← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ HAI - HOÀNG ĐẾ VIỆT NAM -TẬP SỰ CẦM QUYỀN-

Thượng thư Thái Văn Toản, cựu thông ngôn của cha tôi đến Paris đón tôi về. Ông ở gần bên tôi cùng với hai cụ Charles trong suốt cuộc hành trình. Đến Sài Gòn, chúng tôi lên chiếc tiểu đĩnh Dumont d’Urville để về Tourane và đã tới vào ngày 8 tháng 9 năm 1932. Tại đây đã có quan Khâm sứ Trung kỳ Chatel đứng đón, cùng với cụ Tôn Thất Hân, phụ chính và cụ Nguyễn Hữu Bài, Thượng thư bộ Lại, tương đương chức Thủ tướng.

Cụ Nguyễn Hữu Bài trước kia là một chúng sinh nên có đời sống khuôn mẫu, đạo đức. Cụ có ảnh hưởng rất lớn trong cả hai triều đại cũ. Luôn trong hai mươi lăm năm, cụ là Viện trưởng viện Cơ mật. Tuổi vừa bảy mươi, người nhỏ, cụ nói và viết rất thạo tiếng Latin và tiếng Pháp. Trong suốt thời gian phụ chính, cụ đóng vai trò quyết định. Được Đức Đoan Huy Hoàng thái hậu nhủ tai, chính cụ đã cùng Đức Bà sửa soạn đón tôi về.

Cả hai vị đều mong muốn tôi có các tay phụ tá trẻ tuổi, tân học để gánh vác việc nước.

Tại Huế, nhân dân kinh đô đã tập hợp rất đông để chào mừng tôi ở suốt dọc đường. Từ trưởc đến nay, tôi chỉ trông thấy nhân dân khum lưng để tỏ lòng tôn kính, vì họ đã nhìn qua tôi, bực chí tôn cai quản thần dân. Đến hoàng cung, nhìn thành quách xây từ đời Vua Gia Long, tôi có cảm tưửng vững chãi trước mọi thử thách. Xe đi bước một để nhập nội, vì ở đây dân chúng còn đông nghẹt hơn nữa. Tôi xuống xe ngựa, lên chiếc xe tay có bốn lọng vàng che, tỏ uy quyền tối thượng. Tới hoàng cung, ngang qua cửa chính đông, là cửa trước đây đã rước linh sàng của Vua cha ra lăng, cửa ấy nay đóng kín mít, để về điện Kiến Trung là nơi tôi ở. Tại đây, tôi sẽ sống một mình. Sân chầu vắng ngắt, cung điện lặng như tờ.

Sáng hôm sau, tôi đi một mình đến nhà Thái Miếu. Nơi đây đã đặt bàn thờ thứ bảy để thờ cha tôi là Hoàng đế Khải Định. Tôi trầm ngâm suy nghĩ rất lâu đến các vị tiên đế đã trở thành liệt thánh che chở và phù hộ cho tôi.

Ở Việt Nam, người chết không phải là đã hết. Người chết vẫn tồn tại, và giữ nguyên vị trí đối với con cháu. Linh hồn người chết có sợi giây thiêng liêng nối liền với người sống, còn mạnh mẽ hơn giữa người sống đối với nhau. Người ta khấn vái gia tiên, cầu khẩn gia tiên phù hộ. Quỳ trước bàn thờ, tôi lâm râm khấn vái, xin tổ tiên phù hộ cho những thỉnh nguyện của tôi, kể từ khi bắt đầu rời Pháp trở về. Đền thờ lặng lẽ hoàn toàn, chỉ thỉnh thoảng cổ tiếng tách nổ khô ròn của nén hương đang cháy, và tôi bâng khuâng trong sự mơ mạng huyền ảo tuyệt vời.

Đến trưa, tôi vào yết kiến chính thức hai Đức Hoàng thái hậu, là Đức Đoan Huy Thái hoàng Thái hậu, và Đức Thứ phi của Vua Đồng Khánh, bà nội tôi, cả hai vị đều là vợ của Vua Đồng Khánh, và do cha tôi tôn phong khi Ngài lên làm Hoàng đế. Mỗi Đức Bà tiếp tôi riêng biệt, và ngồi ở trên Ngai uy nghi bất động. Tôi cũng sang kính thăm thân mẫu tôi, là Đức Từ Cung Thái hậu, ngự ở một cung điện sát cạnh hai Đức Quốc thái và các cung của các bà phi khác.

