Thời thanh niên ở Pháp
Đến Marseille, Bộ trưởng bộ Thuộc địa Albert Saraut, cựu Toàn quyền Đông Dương đón chúng tôi ở bến tàu. Quân cảch dàn chào. Phụ hoàng vấn áo chẽn, có ngù đen ở hai vai, quần đen có nẹp, đi ủng và đeo kiếm. Tôi cũng ăn vận tương tự, theo màu sắc riêng dành cho tôi. Một chiếc ô tô đưa chúng tôi về thị sảnh, và chúng tôi ở đấy hai ngày để tiếp tân và dự tiệc.
Xe lửa chạy đêm, đưa chúng tôi từ Marseille lên Paris, nên tôi không có dịp quan sát dọc đường. Chèo lan thuyền quế, nay đã lên bờ. Đến cửa ngõ Paris, chúng tôi vào bằng cửa Dauphine là cửa ô vào kinh đô chỉ dành cho các bậc Vua Chúa phương xa.
Trong thời gian lưu ngụ ở Paris, chính phủ Pháp để chúng tôi cư trú tại bộ Thuộc địa đường Oudinot. Ba ngày đầu liên tiếp chỉ dành cho những hoạt động về nghi lễ. Tôi theo phụ hoàng đến đặt vòng hoa ở đài chiến sĩ vô danh, tức Khải Hoàn Môn ở Paris. Sự đặt vòng hoa tưởng niệm đó, với nghi thức long trọng trước công chúng có vệ binh Cộng hòa vận đại phục, cờ xí, quân nhạc làm cho tôi nhớ tới những ngày đại lễ ở nước tôi.
Buổi tối, cạnh phụ hoàng, chúng tôi được mời dự buổi dạ hội ca nhạc kịch ở đại hí viện Opéra. Có diễn vở Faust của Gounod. Nghệ sĩ đóng vai Mephisto làm tôi say mê, mặc dù tôi không biết tiếng Pháp. Vở kịch làm tôi thích thú và tôi thấy rạp hát rất đẹp. Sau các vụ tiếp tân đầy đủ, phụ hoàng đến lưu trú tại dinh thự của Quận công De Valencal, trước khi đi thăm thú các nơi theo chương trình đã định của chính phủ Pháp. Tôi và hoàng đệ Vĩnh Cẩn được đưa đến trao phó cho ông bà Charles, hai người đã coi chúng tôi như con đẻ của các cụ.
Cụ Charles trước đây là Quyền Toàn quyền Đông Dương, khi cha tôi mới lên ngôi cụ đã về hưu từ nhiều năm qua. Đây là một vị công chức khuôn mẫu, và khi nhận săn sóc chúng tôi, cụ đã chịu một trách nhiệm hết sức nặng nề.
Quê ở Auvergne, cụ có bộ ria rất đẹp. Tính tình trầm lặng, mà mãi về sau này tôi mới rõ cụ là tay bảo hoàng cự phách và có chân trong nhóm Action Française.
Cụ bà người ở Toulouse rất cởi mở, ngoan đạo và rất hiền, cụ rất thương mến tôi như các con cháu cụ. Thế là tôi gọi ngay cụ là Mêmê (Mémé) như tôi đã nghe cụ xưng với các cháu nhỏ của cụ. Còn chúng thì gọi thẳng tôi là Vĩnh Thụy, chẳng có tước hiệu gì cả, và tôi cũng không lấy thế làm phiền.
Tôi bắt đầu tìm thấy cuộc sống gia đình. Chúng tôi ở trong một chiếc nhà lầu nhỏ, số 95 đại lộ La Bourdonnais, như một gia đình trung lưu, không có gì là lộng lẫy huy hoàng. Tuy nhiên, cạnh tôi vẫn có ông thầy dạy chữ nho, và một tên tiểu đồng Việt Nam để sai vặt.
Khi bắt đầu nhận nuôi tôi, cụ bà Charles may âu phục cho tôi mặc. Từ đó, tôi sống như một tên Tây con. Tôi hòa đồng nhanh chóng vào tập quán của Pháp, cũng như về ẩm thực.
Đầu mùa hạ, chúng tôi đến thành phố Vichy, để nghỉ hè ở khách sạn Albert 1er vào tháng bảy. Lúc ấy tôi mới biết là cha tôi, nhân dịp tôi sang đây du học chính là chữa bệnh, do sức khỏe của Người có chiều quan ngại. Cha tôi về nước vào hồi này.
