PHẦN THỨ NHẤT - NƯỚC VIỆT NAM NGÀY TRƯỚC VÀ GẦN ĐÂY 1913-1932-Sadec, Oct 27, 2014 -Ngày thơ ấu ở Huế
Thưa Điện hạ, Điện hạ còn trẻ, nhưng đã mang trong mình một hoài bão của một triều đại huy hoàng và tương lai của một dân tộc. Điện hạ rất đáng mến, mà trong giới cổ kính của nước Pháp, chỉ nhìn thấy Điện hạ, người ta đã sẵn sàng gọi Điện hạ là vị Đông cung Hoàng thái tử đáng yêu.
Viên Khâm sú Pierre Pasquier sửa lại cặp kính mũi, và tiếp theo:
- Điện hạ đã được thụ bẩm những đức tính vương quyền của Tổ tiên, do Phụ hqàng, ngày càng phát triển thêm bởi sự chăm sóc trọng hậu của hai vị Quốc thái. Ngày du học của Điện hạ tại Pháp lại càng mở mang thêm nữa. Nước Pháp sẽ giáo huấn Điện hạ thành một vì Vương sáng suốt, tiến bộ, nhân ái và vị tha, có nhãn quan rộng lớn, một vì Vương thông thái, thành thực trung chính và thẳng thắn. Thẳng thắn là tinh thần cao thượng của Pháp. Và bởi Phảp, Điện hạ sẽ là một anh quân, không một vết nhơ trong lịch sử.
Rất chăm chú và với khá nhiều khó khăn, tôi nghe lời phiên dịch của viên thông ngôn nói với cha tôi là Hoàng đế Khải Định, ngồi ở bên trái tôi.
Với bộ râu cằm xén vuông vắn, bộ ria cứng màu đen tỉa nhọn, áo veston trắng khuy cài trịnh trọng, quần đen có nẹp, viên Thượng sứ của Pháp quốc quả đã nghiêm chỉnh, uy nghi, khi đọc bản chúc tụng trong buổi lễ trang nghiêm này. Ông ta nhìn tận mắt tôi một giây lâu, rồi nhấn mạnh từng chữ:
- Xin Điện hạ luôn nhớ tới buổi lễ tấn phong này, đã có hai khuôn mặt vĩ đại cúi xuống nhìn Điện hạ, vừa để mỉm cười chúc mừng Điện hạ, vừa để che chở cho Điện hạ: Đó là khuôn mặt nghiêm chỉnh và đạo đức của nước Việt Nam cổ kính, và khuôn mặt hiền từ và rạng rỡ của nước Đại Pháp sáng lạn và vinh quang.
Viên Khâm sứ nói xong thì tiến tới một phía điện, đứng chung vào chỗ quí khách người Pháp được mời dự khán.
Cha tôi ngồi trên ngai, nghe ông ta nói xong, bấy giờ mới đứng lên đáp từ:
- Thưa quan Khâm sứ, Trẫm xin cảm tạ sự chúc mừng nồng nhiệt của quan Khâm sứ trong dịp đại lễ này. Lời chúc tụng đó làm cho Trẫm vô cùng vui sướng. Lẽ tự nhiên, người cha nào cũng hân hoan khi thấy con mình được tiên khởi thành nhân vật trọng đại mai sau. Đông cung Hoàng thái tử sẽ là bực Trừ quân, để mang một trọng trách cho nước Việt Nam mai sau, và sự bang giao chính thức với quốc gia bạn. Cho đến nay, vì con Trẫm còn nhỏ, nên Trẫm chưa thấy cần thiết lập lên làm Đông cung Thái tử, điều mà bên Tôn nhơn phủ và Cơ mật viện đều mong mỏi. Nhưng bên chính phủ Đại Pháp cũng như các vị quí quan thuộc chính phủ bảo hộ Đông Dương, đều có ý định tương đồng, khi nhớ tới những đức tính cao cả và sự trung tín của Đức Tiên đế, nên Trẫm rất sung sướng phong cho con Trẫm lên làm Đông cung Thái tử, hầu sẽ kế vị Trẫm mai sau, trong buổi lễ tấn phong vào ngày hôm nay. Trẫm nghĩ rằng như vậy là đã thỏa mãn được nguyện vọng của các quan trong triều đình cũng như trong dân gian nước Việt Nam vậy.
Đấy là vào ngày 28 tháng 4 năm 1922, tức ngày mùng 2 tháng 4 năm thứ 7 đời Khải Định, lúc ấy tôi mới lên chín tuổi.
