi còn có thể hả hê hơn nếu biết trước các ông định tìm thứ gì trong cái ao này cơ.” Tôi đáp. “Hẳn là các ông không chủ tâm tìm bàn chân đấy chứ?”

“Tôi đang tìm kiếm xem có bất cứ mẩu xương nào không.” Ông ta nói, “Tôi sẽ vẫn tìm kiếm tiếp cho tới khi khám phá ra toàn bộ cái xác. Tôi sẽ tìm khắp các dòng suối và ao hồ quanh đây, ngoại trừ hồ Connaught Water. Tôi để lại chỗ đó sau cùng vì sẽ phải tìm bằng cách kéo lưới từ trên thuyền, mà khả năng tìm thấy cũng không cao bằng ở các hồ nhỏ. Có lẽ xái đầu sẽ nằm ở đó, hồ đấy sâu hơn tất cả các nơi khác.”

Thấy rằng mình đã tìm hiểu hết tất cả những gì có thể ở đây vốn cũng rất nhỏ nhoi, tôi nghĩ đã đến lúc nói lời tạm biệt, để mặc viên thanh tra tiếp tục tìm kiếm mà không bị tôi quấy rầy. Vậy là tôi cảm ơn ông ta rồi rời đi theo con đường mà mình đã đến.

Nhưng khi bước ngược trở lại con đường mát mẻ, tôi cứ nghĩ mải về công việc của viên cảnh sát. Việc khám xét bàn tay bị rời ra cho thấy ngón tay đã bị cắt sau khi chết hoặc ngay trước khi chết, nhưng nhiều khả năng là sau. Ai đó hẳn đã đí tới kết luận tương tự và nói với thanh tra Badger, vì rõ ràng ông ta đang cố gắng tìm kiếm ngón tay bị mất. Nhưng tại sao ông ta lại tìm nó ở đây trong khi bàn tay được tìm thấy ở Sidcup? Liệu ông ta sẽ khám phá ra điều gì khi có được nó? Không có gì đặc biệt trên một ngón tay cả, hay ít nhất là trên xương ngón tay, và mục đích của cuộc tìm kiếm hiện tại là để nhận diện nạn nhân. Có gì đấy rất bí ẩn trong tất cả việc này, hình như thanh tra Badger biết bí mật nào đó. Nhưng nó là gì? Và làm thế nào ông ta biết được? Đó là những câu hỏi mà tôi không thể tìm ra lời giải, và tôi vẫn cố suy luận về chúng một cách vô ích khi trở về căn nhà giản dị nơi cuộc thẩm tra sẽ được tiến hành, xin phép đi ăn một bữa trưa thanh đạm để chuẩn bị dự buổi hội thẩm.