Tại Vichy, tôi được biết bà Lefoll mà ông chồng trưởc đây cũng từng là Khâm sứ Trung kỳ, rồi Thống đốc Nam kỳ. Bà Lefoll trẻ hơn cụ bà Charles rất nhiều. Bà có đứa con nhỏ, tên gọi Jacques Lefoll về sau là bạn thiết của tôi.
Sau thời gian ở Vichy, thì chúng tôi đến Prades, ở đó hai cụ Charles có một dinh cơ ở trong làng. Chúng tôi gặp được bọn cháu trai và gái của cụ. Nhờ thế, có thêm bà giáo già kèm dạy, nên tôi học rất mau tiếng Pháp. Đến độ rằng, về tam cá nguyệt cuối cùng của niên học, khi trở về Paris, cụ Charles đã ghi tên tôi vào học tại học đường Hattemer, và mặc dù tôi chưa từng được sửa soạn gì về môn học mới này, tôi đã bắt đầu theo lớp tám.
Lập tức, ở trường các bạn học của tôi liền coi tôi là bạn học, y như chúng mà thôi. Những ngày nghỉ, cụ bà Charles thường đưa tôi đi chơi ở công viên Champ-de-Mars. Tôi đánh vòng, cưỡi ngựa gỗ, xem các trò ảo thuật Guignol. Tết Giáng sinh, tôi nhận được món đồ chơi đầu tiên, đó là chiếc đầu máy xe hỏa. Trẻ con Tây chơi thả cửa, hết mình, trò chơi về thể dục thể thao không giống như trẻ con Đông phương. Tôi thấy rạng ra trước mắt một thế giới mới.
Được một năm rưỡi ở Pháp, tôi trở về nước năm 1924 để dự tứ tuần đại khánh của cha tôi. Lễ này kéo dài đến hai tháng. Cha tôi cho xe vào tận Sài Gòn để đón tôi và hai cụ Charles đi đường quan lộ ra thẳng Huế.
Nhờ dịp này tôi được quan sát các tỉnh thành, làng mạc của nước tôi, mà trước ngày sang Pháp, tôi chưa bao giờ ra khỏi kinh đô Huế. Trong ba tháng, tôi ở trong cung của cha tôi và dự nhiều buổi hội hè, khánh tiết. Dịp ấy, tôi vận quốc phục.
Cha tôi rất sung sướng nghe tôi nói tiếng Pháp. Trong lịch sử nước tôi, đây là lần đầu tiên một hoàng tử nói truyện bằng ngoại ngữ, ngoài tiếng nước mình. Phụ hoàng rất quan tâm đến sự học của tôi, sự giải trí, sự giao du với các bạn trẻ người Pháp, và tỏ ra rất hài lòng là đã có quyết định cho tôi sang Pháp trước kia.
Người biết là mình rất suy yếu, nhưng không tỏ ra cho tôi biết. Dù sao nữa, tôi đã được chuẩn bị để kế vị Người.
Tôi cũng được gặp lại mẫu thân tôi, và tất nhiên, mẹ con rất thương yêu nhau như cũ. Bà rất lo lắng khi tôi vắng mặt lâu ngày, và như tất cả các bà mẹ khác, sự tái xuất du của tôi phải làm cho bà lo ngại không ít.
Đức Đoan Huy Hoàng thái hậu, bà nội tôi cũng cho gọi tôi đến. Ngài cũng hỏi tôi cả trăm ngàn câu hỏi về những ngày lưu trú ở Paris. Bà nội tôi có thể so sánh như Hoàng hậu Catherine de Medicis. Khi cha tôi băng hà, và tôi còn ở xa, bà luôn cẩn mật giữ gìn để ngôi Vua phải được truyền lại cho tôi. Để đánh tan mọi âm mưu thoán đoạt chính Ngài đã giữ Ngai vàng cho tôi vậy.
Cuối mùa xuân năm 1924, chúng tôi trở lại Paris. Tôi lại theo học ở học đường Hattemer. Năm ấy tôi mười một tuổi, và bắt đầu thích các bộ môn thể thao. Tôi chơi tennis ở hội Bagatelle.