Từ tảng sáng, khi tiếng thần công nổ vang, báo hiệu giờ khai triều, các quan đủ mọi phẩm trật, vận đại trào đều đến chật sân chầu, trong khi các quan thuộc bộ Lễ âm nhạc dẫn đầu, kéo đến điện Cần Chánh, để mang các bảo vật dành cho tôi, xếp để lên bàn: một sắc phong khắc lên giấy bằng vàng, ấn vàng. Sắc để trong một ống quyển, có giá sơn son, đầu giá có hình đầu chim Phụng, bằng vàng.
Sắc chiếu này có kềm ngọc tỉ của Hoàng triều, và đề ngày 10 tháng 3 năm 1922, chứng tỏ đường lối chính trị khôn khéo của cha tôi:
“Để tập hợp các phương hướng dị biệt trên toàn quốc, đưa non sông về một mối duy nhất, cần phải có một chính quyền trung ương vững mạnh. Để đặt chính thể vào một vị trí vững chãi, bất khả xâm phạm, cần phải bảo đảm cho Ngai Vàng một căn bản liên tục, đã được dự trù hoàn hảo. Căn cứ vào đường lối ấy, Hoàng triều liệt thánh trước đây bao giờ cũng chọn lựa. Sẵn ngôi Đông cung Thái tử, để nối ngôi và phụng thờ tôn miếu.
“Con trai cả Trẫm, Vĩnh Thụy, được giáo huấn nơi cung điện, hãy còn nhỏ tuổi. Học vấn mới sơ khai, ngọc còn chưa dũa đến nơi đến chốn. Trẫm vẫn muốn chờ đợi đến một ngày khác, khi Hoàng tử đã khôn lớn, có đủ Đức, Tài, mới tấn phong cho làm Đông cung Thái tử.
“Tuy nhiên, gần đây, Hội đồng Tôn nhơn phủ và Cơ mật viện Đại thần đều đồng thanh khẩn cầu Trẫm làm lễ tấn phong cho Thái tử lên chức Đông cung kế vị Trẫm sau này. Các vị Đại thần đã bảo nhau rằng: Một vấn đề trọng đại cho triều đình như vậy, cần phải được hoàn tất ngay, hầu ban bố cho toàn thể dân chúng biết là tương lai của họ đã được trao cho ai. Như vậy, sẽ tránh được những dòm ngó của kẻ vô chính thức, khỏi sinh lòng kia khác.
“Sau những suy tư tương tự, Trẫm cũng nhận thấy rằng, việc nối ngôi vốn là một trách nhiệm nặng nề, việc tấn phong sẽ là một sự cần thiết, có tầm quan trọng lớn lao.
“Bởi vậy, Trẫm nghĩ rằng nên tham khảo ý kiến bên quốc gia bảo hộ về vấn đề này.
“Ngày 25 tháng giêng năm nay (ngày 21 tháng 2 năm 1922), quan Toàn quyền Đông Pháp đã tới yết kiến Trẫm tại kinh đô Huế, và cho biết là chính phủ Cộng hòa Pháp quốc cũng như chính phủ Bảo hộ Nam triều, đều hân hoan chấp nhận dự định tấn phong này.
“Quan Khâm sứ Trung kỳ cũng nhận định y như quan Toàn quyền Đông Pháp là nước Pháp bảo hộ thân hữu rất quan tâm đến sự củng cố tình hữu nghị giữa hai nước, và sự thịnh vượng của Việt Nam, nên chính thức loan báo công nhận đề cử con Trẫm lên làm người kế vị Trẫm sau này.
“Dĩ nhiên, nào ai biết chắc được tương lai của mình? Nhưng nếu được chuẩn bị sẵn sàng, thì bao giờ cũng dễ dàng đối phó trước mọi bất trắc bất ngờ.
“Trước sự đồng nhất thỉnh cầu của các bậc Đại thần, và sự tha thiết của quí quan Đại Pháp, đại diện chính phủ Bảo hộ, hằng quan tâm đến sự bền vững của Ngai Vàng, Trẫm đã quyết định xin ý kiến của hai Đức Hoàng thái hậu, và đã được hai Ngài chấp thuận.
“Bởi vậy, Trẫm chiếu phong cho con trai cả Trẫm, Vĩnh Thụy, lên chức Đông cung Thái tử, sẽ kế vị Trẫm làm Hoàng đế Việt Nam, và được ngự tại An Định cung phía Đông Hoàng cung.