Về đến điện Kiến Trung, lập tức tôi cho vời Thượng thư Nguyễn Hữu Bài. Tôi hỏi:

- Quan Thượng, Trẫm tin tưởng ở kinh nghiệm lâu năm của Ngài, để hỏi cho biết nhiệm vụ của Trẫm ra sao, và xin quan Thượng cho Trẫm biết tình thế nước nhà, đồng thời thử vạch cho Trẫm một chương trình làm việc.

Ông ta cúi đầu tâu trình:

- Kính tâu Hoàng thượng, sự tin cẩn của Hoàng Thượng là một vinh dự lớn lao đối với lão thần. Nhiệm vụ của Hoàng thượng ngày nay không còn giống như xưa nữa. Chính phủ Pháp trong thực tại đã nắm hết công việc của quốc gia trong tay. Còn về tình hình trong nước, thì ngoài sự xáo trộn ít nhiều ở Bắc kỳ đang bị dẹp tắt, được coi như yên tĩnh và thịnh vượng.

- Nhưng còn quyền hạn của Trẫm, công việc của Trẫm? Các quan Thượng làm việc ra sao?

- Kính tâu Hoàng thượng, trước kia thì mỗi bộ tâu trình lên Hoàng đế, và đệ lên dự án để xin quyết định. Nhưng sau khi Đức tiên đế Khải Định băng hà năm 1926, thì đã có một thỏa ước với nước Pháp, theo đó Nội các sẽ họp dưới sự chủ tọa của viên Khâm sứ, mình phải báo cáo và xin quyết định. Tòa Khâm ra chỉ thị, nhất là về ngân sách. Chính phủ Pháp thu thuế và trao lại cho Nam triều đủ để trả lương cho nhân viên để có thể tồn tại.

- Chưa ai cho Trẫm biết, về cái thỏa ước ấy, nếu trước đây Trẫm biết được, thì chắc hẳn Trẫm đã không chấp thuận.

- Kính tâu Hoàng thượng, thỏa ước này là do Hội đồng Phụ chính ký. Thực tế, nó traó hết quyền hạn cho viên Khâm sứ từ chính trị đến tư pháp, ơ Bắc kỳ, hiện nay, viên Thống sứ ở Hà Nội đang nắm quyền Phó vương rồi.

- Vậy thì Trẫm còn gì?

- Hoàng thượng còn giữ được quyền về nghi lễ, quyền ân xá tội nhân, quyền phong sắc cho các thần linh, quyền cấp phát tưởng lục, phẩm hàm cho người sống hay người chết…

Tôi bàng hoàng trước những lời tâu của vị quan già này. Tôi cũng ghi nhận rằng ông ta không xen kẽ một sự phê bình nào, nhưng chỉ bằng sự tấu trình mộc mạc ấy ông ta muôn để cho tôi tự hiểu. Sau một phút suy nghĩ, tôi quyết định phải làm ngay không thể chậm trễ. Và theo cái gọi là thỏa ước năm 1926 dành cho tôi quyền hạn về nghi lễ, tôi soắn ngay vào lãnh vực này. Vừa hôm qua, tôi đã thấy những cái lưng cúi gập trước bước đi của tôi. Tôi liền bảo ông ta:

- Đại nhân hăy bảo cho viên Thượng thư bộ Lễ phải soạn thảo ngay một sắc chỉ: Kể từ hôm nay, hãy bỏ ngay sự quỳ lạy đối với Trẫm. Trong bất cứ buổi lễ riào chỉ cần vái ba vái đối với Hoàng đế mà thôi. Trẫm muôn quyết định này được áp dụng ngay kể từ buổi chầu ngày mai, khi các quan vào triều kiến Trẫm. Xin Đại nhân làm gấp.