Cũng năm ấy, cha tôi cho tôi chiếc ô tô đầu tiên. Đây là chiếc Panhard, có tài xế Việt Nam lái. Nhờ xe này, tôi đã đi chơi nhiều nơi quanh nước Pháp. Tôi thăm núi Mont Saint Michel, thăm lâu đài bên giòng sông Loire (Chateaux de la Loire). Tôi muốn biết hết, rất khao khát mọi sự mới lạ, để ý đến tất cả mọi điều.
Cuối tháng 11 năm 1925, cụ Charles đợi tôi ngoài cổng trường, và bảo tôi rằng:
- Điện hạ Vĩnh, lão có một tin rất buồn, báo Điện hạ biết. Hoàng đế Khải Định mới băng hà ngày hôm kia (ngày 25 tháng 11 năm 1925). Điện hạ về nước để nối ngôi, kế vị vua cha. Đây là một trách nhiệm hết sức nặng nề, mà Điện hạ phải gánh vác, nhưng lão tin rằng Điện hạ đã sẵn sàng đảm trách.
Năm ấy tôi mới mười hai tuổi.
Tôi liền cùng hai cụ Charles trở về Việt Nam.
Chúng tôi đến Huế vào cuối tháng chạp. Tâm hồn tôi đã cương nghị rồi, nhưng tôi phải chuẩn bị để lên ngôi.
Trước khi mất, cha tôi đã ngỏ ý muốn tôi theo học đến nơi đến chốn ở bên Tây. Các nhà chức trách thuộc chính phủ bảo hộ được triều đình Huế mời đến để hội ý, đều có ý kiến tương đồng. Cơ mật viện liền theo đúng luật của Vua Minh Mạng đề cử một vị Đại thần nhiếp chính, để chờ ngày tôi trở về.
Cụ Tôn Thất Hân là một vị Đại thần trong tứ trụ triều đình, là anh họ tôi, một ông già hiền từ, đạo đức, được cử vào chức ấy, gọi là Phụ chính thân thần.
Sau quyết định đó vài ngày, tòa Khâm Thiên Giám chọn được ngày hoàng đạo để làm lễ đăng quang cho tôi, đó là ngày mùng 8 tháng giêng năm 1926.
Trước hôm đó, tôi đến điện Cần Chánh để nhận các bảo vật truyền ngôi. Người ta vận cho tôi bộ triều phục để lên ngôi. Đó là chiếc áo cẩm bào của Đức Hoàng đế Gia Long khai sáng triều đại. Phẩm phục này được cất giữ như linh vật, gồm có áo bào vàng, có kết trân châu bảo ngọc hia lót lông mịn phía trong, và có đầy châu ngọc đính trên.
Một vị Đại thần trong tứ trụ triều đình đã đệ trình tôi chiếc bài vàng mang chữ Việt Nam Hoàng Đế để đeo ở bên vạt áo phải, một vị Đại thần khác thì đệ trình một cuốn kim sách để mở đầu thời đại, mà trên đó có danh hiệu của tôi, là Bảo Đại, có nghĩa là Triều đại của Huy Hoàng, Vĩ Đại.
Hai chữ này do tôi tự lựa chọn trong danh sách các tên hiệu cao khiết, đẹp đẽ, của tàng Văn chương, mà các quan bộ Học, lấy trong quốc khố đồ thư ra để trình tôi quyết định. Tôi thấy hai chữ Bảo Đại rất hợp với triều đại của tôi trong sứ mạng mà tôi sẽ đảm đương.
Sau đó, theo đúng lễ nghi, tôi phải đến một mình trước nhà Thái Miếu, lễ trước bàn thờ Đức Vua khai sáng Gia Long, mà tất cả các vị Hoàng đế kế tiếp, đều phải vào lạy khi lên ngôi, như một hình thức tuyên thệ.
Lễ đăng quang được cử hành vào sáng hôm sau, và ở điện Thái Hòa. Điện này quay lưng về hướng Bắc, để nhìn xuống hướng Nam, trước mặt có một sân chầu có cắm cờ ngũ hành, viền đuôi nheo, theo đúng nguyên lý về Dịch. Nóc điện được cất trên một rừng cây cột lim, trên đó rui, mè được xếp đặt nhịp nhàng vô cùng đồ sộ. Ngai được đặt ở chính giữa điện hơi cao về phía trước nhìn ra phía sân chầu. Nóc ngai có chiếc mui bằng gỗ chạm trổ hình rồng há miệng nhe nanh trông thật kinh khiếp. Thêm nhiều chữ nho kiểu chữ triện nổi bật lên, sơn son thếp vàng.