“Tòa Khâm thiện giám được chỉ định tìm ngày lành tháng tốt, để làm lễ tấn phong cho Thái tử, ngày yết kiến Thái miếu, và đặt chương trình cho ngày lễ long trọng này. Tòa Khâm thiên giám sẽ tấu trình ngay Trẫm, để được chấp thuận và thi hành.
“Khâm thử”
Vào 8 giờ sáng, Hoàng đế được xa giá ra ngự Triều. Xa giá của Ngài là chiếc ghế có lính khênh. Chiếc ghế này có một lịch sử khá dài. Quốc vương Louis XVI của nước Pháp đã gửi tặng tổ tiên tôi là Hoàng đế Gia Long, khi ký Hòa ước Versailles năm 1787, giao kết giữa hai nước, và do Đức Cha Bá Đa Lộc (Monseigneur Pigneau de Behaine) lúc ấy là sứ thần của Chúa Nguyễn, khi đưa Hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện. Từ đó, chiếc ghế được dùng làm vật di chuyển cho các vị Tiên đế đi lại trong thành nội.
Cha tôi vận đại trào: mũ cửu long tranh châu, áo hoàng bào, đai ngọc, gậy ngọc. Bảy phát súng thần công nổ vang báo hiệu lúc đăng triều. Chuông khánh reo vang ở hai bên tả hữu cửa Ngọ Môn, là cửa chính đưa vào điện Cần Chánh, nơi thết đại triều.
Ngay lúc ấy, quan Khâm sứ tới. Ông được một viên quan bộ Lễ đến đón, có lính ngự lâm cưỡi ngựa tháp tùng. Khi đến cửa Ngọ Môn, ông xuống xe và đi bộ, cùng các quan khác người Pháp leo lên đại diện ở đó, tôi đã túc trực sẵn để đưa ông tới triều kiến Hoàng đế.
Chính tại đó, mà quan Khâm sứ đã đọc diễn từ chúc tụng, và cha tôi đã đáp lại như sau:
- Được giáo huấn vào nhiệm vụ lớn lao này, Hoàng thái tử Vĩnh Thụy ngay từ bây giờ, cần phải được trau dồi về học vấn lẫn tâm hồn. Chính vì vậy, Trẫm quyết định cho theo Trẫm sang Pháp trong dịp Tây du của Trẫm nay mai, hầu trao phó sự uốn nắn này cho nước Pháp bảo hộ. Làm như vậy, Trẫm có một niềm tin sắt đá về Thái tử, khi hồi triều, sẽ là một vì Vương sáng suốt, sẵn sàng canh tân đất nước, hầu sửa soạn nhiệm vụ cao cả của Thái tử, khi lên nối ngôi, để thắt chặt tình hữu nghị mặn nồng giữa hai nước Việt Nam và Pháp.
Hoàn cảnh hạnh lạc này giúp Trẫm khẳng định được rằng đường lối chính trị thẳng thắn và trung tín mà Trẫm từng theo đuổi, đã đạt nhiều kết quả tốt đẹp, mà triều đại Trẫm có thể tự hào.
Sau khi đọc xong bản diễn từ, Hoàng đế bước lên ngôi nghiêm chỉnh trên ngai để các hoàng tử khác, theo sự hướng dẫn của viên quan bộ Lễ vào lạy mừng, theo định lệ là lạy năm lạy.
Đến lượt tôi. Cũng lạy năm lạy xong, tôi được quì chênh chếch bên tay trái Hoàng đế, vì không ai được nhìn thẳng vào trước mặt Đức Vua. Hai viên Đại thần khác cũng tới quì ở trước Hoàng đế. Một vị đọc sắc chỉ tấn phong tôi, còn vị kia đọc các hàng chữ khắc lên ấn vàng của tôi. Xong xuôi, họ trao các bảo vật ấy cho tôi và tôi lại trao lại cho hai viên quan tôn thất của Hoàng gia. Lạy năm lạy nữa, bây giờ tôi mới được phép lui vào phòng đợi.
Lúc ấy, một vị Đại thần trong Nội các, được coi là Ngự tiền Văn phòng của Đức Vua đến tấu trình xin được ban bố chiếu chỉ tấn phong này. Hoàng đế chấp thuận, và một vị quan trong bộ Lại (tức bộ Nội vụ) đến lấy tờ sắc chỉ để trong ống quyển, có đầu chim Phụng bằng vàng, cho rước ra phòng sắc chỉ. Tại đây, sắc chỉ được niêm yết trước khi được đem phổ biến cho các cơ quan và các tỉnh.
Trước khi Vua lui chầu, các hoàng tử và các đại thần lại phải lạy năm lạy tạ ơn, để chấm dứt buổi lễ.
