← Quay lại trang sách

Lịch sử Nhà Nguyễn (tt)

Trung Hoa cũng thua Pháp, phải ký hiệp ước Thiên Tân ngày 6 tháng 6 năm 1885, cam đoan không cho quân vượt biên giới sang Việt Nam, và hứa công nhận các hiệp ước ký kết giữa Việt Nam và Pháp, kể cả các công việc xảy ra sau này giữa hai nước này. Ngày 13 tháng 6, Hoàng đế nhà Thanh chấp nhận dứt khoát hiệp ước ấy.

Nước Pháp vẫn còn lằng nhằng đòi hỏi hơn nữa. Họ đòi triều đình phải cam đoan lại một lần nữa những sự cam kết với Pháp đã được ký kết trong hiệp ước trước. Trước sự tráo trở thiếu chân thành ấy, sự căm phẫn đã đến độ tột cùng của nó. Quan Phụ chính Tôn Thất Thuyết liền đem Hoàng đế trẻ Hàm Nghi cùng một số lớn triều thần bỏ kinh thành đi trốn. Họ vào bưng. Ba năm sau, vua Hàm Nghi bị bắt trong vùng Quảng Trị và đưa đi đày ở Algérie vào năm mười tám tuổi.

Trong thời gian này, Hội đồng Cơ mật vẫn còn ở Huế, đã cùng với bà Hoàng thái hậu dưới sự nài nỉ của viên Khâm sứ Pháp, đã đưa người cháu cuối cùng của vua Tự Đức, lúc ấy mới hai mươi tuổi lên làm vua vào năm 1885 lấy hiệu là Đồng Khánh tức ông nội tôi.

Đó là một người thức thời, có nhiều khả năng, nhưng tiếc rằng đã không gặp thời, lên làm vua trong lúc quá khó khăn này. Thêm vào đấy, các vị quan giá trị trong triều thì ngán ngẩm không thiết gì đến công danh, quyền chức nữa, nên hầu như bỏ buông xuôi. Cũng không còn trông vào đâu về phía bên ngoài có thể trợ giúp được gì, Đồng Khánh muốn trở lại chính sách hợp tác với Pháp như dưới thời Gia Long cũ. Ngài mong như vậy có thể cứu văn được sự suy sụp của quốc gia, mà canh tân lên được.

Nhưng bị sự thôi thúc hầu như liên miên của chính phủ Pháp, Ngài đành phải nhượng bỏ nhiều điều khoản của họ đưa ra, mà điều quan trọng nhất là đặt viên Toàn quyền cho toàn cõi Đông Dương.

Viên Toàn quyền này “vì lý do phải giữ trọng trách lãnh đạo các đất đai mới sát nhập, và đặt dưới sự che chở của chính quốc, cho toàn xứ Đông Dương” đã được đặt dưới quyền của Bộ Thuộc địa, trong khi các xứ khác thuộc quyền bảo hộ, thì được đặt dưới quyền của Bộ Ngoại giao. Như vậy, là có một sự vi phạm trắng trợn vào hiệp ước bảo hộ ký năm 1884. Ban đầu thì nhiệm vụ của viên Toàn quyền chỉ hạn định ở chỗ phối hợp giữa các hoạt động của các viên Khâm sứ, Công sứ, nay biến ra thành nhiệm vụ của một kẻ cai trị trực tiếp và dứt khoát các đất đai thuộc địa của Pháp ở Đông Dương.

Thế là từ năm trước, viên Thông sứ ở Hà Nội, giữ quyền hành của vị Phó vương Bắc kỳ.

Vua Đồng Khánh chết bất ngờ vào năm Ngài hai mươi bốn tuổi, năm 1889, ôm mối hận là dưới triều đại của Ngài, ngoài ý muốn, đã phải đưa toàn thể nước nhà vào ách đô hộ của nước Pháp.

Người kế vị Ngài là Hoàng đế Thành Thái, con của Quốc công Dục Đức, và là cháu gọi vua Đồng Khánh bằng chú ruột. Khi kế vị mới có lên mười tuổi. Triều đại của Ngài bị xáo trộn bởi các cuộc nổi dậy đánh du kích ở các tỉnh Bắc kỳ, kéo dài đến năm 1896. Lấy lý do đó, nước Pháp tăng thêm quyền hạn cho viên Toàn quyền Đông Dương trên khắp cái gọi là Liên minh Đông Dương, gồm ba nước Việt-Miên-Lào… Từ đó, viên chức cao cấp ấy có đầy đủ mọi cơ quan điều hành và có một ngân khoản lớn lao. Ông ta thu thuế, và các khoản về thương chính, bổ nhiệm các hàng Chánh phó Tỉnh trưởng, Chánh phó Quận trưởng, Viên Khâm sứ Trung kỳ trở thành chủ tọa các phiên họp Hội đồng Nội các của triều đình, và tất cả các quyết định của bộ hay của chính ngay Hoàng đế cũng phải lấy phê chuẩn của công chức Pháp. Thành thử, dù Hoàng đế có là Thiên tử của thần dân, cũng chẳng có tí quyền gì.