Tất cả triều thần đều ở đây, ai cũng vận phẩm phục đại trào, từ hoàng thân quốc thích đến các quan đại thần, cộng chức thượng thặng. Những đuôi cánh chuồn trên mũ sa của họ lấp lánh trong ánh sáng ban mai một ngày rất đẹp trời, Tất cả đứng theo thứ tự phẩm trật của mình. Các hoàng tử, hoàng thân đứng về một phía, các quan thì đông nghịt ở phía sân chầu.
Khi tôi đã ngồi uy nghiêm đúng như nghi thức trên ngai, quan Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varenne vận lễ phục màu đen, trái ngược hẳn với màu sắc xanh đỏ của các vị triều thần, liền đọc một bài diễn văn rất trịnh trọng trong đó, nhân danh nước Pháp bảo hộ, ông kính chúc triều đại tôi là triều đại của thái bình, thịnh trị đầy hạnh phúc cho toàn thể nhăn dân.
Sau đó là lễ triều bái của các quan. Đầu tiên, các vị hoàng thân quốc thích đến trước Ngai cách khoảng mười lăm mét. Phần đông các vị đó đã có tuổi. Tất cả năm lần, họ lên gối xuống gối, đầu rập sát đất, râu trắng quét thềm. Lạy xong thì về chỗ cũ đứng. Tiếp theo đến lượt các quan Đại thần, cũng năm lạy trịnh trọng như vậy. Khi các vị ấy lễ xong, thì đến lượt tất cả các quan từ tam phẩm trở xuống, phủ phục tập thể. Họ lễ theo tiếng xướng của người bồi tế. Khi hô “Bái” thì tất cả đều sụp xuống sân chầu rất từ tôn thong thả, đầu sát đất. Khi hô “Hưng” thì họ lại ngửng lên để lên gối, để chờ nghe câu xướng Bái khác. Cứ thế năm lần, và lễ triều bái này mang tính chất phục tòng, tôn kính tột bực. Mỗi khi họ phủ phục xuống đất, thì những tà áo, lòa xòa, như muốn tung bay rồi tỏa cả xuống đất như xụp xuống thành đông, không bốc cao lên được nữa.
Ở trên cao tôi nhìn xuống, quả là một cảnh tượng đáng chủ ý. Nó như chứa đựng một ý niệm thống trị của thể chế quân chủ, đè xuống khắp đại chúng. Năm ấy tôi mới mười hai tuổi. Tôi là Hoàng đế, và sanh ra để làm Hoàng đế. Chưa từng có lúc nào tôi lạc ra khỏi ý nghĩ đó. Trái lại tôi đã cố gắng nghiêm chỉnh làm tròn nhiệm vụ đã được trao phó cho tôi.
Khi lễ tất, súng ca-nông nổ nhiều phát báo cho toàn nhân dân Việt Nam triều đại mới của vị Tân quân.
Tôi bước xuống ngai để lên một chiếc ngự liễn vẫn chờ sẵn ở cuối điện, để về ở điện Kiến Trung từ nay là chỗ ăn ở của tôi.
Ngày 29 tháng giêng là ngày làm lễ an táng cha tôi.
Linh cữu được rước ra lăng của Ngài, đã được xây từ lúc sinh tiền. Bắt đầu rước từ cung Cận Thành ra cửa phía đông hoàng cung là cửa dành cho các vị Hoàng đế băng hà. Các cửa khác thì để cho đương kim Hoàng đế sử dụng. Tôi không được đưa linh cữu của phụ hoàng, vì theo đúng nghi thức, các vị vua đang tại vị không được dự vào các đám táng của vị tiên đế quá vãng.