Cha tôi dự tiệc trà nhỏ với quan Khâm sứ và các quí khách người Pháp. Khi họ ra về, cha tôi mới hồi cung.
Lúc các hoàng tử và các đại thần tiễn tôi về An Định cung thì mới chín giờ sáng. Đám rước này, ngoài các hoàng tử và các quan, còn có lính kỵ mã của Hoàng đế và lính ngự lâm vận áo nậu đỏ, và vác những cờ ngũ hành nghi biểu. Xe chở tôi do hai con bạch mã kéo, và có lọng đỏ che phủ hai bên. Chiếc hương án đi dẫn lộ mang sắc chỉ và ân tín cũng đều có lọng che như vậy. Đến An Định cung, các hoàng tử và các quan được ban trà nước.
Hôm sau, tôi đến lăng thờ Đức Nguyễn Kim, là vị khai sáng ra dòng chúa Nguyễn, và thủy tổ của các vì Tiền đế, kể từ Vua Gia Long trở đi. Tôi phải làm lễ bái tạ, xong đâu đó, tôi lại đến cung của hai Đức Thái hoàng Thái hậu, và cuối cùng đến Cung của Hoàng hậu Hữu Phi là thân mẫu của tôi.
Ba ngày sau, lại một lễ nữa tổ chức ở triều đình để các quan đến dâng Vua lời xứng tụng, đựng trong một hộp gỗ sơn son thếp vàng, và phủ một vuông nhiễu điều.
Đến hôm sau nữa, thì các quan đến An Định cung cũng để dâng cho tôi lời chúc tụng viết trên giầy hồng điều, và đựng trong một gỗ tương tự như đã đệ trình Đức Vua. Tôi tiếp kiến họ, và ngồi trên một ghế làm ở giữa cung, nhưng chỉ có các hàng quan tam phẩm được phép vào chào mừng mà thôi, vì cung này còn quá nhỏ. Các vị khác đứng ngoài hiên mà xá vào.
Thế là ngày tấn phong của tôi là lễ tấn phong lần thứ hai của triều Nguyễn. Lần. Lần phong thứ nhất đã được cử hành ngày 6 tháng 4 năm 1816 đối với Hoàng tử Hữu, con trai thứ hai của Vua Gia Long, về sau là Hoàng đế Minh Mạng.
***
- Thưa Điện hạ, Đức Kim thượng đang chờ Điện hạ. Đã đến lúc khởi hành rồi.
Viên nội giám đến báo tôi, trịnh trọng cúi đầu, khi tôi bước qua mặt ông ta để đến điện Kiến Trung.
Lúc ấy khoảng tám giờ sáng, ngày 15 tháng 5 năm 1922. Ngày đó là ngày mà các chiêm tinh thuộc Tòa Khâm thiên giám sau khi xem thiên văn, và tính toán kỹ lưỡng, đã công nhận là ngày lành tháng tốt, để cha tội và tôi xuất hành sang Pháp.
Cha tôi mặc chiếc ảo dài màu vàng sẫm, là màu chỉ riêng Vua mới được dùng, còn tôi thì mặc áo mầu da cam, dành riêng cho Thái tử kế vị.
Đến điện Kiến Trung, tôi khấu đầu trước Vua cha, và không ai nói một lời, hai cha con ra hành lang bên hữu đưa về điện Cận Thành, ở đó có cuộc tiễn đưa nhỏ. Dọc theo các bức tường màu hồng, mười hai bà cung phi của Hoàng đế đã phủ phục đợi chờ, theo thứ bậc của họ. Không ai dám ngẩng đầu nhìn lên. Trong các bà này có mẫu thân tôi là Thứ phi, đang âm thầm nhỏ lệ. Cha con tôi thản nhiên bước đi như kẻ vô tình. Tôi chỉ chú trọng làm sao cho bước chân mình đi đúng vào vết chân của Vua cha, và giữ khoảng cách nghiêm chỉnh phía sau. Tôi có một sự tôn kính vô cùng đối với cha tôi, và tôi cảm thấy rất hãnh diện được đi cùng với Người, bởi sự đó rất hiếm. Đối với tôi, Người là sợi giây bằng xương bằng thịt nối liền dòng họ lê thê của tổ tiên tôi kế thế mãi sau này, đồng thời do chứa đựng lẽ huyền vi của bậc người khác phàm trên hết mọi người khác.