Tuy nhiên, dưới thời Pháp, xứ sở cũng được mở mang ít nhiều, và nền kinh tế tương đối tốt đẹp. Nhiều công trình thủy lợi giúp cho nền nông nghiệp mở mang hơn trước rất nhiều, và sản lượng gạo khá thừa thãi, để có thể tài trợ cho các lãnh vực khác.

Thế nhưng, đối với số người Việt Nam, nhất là giới thượng lưu trí thức, nhà dù có đẹp đến mấy mà do người khác cai quản thì cũng chẳng quí hóa gì. Ai cũng mong độc lập và thống nhất. Người ta đặt niềm tin vào vua Hàm Nghi đang bị lưu đày ở Algérie, hay nghển trông những người đã chạy sang Tàu, sang Nhật. Trước đây, vào năm 1905, Nhật Bản đã thắng hải quân Nga ở eo biển Đôi Mã nên Nhật tung ra khẩu hiệu: Ngô Á Ngô Hoàng (Á Châu của người Châu Á).

Không ai dám nghĩ rằng, nên theo gương nước Nhật, mà canh tân xứ sở trước, dù với sự trợ giúp của Pháp, sau đó hãy nói đến chuyện chiến đấu giành độc lập cho đất nước. Người ta nôn nóng chỉ nghĩ đến những chuyện chiến đấu và đánh du kích bằng gậy tầm vông. Nhiều hội kín được mọc lên. Họ có liên lạc với bọn người từng lưu vong sang Tàu hay sang Nhật. Hoàng thân Cường Để trước đây đã bỏ sang Nhật, nên nhiều thanh niên đã kéo nhau sang theo. Hoàng đế Thành Thái không muốn sự thất thoát nguồn nhân lực ấy, phải tỏ sự chống đối với nền đô hộ của Pháp. Mặc dù viên Toàn quyền Paul Doumer nhận định về Ngài đã ghi nhận rằng Ngài rất thông minh, và tự tin ở mình, nhà vua vẫn bị coi là mắc bệnh điên, để bắt buộc phải nhường ngôi, rồi bị đưa sang an trí ở đảo Réunion vào năm 1907, lúc ấy Ngài mới hai mươi tám tuổi.

Quen cái mùi lấn át ăn người đó, chính phủ Pháp lại dựa vào một thiểu số ở triều đình, để đưa người em út của vua Thành Thái, lên nối ngôi lấy hiệu là Duy Tân mới lên bảy tuổi.

Loạn khắp mọi nơi. Nhiều phong trào nổi lên chống đối, nhất là ở Hà Nội và Sài Gòn. Pháp liền khủng bố, nhiều lãnh tụ của phong trào bị bắt đem đi đầy ở Côn Đảo. Trường đại học trước được mở ra dưới triều đại Thành Thái, nay bị đóng cửa hẳn. Nhân dân chống lại, và bỏ ra bưng. Tháng 10 năm 1911, nhà Thanh bị lật đổ, chính phủ Dân quốc Trung Hoa do Tôn Dật Tiên cầm đầu, làm cho những nhà cách mạng lưu vong, hay đang âm thầm hoạt động ở trong nước càng thêm phấn khởi và tin tưởng. Cho đến năm 1913, cảc hội kín này cho nổ ra nhiều vụ nổi dậy, nhiều vụ biểu tình, hay những cuộc ám sát, và khủng bố.

Trước tình trạng ấy, Pháp bổ một vị Toàn quyền mới là Albert Sarraut. Vốn là tay làm báo, dân biểu thuộc miền Trung nước Pháp, ông ta đã khôn ngoan biết cách chinh phục nhân dân. Ông tổ chức lại guồng máy cai trị thuộc địa khả quan hơn trước bằng cách ngăn chặn các cuộc lạm quyền, và thay đổi lề lối tham nhũng, cho mở cửa lại trường đại học, và mở mang ngành giáo dục công lập. Những biện pháp đó làm giảm bớt sự bất mãn, và đem lại an ninh trở lại. Đến nỗi rằng, khi Pháp có chiến tranh với Đức (kỳ Đệ nhất Thế chiến) vào năm 1914, hơn một trăm ngàn binh lính và thợ thuyền Việt Nam đã sang Âu Châu, để trả ơn cái gọi là mẫu quốc bảo hộ.