Linh sàng rất nặng, và được khiêng bằng tay do cả trăm người phụ lực. Họ phải thay phiên nhau, và để mất hai ngày mới tới lăng. Theo đúng phong tục của Việt Nam, người chết cũng có những nhu cầu y như người sống. Để cho linh hồn được tồn tại dưới suối vàng, nên thể xác không được tiêu hủy, và phải được thờ cúng và chăm sóc bởi những người kế tự. Luật ở nước tôi, xâm phạm đến mồ mả là một trọng tội. Nếu lại là đối với các lăng tẩm của các vì Vua Chúa, thì sẽ bị xử tử. Hoàng gia lại còn phải tìm cách giữ bí mật ngôi mộ của nhà vua, để giấu xác bằng mộ giả để linh hồn nhà Vua được an ổn, mà phù trợ cho dòng họ sau này.
Ở Huế, nói đến Lăng, không phải chỉ có nghĩa là một ngôi nhà mồ trong đó có linh cửu người chết, mà cả một khu diện tích rộng lớn bao la.
Khu lăng tẩm ở Huế, nằm ở phía Nam thành phố, rộng hàng trăm mẫu tây với những đồi thông, những cây đa cổ thụ, những hàng cây phượng vĩ xum xuê. Nhiều đường đi rộng thênh thang đưa tới những bệ đá, những thang đá, dẫn tới những sân cao có đỉnh vạc khổng lồ hay hồ nước dài. Khung cảnh đó, phần nhiều rất đẹp và gây nên một mối buồn man mác.
Lăng tẩm của tổ tiên tôi có ba phần:
Đầu tiên, lăng chính gồm một khu đất rất rộng, trong đó có chứa bí mật hài cốt của một vị tiên đế, mà vị trí nơi chôn không thể biết được ở chỗ nào. Trên đống đất ấy có nhiều cây và hoa cỏ mọc đầy. Thông thường, thì có một chiếc cổng ra vào, vốn chỉ là cổng tượng trưng, có chăng rào sắt, chứng tỏ nơi đây là cấm địa.
Sau đó, là một ngôi đền thờ có tãi bày tất cả các đồ ngự dụng của Vua lúc còn sinh thời, có bày linh vị, sách vở, ấm chén v.v…
Cuối cùng, phía xa hơn, trên một khoảng đất cao, có dựng một tấm bia đá, khắc những thành tích võ công, văn trị của triều đại Ngài trị vì.
Thỉnh thoảng, thêm vào ba phần chính ấy, ở một thửa đất cao hơn, còn có một ngôi nhà nhỏ nhắn, gọi là ngự lâu, có thể ở đây nhìn bao quát tất cả ngôi mộ được. Ở nơi đó, Vua có thể ngay khi còn sống ngồi suy tưởng khi ngắm nhìn nơi cuối cùng của mình. Nhìn một lăng nào, người ta có thể biết được tâm hồn của vị hoàng đế ấy.
Tháng 3 năm 1925, tôi lại trở lại Pháp với hai cụ Charles, và sinh hoạt theo nhịp Âu hóa của tôi.
Khi tôi học xong năm thứ năm, tôi đổi học đường Hattemer vào cuối niên học 1926. Từ đó, tôi không còn phải đến trường nữa, mà đã có những giáo sư riêng đến nhà giảng bài. Tuy nhiên, để tạo bầu không khí ganh đua, cụ Charles đã tìm cho tôi một số bạn hữu, cùng một trình độ và cùng tuổi, đến học chung với tôi, còn Hoàng thấn Vĩnh Cẩn thì học ở lớp dưới.
Như vậy, chúng tôi có năm người, thì hai là con gái, cùng theo học một lớp. Vị phụ đạo Việt Nam vẫn ở cạnh tôi, và đóng vai trò gần như tổng giám thị để coi sóc tất cả.
Triều đinh quyết định đặt tôi vào vị trí Vua Chúa nên đã thuê riêng một biệt thự mới xây, ở đại lộ Lambaile số 13.
Đối với các bạn trẻ của tôi, tôi cũng là một thiếu niên như họ, và tôi cố gắng cư xử bình thường như mọi người, nên các bạn đã coi tôi ngang hàng với họ, không khác.
Về thời ấy, tôi bắt đầu chú trọng đến âm nhạc. Người ta liền dạy cho tôi về dương cầm, và tôi trở thành một thính giả chăm chỉ của các nhạc viện. Ngay bây giờ, tôi cũng có thể đưa nhạc phẩm của Chopin vào Tây ban cầm được. Tôi cũng rất say mê văn chương cổ điển Pháp. Tôi có một giáo sư dạy Pháp văn, luôn luôn nhắc nhủ tôi rằng: “Đừng chú trọng vào một tác giả nào, nên giữ và bồi bổ tính chất riêng biệt của mình”. Một lần, tôi đưa cho ông bài luận của tôi, nhiều chỗ dựa vào cuốn sách Tập làm văn, ông ta cho tôi điểm cao, nhưng đã phê bình như sau: “Hoàng tử có khiếu xào xáo rất tài..”.