Tại điện Cận Thành là nơi cung điện cuối cùng của hoàng thành, một đội thị vệ đã túc trực sẵn sàng. Họ dẫn chúng tôi đến điện Cần Chánh vẫn dùng để thết đại triều. Ở bên ngoài đã có một chiếc ngự xa chờ sẵn. Tất cả các quan triều thần vận đại trào đã tập trung, để tiễn đưa cha con tôi đi xa. Các quan Tứ trụ Triều đình mặc áo gấm tía, các quan nhị phẩm mặc gấm xanh, các quan tam phẩm trở đi mặc áo thụng xám. Màu sắc lộng lẫy này đem lại chút ít tươi sáng cho buổi ban mai ẩm ướt trong mùa mưa ở Huế.
Tôi ngồi đối diện với Vua cha trên chiếc xe tứ mã này, có lính thị tập đứng phía trước và phía sau xe.
Qua sân chầu, ra cửa Ngọ Môn là cửa chính chỉ dành riêng để đương kim Hoàng đế đi qua, chiếc xe tứ mã đi chầm chậm trong sự tịch mịch hoàn toàn, chỉ có tiếng sương cô đọng ban đêm trên những tàu lá rơi tí tách, thưa trầm, đều đặn. Ra cửa Nam, qua những hồ sen, xe lên cầu Clémenceau trên sông Hương, đi về phía hữu ngạn, bây giờ mới phi nhanh. Dọc đường, dân chúng đứng hai bên tung hô vạn tuế.
Đến ga xe lửa, quan Khâm sứ Pierre Pasquier đang chờ đợi. Ông đi cùng với chúng tôi sang Pháp, có gia đình mang theo về, gồm có phu nhơn và ba đứa con. Đoàn tùy tùng khoảng mười hai người: một vị Thượng thư, một viên thông ngôn (vì hai cha con tôi đều không nói được tiếng Pháp), vài vị quan võ, thêm em họ tôi là Hoàng thân Vĩnh Cẩn cũng cùng đi.
Một toa xe lửa riêng đã dành sẵn để đưa chúng tôi tới Tourane.
Đây là lần đầu tiên, tôi được đi xe lửa, và cũng là lần đầu tiên tôi ra khỏi kinh đô Huế, vì vậy nên tôi rất tò mò.
Đã ba tháng qua kể từ ngày cha tôi tuyên bố quyết định cho tôi sang Pháp du học. Tôi là con trai độc nhất của Người. Biết rằng Pháp là một nước tiền tiến nên Người muốn cho tôi sang thu nhận cái văn minh tiến bộ ấy để dung hoà vởi nền học vấn cổ của phương Đông.
Sau khi tham khảo ý kiến với quan Toàn quyền Long, phụ hoàng quyết định gửi tôi lưu trú tại nhà cụ Charles, cựu Khâm sứ Trung kỳ rất được quan Toàn quyền Long tín nhiệm và ngợi khen khi biết cụ ngày còn ở Huế.
Năm tôi lên hai tuổi thì cha tôi lên ngôi Hoàng đế. Khi lên năm, thì tôi không còn được ở trong cung của các bà hoàng phi, cùng với bà nội tôi, là Đức Thái hoàng Thái hậu, mà phải đưa sang phía Đông cung, gọi là Thanh cung vì màu xanh là màu của phương Đông, và cũng là màu của mùa Xuân, theo ý nghĩa của ngũ hành trong Dịch Lý.
Cung này có một buồng ngủ, một phòng khách, một phòng ăn, và dẫy nhà phụ thuộc. Vài kẻ hầu cận. Hàng ngày, viên quan phụ đạo đến dạy tôi học chữ nho, học Luận ngữ của Khổng phu tử, để học theo đạo làm người, và đạo làm Vua. Đây là một nhà Nho, một vị quan học vấn uyên bác. Ông cũng cùng đi sang Pháp để kèm tôi về môn cổ học, trong thời gian lưu trú tại Pháp.
Trong bốn năm liền, tôi đã sống hoàn toàn cô lập, ăn một mình, học một mình theo một chương trình đã được ấn định, ngày hôm nay không khác ngày hôm qua.
Mỗi buổi sáng, sau khi điểm tâm qua loa, ông thầy đến giảng một đoạn của sách Luận ngữ, bắt tôi học và đọc lại. Bài học chữ nho này luôn hướng vào những châm ngôn, tục ngữ, hay những ca dao rất thông thường phổ biến trong dân gian, đại để:
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”
“Bảo hành tắc nan, sú hành tắc dị”
“Kính bất như tuân mệnh”
Những phương châm xử thế này phản ảnh rất trung thực đời sống thực tế của con người, tạo nên quốc giáo Khổng giáo ở nước tôi. Có thể duy linh tất nhiên, vì nó hướng thiện, đưa con người vào mục đích tối cao là sự toàn thiện, toàn mỹ, những phương châm đó không phải đã không đem lại một ý niệm triết học lấy căn bản thực tế, và dứt khoát.