Cụ Bài nhìn tôi, ngạc nhiên rõ rệt. Thấy vậy, tôi lại nói:

- Lạy để trán gập xuống đất, là một thái độ ươn hèn làm mất phẩm giá con người. Xin quan Thượng nhớ câu này của Đức Thánh Khổng: Kính bất như tuân lệnh. Sau nữa, cũng xin Đại nhân thảo ngay mệt sắc lệnh trả tự do cho tất cả các phi tần của tiên đế. Ai muốn ở lại để phụng thờ tiên đế Khải Định thì vẫn có quyền ở lại nơi cũ, và hàng tháng vẫn được tiền trợ cấp cho đến khi chết.

- Xin tuân lệnh Hoàng thượng. Nhưng kính tâu Hoàng thượng, e rằng có hơi sớm quá chăng? Lão thần có ngu ý là nên chờ một ít lâu nữa, và cần phải kiên nhẫn. Xin Hoàng thượng nên dè dặt hơn một chút. Trước đây, đã nhiều bậc tiến vương đã bị thất bại nguy hiểm trong sự canh tân. Tất nhiên, họ không được Âu hóa và cấp tiến như Hoàng thượng, nhưng họ cũng trẻ và nóng nẩy, và thiếu kiên nhẫn như Hoàng thượng vậy.

Nói xong, ông ta rút lui, để mặc tôi với sự suy tưởng một mình.

Đức Khổng tử nói: Mạng của bậc Đế vương là Thiên mạng. Nhất cử nhất động đều có ảnh hưởng đến sơn hà, xã tắc. Vua mà hôn ám thì trời sầu đất thảm, gây nên những thảm họa trong dân gian không nhỏ. Dân chúng sẽ lầm than cơ cực. Vua phải gánh chịu những nỗi đau của thần dân trăm họ hơn của chính bản thân mình. Cái đau của trăm họ tạo nên cái đau của Vua, chứ không phải đau do chính Vua mà có.

Như vậy, làm sao mà tôi gánh nổi trọng trách tối thượng ấy, nếu tôi không có thực quyền. Liệu triều đại của tôi có bị đổ vỡ trong sự bất lực, để tôi phải gánh chịu tất cả nỗi đau của bá tánh, mà tôi không tài nào cải được số mệnh ấy hay sao?

Tư tưởng ấy vẫn theo dõi tôi cho đến sáng hôm sau, khi thiết đại triều để thực sự bắt tay làm Hoàng đế, y như ngày tôi được tấn phong làm Đông cung Hoàng thái tử và ngày lễ đăng quang làm Hoàng đế của tôi năm mười hai tuổi. Trong buổi khai triều này, quan Phụ chính Thân thần Tôn Thất Hân được chính thức giải nhiệm. Vị cựu thần này đã trải qua chín triều đại của tổ tiên tôi, phải khánh thành quyết định của tôi vừa ban bố hôm qua.

Ông tiến lên, một mình đến trước Ngai, mắt nhìn xuống chân, cách tôi vài mét và vái ba vái. Tôi quan sát ông từng tí một. Vái xong, ông lúng túng như quên mất điều gì, rồi đi giật lùi ra khỏi điện, trong sự yên lặng hoàn toàn. Các đại thần khác tiếp theo sau như vậy, và tôi không hề tìm thấy trên vẻ mặt họ nét phản ứng nào.

Tôi có ý định thay thế tất cả những nhân viên này, để trẻ trung hóa bộ máy triều đình đã quá già nua, cằn cỗi. Nhưng trước hết, tôi cần phải biết rõ điều mà cụ Nguyễn Hữu Bài nói với tôi hôm qua. Nhiều vị tiên quân cũng đã muốn canh tân như tôi, về sau ra sao? Thành ra tôi quá mù mịt về lịch sử của nựớc mình. Chỉ biết vài chuyện huyền hoặc, có tính cách tượng trưng, tôi gần như chẳng biết gì về quá khứ của tổ tiên tôi và tánh tình của họ.

Vì vậy, tôi ra lệnh cho bộ Học đệ trình cuốn Sử của hoàng triều và bắt đầu đọc trong nhiều ngày liên tiếp.