Mỗi năm, trong những vụ hè, chúng tôi đi nghỉ mát một tháng ở Vichy và về trang trại của cụ Charles ở Prades hai tháng. Từ năm tôi mười lăm tuổi, tôi đã đi thăm nhiều nước như Ý, Thụy Sĩ và Đức.
Sau khi tôi được hun đúc thành một ông Vua kiểu Á Đông, cụ Charles càng quan tâm bồi bổ tôi vào nền học vấn Tây phương.
Vì vậy, một ngày vào năm 1928, cụ đưa tôi đến trường võ bị, lúc ấy do Đại tá Boursier, chỉ huy trưởng đoàn quân kỵ mã da đen làm giám đốc và đàm luận với ông ta. Cho đến lúc ấy, tôi chỉ nói biết cưỡi những con lừa nhỏ đi chơi trong công viên Vichy hay ở cạnh điện Tuileries ở Paris. Mới trông thấy tôi, viên Đại tá nghĩ rằng tôi có thể là tay cưỡi ngựa cừ khôi được.
Cất giọng sẵng, ông ta bảo:
- Tôi sẽ giao Thái tử cho tay em của tôi, và không muốn gặp Thái tử trước sáu tháng.
Tay em này là chú Guignard. Còn soẳn cục hơn ông thầy, chú giao hẹn trước:
- Hoàng đế hay không mặc kệ, tôi sẽ dạy cho Thái tử biết thế nào là cưỡi ngựa.
Chú ta dạy rất giỏi, làm cho tôi mê cưỡi ngựa ngay. Mới mấy bài đầu chú dạy cho tôi biết cách ngã ngựa, đủ mọi kiểu. Quả nhiên, Đại tá Boursier đã nhìn đúng: tôi có khiếu về cưỡi ngựa. Vì có nhiều thì giờ, do các bài học không nhiều, nên ngày nào tôi cũng sang trường võ bị gần nơi tôi ở. Tôi rất thích nơi tập ngựa. Trong ba năm, tôi đã cưỡi tất cả mọi thứ ngựa ở trong nhà trường. Tôi chọn những con ngựa đã được tuyển lựa để dự các kỳ đua ngựa, và trước hôm trình diễn ở thao trường, tôi tập nhảy rào. Từ đó tôi trở thành một kỵ sĩ say mê ngựa cho đến bây giờ.
Tôi cũng không bỏ đánh quần vợt, là thứ thể thao đầu tay của tôi. Ở lãnh vực này, tôi cũng tiến bộ không kém. Năm 1930, tôi ghi danh tranh giải vô địch liên trường, để bảo vệ cờ của trường tôi là trường Carnot. Trong những dịp tranh tài ấy, ở sân vận động Pháp quốc, tôi vào chung kết với trường Lakanal, và thắng danh thủ Jacques Delmas, về sau nổi tiếng là nhà chính trị Jacques Chaban Delmas.
Tất cả các hoạt động thể thao đó làm tôi khỏe mạnh và cao lớn, và đến năm mười sáu tuổi, thì tôi đã trở thành một thanh niên dứt khoát rồi. Nhân dịp nghỉ hè về Vichy, tôi thi lấy bằng lái xe ô tô. Thật là thời vàng son, vì ngày ấy chưa có cần đến căn cước. Vị giám khảo, nhìn bộ mã tôi, và tin lời tôi, đã cấp ngay bằng lái cho tôi, thêm lời khen ngợi nữa.
Nhân dịp kỷ niệm đệ nhất bách chu niên của nước Algérie năm 1930, tôi du lịch sang Bắc Phi và thăm viếng lần lượt hai nước Algérie và Maroc. Ở Rabbat, tôi được vì vua trẻ Mohammed V ben Youssef tiếp đón. Ông ta chỉ hơn tôi ít tuổi mà đã làm vua được ba năm rồi.