Chính vì vậy, dựa vào Khổng học, mà quyền hạn của nhà Vua có gốc rõ rệt, đồng thời cái quyền năng ấy cũng bị tự chế do giáo lý này đưa lại. Chỉ có thấu đáo nền Khổng học, mới có thể hiểu được hình thái gần như mâu thuẫn trong cơ cấu xã hội nước tôi. Khi học kỹ lưỡng bổn phận của bậc Đế vương, tôi mới làm tròn sứ mệnh của ngôi Hoàng đế, sứ mệnh làm Đại giáo chủ, làm Đại tư ý làm cha mẹ dân, và sứ mệnh làm thiên tử.
Buổi trưa, sau khi ngủ chợp mắt ít nhiều, tôi đi dong chơi trong vườn hoa, ở phía sau cung điện. Vườn hoa đó có tường cao bao bọc, về mùa xuân hoa cỏ xinh tươi: phượng vĩ trổ hoa đỏ rực cả vườn, hoa anh đào, hoa lê, hoa lựu đua nhau nở... thật như ngày hội. Giữa vườn có chiếc ao sen tôi thường ngồi đó câu cá hằng giờ.
Thỉnh thoảng, cha tôi đến xem tôi đã học được đến đâu. Ngài thường hỏi tôi về những điều đã học, và chỉ yên trí khi tôi đã nhập tâm rồi. Một hai lần trong tháng, tôi được phép ngồi ăn cùng Ngài. Rất hiếm khi Ngài cho tôi đi theo sang dinh quan Khâm sứ. Nhưng nếu có lần nào, khi Ngài bận đàm đạo với vị quan này, thì tôi rất thích thú được vui đùa với các con của ông ta, nói tiếng Việt Nam rất sõi. Một đứa trong bọn cùng tuổi với tôi. Trong thời gian đó, chẳng bao giờ tôi có món đồ chơi nào. Tuy nhiên, ngắm nhìn thiên nhiên như tôi vẫn làm hàng ngày, chính là vui chơi với toàn thể vũ trụ rồi.
Cũng như sự học của tôi, sự giải trí nào của tôi cũng nhuốm màu trung tín, qui củ và trật tự. Nhiều khi trong những dịp lễ lạc, kỷ niệm của hoàng gia, tôi có thể đến các cung cấm của các bà cung phi, hoàng hậu ở về phía bên kia cung điện của Vua cha, có bức tường kín mít che khuất. Mỗi bà phi có một cung riêng. Đức Thái hoàng Thái hậu ngự nơi tốt đẹp nhất.
Trong những dịp này, tôi đến vấn an bà tôi, và theo một nghi thức rất chặt chẽ là chỉ được quì mà thưa gửi, trong khi bà ngồi sau một bức mành tre, tôi chỉ trông thấy lờ mờ. Cung cấm của các bà phi còn có một vài quan thái giám và rất nhiều cung nữ. Mỗi bà phi được sử dụng một số cung nhân tùy theo phẩm trật của các bà. Các cung nhân này thường làm các món ăn ngon để hàng ngày mang đến cho tôi.
Thế rồi, biết bao nhiêu những cuộc tế lễ long trọng mà tôi phải dự, đưa tôi từ chỗ huy hoàng này đến chỗ huy hoàng khác giữa những gấm nhung thêu rồng vẽ phượng, trong bầu không khí vừa ngây ngất vừa huyền bí, có nhạc bát âm và quyện màu hương khói.
Tất nhiên, một qui chế nghiêm khắc, thiếu hoạt động, vắng thể dục, thể thao, đâu có tốt gì cho đứa bé con? Sự đó đã chứng minh là nhiều hoàng tử đã chết non chết yểu, như ông nội tôi chết năm mới 25 tuổi. Bào đệ của ngài chết năm 14 tuổi. Còn tôi, túy đã 9 tuổi mà chỉ cân nặng có hơn 20 kí lô.