Tuy nhiên, các phong trào ái quốc, lợi dụng cơ hội này, nước Pháp đang bận ở Âu Châu, để tung ra sự rối loạn trong nhiều tỉnh lớn. Nhà vua vừa được mười sáu tuổi tưởng rằng thời cơ đã đến, liền rời khỏi cung điện, để ra bưng cầm đầu phong trào chống đối. Đáng buồn tay, công cuộc mưu đồ đại sự của Ngài chỉ vỏn vẹn được hai ngày, thì bị một toán lính khố xanh khám phá được chỗ ẩn. Thất bại từ trứng nước, ông bị đày sang đảo Réunion để gặp phụ hoàng Thành Thái ở nơi đó. Đó là lần cuối cùng của một ông vua trong hoàng gia đã thất bại cho mưu đồ phục quốc trong tay Pháp.

Triều đình nhận chân được rằng, trong những trường hợp như thế này, mà chống Pháp quả là vô ích. Vì vậy, mới tìm đến con của vua Đồng Khánh, vốn chủ trương thân Pháp như thời vua Gia Long cũ, để lập làm vua. Đó là cha tôi năm ấy đã ba mươi hai tuổi. Nhưng cha tôi, đã từng trông thấy sự tai tiếng về đầu triều đại của vua cha, khi nhận ngai vàng tự tay Pháp chỉ định, hơn nữa làm vua cũng chẳng có quyền thế gì nên người không mấy tha thiết. Mãi đến khi Đức Hoàng thái hậu, đích mẫu của người, tức vợ cả vua Đồng Khánh, thúc giục để cứu vãn danh dự gia đình, người mới nhận, và lên ngôi Hoàng đế vào năm 1916.

Năm sau, ông Albert Sarraut lại trở lại làm Toàn quyền Đông Dương. Trong hai năm liên tiếp, ông xúc tiến việc hợp tác giữa hai nước, nâng cao giá trị của người dân, nên được giới trí thức hoan nghênh, cộng tác chặt chẽ. Ngày 27 tháng 4 năm 1919, tại Văn Miếu thờ Đức Khổng Phu Tử ở Hà Nội, ông đọc một bài diễn văn trứ danh, trong đó ông đề cập đến sự khuếch trương quyền hạn chính trị cho tất cả các sắc dân ở Đông Dương, đặt những nhà trí thức bản xứ vào những địa vị then chốt trước kia chỉ dành cho người Pháp, hầu đưa đến sự thân hữu của nước Pháp đối với các nước bảo hộ càng thêm thắm thiết.

Sự chống đối vì vậy dịu dần đi, và nước Pháp nhờ thắng trận năm 1918 được thêm uy tín, nên ở Việt Nam đã tương đối ổn định và tiến bộ.

Đọc những đoạn cuối của trang sử này, với biết bao tình trạng bi đát, mà trước kia tôi hoàn toàn mù tịt, tôi vô cùng xúc động. Trong vòng chưa tới năm mươi năm, năm bậc tiên đế đã bị đi đày, hay bị truất ngôi, bốn vị đã chết trong mờ ám. Các vụ sôi động vẫn còn âm ỉ chưa tắt hẳn. Chưa nói đến Hoàng thân Cường Để đang hoạt động ở Nhật và ở Đài Loan. Đã có hai người anh họ là Bửu Trác trước từng là võ quan tùy viên của cha tôi, tự cho là có quyền kế vị Ngài, nhất là Bửu Đình luôn tìm cách để hạ tôi. Trong thời gian tôi du học ở Pháp, ông ta đã đăng những bài đả kích nẩy lửa. Bị bắt năm 1927, Hội đồng Tôn nhơn phủ đã kết ông ta về tội khi quân (chống lại Hoàng đế) chín năm khổ sai và giam ở Lao Bảo, đuổi ra khỏi hoàng gia, và chuyên sang giam ở Côn Đảo. Ông vượt ngục và bị bắt lại vào năm 1931.

Khi tôi từ Pháp trở về, việc thứ nhất là ra lệnh ân xá cho ông. Tiếc thay, lệnh này không thi hành được, vì ông ta lại trốn biệt, và không rõ về sau ra sao.