Chúng tôi thân thiện với nhau: Ông ta là người Phi Châu, tôi Á Đông, tự cảm thấy gần gũi nhau do cùng được nước Pháp bảo hộ. Khi tôi sang Marraked đang mùa hạn hán, bất chợt trời đổ mưa, thành ra trước mắt nhân dân nước ấy tôi trở thành “người làm cho mưa phải rơi”.
Tôi chỉ có một điểm liên lạc với quê hương ở chỗ vài bức thư của bà nội và của mẫu thân tôi.
Đời tôi là đời một sinh viên Pháp ở Paris vào thời đại vàng son. Tôi tiếp các bạn hữu và được họ tiếp đón lại. Tôi thường giao du với Elie de Rothschild với một con nhà Bourbon-Busset và một con nhà triệu phú, chủ Banque Mallet. Với họ, tôi học đánh Poker và trở thành cao thủ về môn này.
Đối với nhà hiền triết Đông phương, cờ bạc chẳng phải để dành cho đại chúng. Vì với đại chúng, đó là sự buông thả dại dột, một sự liều trong vô vọng. Nhưng đối với bậc hiền nhân quân tử, thì đó là bài học trường đời, xét nghiệm tâm lý hữu hiệu.
Bắt đầu từ niên khóa học 1930, tôi theo học trường Khoa học Chính trị. Mặc dù tôi ít được mời dự các buổi tiếp tân chính thức, chính phủ Pháp cũng mời tôi khánh thành Tòa nhà Đông Dương trong dịp Triển lãm Thuộc địa năm 1931. Dịp này, tôi quen biết Thống chế Lyautey là Trưởng ban Tổ chức của cuộc triển lãm. Trước từng đến Đông Dương, Thống chế mời tôi đến chơi nhà, ở phố Bonaparte, giữa trường Mỹ thuật và bến sông Seine. Thống chế cho tôi mượn nhiều sách, tôi bỗng khám phá ra Phi Châu kỳ bí. Chúng tôi đến thăm ngôi chùa được cất ở Vincennes, nằm trong khuôn khổ của cuộc triển lãm. Trong suốt thời gian này, ông như người che chở bao bọc tôi, với tình phụ tử. Đây là một ông cụ có tài kể truyện, và tôi giữ mãi kỷ niệm những nhân vật đáng yêu của kinh thành Paris, mà tôi đã gặp. Thống chế có rất nhiều ảnh hưởng đối với cụ Charles. Cả hai đều là nhân vật đáng kính của nền chính trị cỡi mở của Pháp, nên có nhãn quan rộng rãi đối với các quốc gia hải ngoại. Theo hai vị đó, sứ mạng của Pháp là sứ mạng giáo hóa, thông cảm, và giao hiếu.
Cũng trong năm ấy, cùng với Tổng thống Pháp Paul Doumer, tôi tham dự lễ khánh thành Nhà Đông Dương trong khu học xá ở Paris. Trong khi Tổng thống Pháp đọc diễn văn, có một sự kiện xảy ra mà tôi không mấy chú ý. Đó là các sinh viên du học Việt Nam đã ném truyền đơn vào khán giả. Lập tức cảnh sát Pháp tịch thu ngay truyền đơn, và lập lại trật tự như không có gì xảy ra. Về sau, tôi mới rõ truyền đơn phản kháng những biện pháp bạo hành đối với các vụ nổi dậy ở nước tôi, do cuộc xử tử mười ba liệt sĩ ở Yên Bái…
Ít ngày sau, Tổng thống Paul Doumer bị ám sát chết, và tôi chính thức dự đưa đám. Tôi đã mười chín tuổi, và được coi như là đủ khả năng để nắm quyền cai trị một mình.
Nên ngày về của tôi đã được ấn định. Mấy hôm trước, Tân Tổng thống Pháp Albert Lebrun vừa được bầu lên, đã gắn Bắc đẩu bội tinh hạng nhất cho tôi. Lễ gắn cử hành đơn giản và thân mật, chỉ riêng có cựu Toàn quyền Albert Saraut và cụ Charles chứng kiến.
Tôi trở về Việt Nam năm 1932, sau tám năm vắng bóng, kể từ ngày, lên nối ngôi Vua. Và đây đã đến lúc mà tôi làm nhiệm vụ của mình đối với Tổ quốc và Dân tộc.