Vì không biết các lối sống nào khác, nên cuộc sống của tôi cũng chẳng làm tôi buồn. Tôi chấp nhận các thể thức bắt buộc, mà chỉ biết có nhắm mắt thi hành. Bởi thế, tâm hồn hiếu thuận của tôi đối với phụ hoàng bao giờ cũng là sự tôn kính, bởi tính chất thiêng liêng, bất khả xâm phạm của Ngài. Đó chính là điều nằm trong tam cương của Khổng Mạnh: Quân, Sư, Phụ. Sự giáo huấn dành cho một hoàng tử quả nhiên đã bao gồm toàn diện. Sự rửa tim gạn đục khơi trong, từ bỏ mọi cám dỗ và sa ngã là điểm chính để hun đúc vì Thiên tử tương lai. Hơn thế nữa, vị Thái tử kế vị chẳng những chỉ biết có đè nén tình cảm, mà còn phải gạt bỏ mọi tình cảm để trở thành vô ngã. Chưa từng bị đau về thể xác, tôi học dễ dàng sự bất động, trơ như đá, vững như đồng. Phương ngôn có câu rằng: Mặc ai nói đông nói tây, thì ta cứ vẫn như cây giữa rừng, và tôi đã đạt. Ông thầy học đã kể cho tôi nghe về vấn đề này, một câu chuyện lạ kỳ của một vị Hoàng đế ngày xưa, mà cả triều đình muốn truất phế, dưới hình thức ôn hòa, không đổ máu. Theo thông lệ, đầu năm nhà vua được các quan vào chúc tụng. Ông ta phải ngồi nghiêm chỉnh trên ngai, bất động để các quan triều bái. Vào lạy, mà lạy càng lâu thì đó là sự phục tòng, sự trung thành, không có gì đáng quí bằng. Đối với nhà Vua, thì càng nghiêm chỉnh, bất động bao nhiêu, càng chứng tỏ các thần uy của bậc Thiên tử bấy nhiêu.
Triều thần muôn biến cuộc đại bái này thành hình thức nổi loạn. Lẽ ra, lạy xong rồi thì đến lượt người khác, nhưng họ đã quay lại đứng tiếp phía sau để vào lạy nữa, cứ thế kéo dài vô tận. Trong khi đang hành lễ, nhà Vua không được cử động gì, để xứng đáng là vị chân mạng đế vương. Khi hiểu biết cái âm mưu kia, ông ta vẫn ngồi yên, trơ trơ như tượng. Dần dà mệt mỏi và kiệt sức, người ông tái nhợt xanh lè. Nhưng ông càng cương quyết giữ vững. Mãi sau ba ngày mới ngã xuống mà chết. Bọn khởi nghịch đã thành công.
Quốc phá, gia vong, thân bại, danh liệt tất khởi do phi lễ. Tức là xã tắc đổ, nhà bị suy vong, thân bị diệt, chính đều do mất lễ mà ra Thánh đã dạy như vậy. Hệ thống giáo dục ấy, đã thiểu tình mẫu tử, không bạn bè, trong một sự cô lập liên tục hoàn toàn, đưa tôi đến chỗ rất nhạy cảm trong tự vệ, và quay về sự suy tư thầm kín của nội tâm mình.
Học vấn đã nhẹ về văn chương, không có tí gì về khoa học, chẳng cho tôi một kiến thức khả quan nào là lẽ tất nhiên. Chỉ có giáo điều luân lý. Thực hành các giáo điều này trở thành một thứ xã tắc thứ hai của tôi. Tính tình tôi được tôi luyện trong bốn năm ấy, làm tôi giữ mãi đến bây giờ sở thích được trầm tư và đi tìm sự cô đơn.
Vì vậy, lần gặp gỡ đầu tiên đối với xã hội bên ngoài ở sân ga, nếu không làm tôi ngạc nhiên thế, thì cũng buộc tôi phải tò mò.
Khi cha tôi bảo cho tôi biết là sẽ sang Pháp, người đã lưu ý tôi rằng; tôi là hoàng tử thứ hai của triều đại đã đi xa như vậy. Bởi vì vào năm 1787, Hoàng tử Cảnh mới lên bảy tuổi và là con của Hoàng đế Gia Long là vị Vua sáng lập ra triều đại, đã tới cung điện Versailles cùng với Đức Cha Ba Đa Lộc (Mgr Pigneau de Behaine). Vua Gia Long khi ấy đang bị mất đất, muốn tìm một đồng minh cường mạnh ở phương Tây, để liên kết chứ không phải để phụ thuộc làm chư hầu. Vì thế, Ngài cử Đức Cha này sang Pháp để ký với quốc vương nước ấy một hiệp ước hầu lấy viện trợ. Với sứ mạng đó, Ngài phong cho Đức Cha được toàn quyền, và để chứng minh sự tấn phong này, Ngài đã giao cả quốc tỉ cho ông, để làm bằng. Hơn thế nữa, Ngài muốn cho sứ bộ này tính chất quan trọng tuyệt đối, và sự tín nhiệm vô biên của Ngài, nên đã trao cho con ngài là Hoàng tử Cảnh cho Đức Cha mang đi.
Sử bộ đã đạt kết quả. Ở triều đình Versailles, ông hoàng tí hon Nam kỳ đã chinh phục được tất cả mọi cảm tình, kể từ hoàng thái tử, con trai cả của Vua Louis XVI và Hoàng hậu Marie Antoinette vốn cùng tuổi với hoàng tử. Trong một xã hội chán ngán của hậu thế kỷ 18, hoàng tử đã mang lại điều bí mật của phương Đông. Quả là một kỳ quan cần phải cho nổ tung ra. Thế là chàng Leonard bất hủ, thợ làm tóc cho hoàng hậu Antoinette liền tung ra mốt “khăn quàng đầu kiểu ông hoàng Nam kỳ” cho quí khách nam, và “búi tóc kiểu Trung Hoa” cho quí khách nữ. Người ta say mê đi mua sắm những đồ sứ, đồ sơn của Viễn Đồng. Đức Cha Bá Đa Lộc ký được hiệp ước tương trợ cả về công lẫn về thủ, và những lời hứa hẹn viện trợ. Sau bốn năm vắng mặt, Hoàng tử Cảnh về nước năm 1789 và chết vào năm 1801, và chưa từng được lên ngôi ngày nào.
Hoàng thái tử Louis Joseph Xavier François, người bạn nhỏ xa xôi, từng đùa rỡn với nhau trong vườn ở Versailles, cũng bị chết vì bệnh tim mất từ 1789.
Cha tôi không quên nhắc nhở tôi rằng: “Nếu con có sang Pháp như Hoàng tử Cảnh, thì không phải cùng trường hợp như nhau. Cha đưa con sang đây để theo đuổi việc học; dù sao nữa, đây cũng là lần đầu tiên mà một vị Hoàng đế Việt Nam đã đi chơi xa như vậy”.
Đoạn đầu đi mất ba giờ. Phong cảnh gợi màu hoài cảm. Cành cây thấp la đà mặt nước, những con trâu đứng dưới ruộng cày, nước đến khuỷu chân, hếch mũi ướt nhìn trời. Cò, le, bay loáng trên những bụi ven sông. Đồng quê man mác ảo huyền thơ mộng.
Tàu qua nhanh vịnh Phú Án, trước khi len lỏi giữa các sườn núi dựng như thành của rặng Trường Sơn. Đường xe lửa tách rời quan lộ, chui vào các đường hầm xuyên sơn, như con rồng sắt nhả khói, khạc lửa. Đây đã tới đèo Hải Vân, và đổ xuống Tourane. Chúng tôi xuống chiếc tàu nhỏ duyên dáng 7.000 tấn, tàu Claude Chappe, thường xuyên đi lại giữa Hải Phòng và Sài Gòn.
Cả một ngày, tàu chạy ven bờ biển miền Trung, rất gập ghềnh của núi non nhô ra thụt vào về bên phải và người ta nhận được rõ ràng đường xe lửa cũng như đường quan lộ số 1. Cồn cát, mũi, cù lao, bãi biển liên tiếp kéo dài. Qua Qui Nhơn, đến mũi Varella, núi nhè nhẹ thấp dần, rồi đến Vũng Tàu, từ đó chúng tôi vào sông Sài Gòn để đến thủ đô của Nam kỳ.
Chúng tôi nghỉ ngơi ở dinh Thống đốc, trong nhà quốc khánh. Nghỉ ở đó hai ngày thì đáp tàu Porthos của hãng Messagerie Maritimes sang Pháp. Tôi ngủ chung một ca-bin với Hoàng để Vĩnh Cẩn, Về sau Hoàng đệ Cẩn bị say sóng và mệt mỏi nhiều lần trong khi đi đường. Còn tôi, không bao giờ bị say sóng cả.
Nghỉ ở nhiều chặng. Đến Singapour, chúng tôi thăm thành phố bằng xe ngựa. Tôi trông thấy người Mã Lai lần đầu tiên. Đến Colombo, người Ấn Độ không làm tôi ngạc nhiên, họ ăn trầu như các phụ nữ Huế. Rồi Djibouti, Ismaklia. Tôi chẳng biết tí gì về đoạn đường mà tôi phải đi qua, vì không có một bản đồ ở dưới tay. Tuy nhiên, có một sự lạ lùng mà tôi được mục kích: đó là núi lửa Stromboli đang phun. Trước đây, tôi không biết gì về núi lửa cả…