← Quay lại trang sách

Xã hội Việt Nam

Ngày hôm sau, tôi nói chuyện lâu với cụ Charles, trước đây từng là Quyền Toàn quyền Đông Dương từ năm 1916 đến 1917, trước khi ông Albert Sarraut trở lại Đông Dương. Cụ Charles đã phục vụ ở đây gần hết cuộc đời. Do thế, nếu không đóng vai chủ động thì ít ra cũng là nhân chứng về những biến cố mà tôi vừa kể ở trên.

Cụ liền kể cho tôi nghe rành mạch về cuộc đào tẩu của vua Duy Tân và sự lên ngôi của cha tôi.

- Cậu cần phải biết thực sự cái gì đã xảy ra trước đây. Hoàng đế Duy Tân đầy nhiệt huyết vì tuổi trẻ, lại hăng say với lý tưởng, nên đã bị lôi cuốn. Nguyễn Hữu Bài khi ấy đã có ảnh hưởng quan trọng trong triều đình. Ông ta không lạ gì ý chí muốn cầm đầu phong trào đòi độc lập của nhà vua, và sự rời bỏ hoàng cung để ra bưng. Cũng có thể ông ta cũng không lạ việc nhà vua bị bắt lại ngay sau đó. Không có chuyện xúi giục nào về sự tìm người kế vị. Thái tử cũng nên biết rằng, chính lão đã ủng hộ mạnh mẽ, đề nghị của Đức Đoan Huy Hoàng thái hậu, lập phụ hoàng cậu lên đảm nhiệm chức vụ nặng nề này. Chính Đức vua Khải Định cũng biết rõ như vậy. Và cũng chính trong trường hợp ấy, đã nẩy nở tình bằng hữu giữa phụ hoàng với lão, nên Ngài tin cẩn lão mà gửi thái tử cho lão trông nom.

Nếu bây giờ, bằng vào cái tình giao hảo ấy, mà lão có thể nói với thái tử một điều hữu ích, thì lão sẽ khuyên thái tử rằng: Hãy nên noi gương vua cha là hơn cả. Tất nhiên, ngày đưa thái tử sang Pháp, lúc trở về Việt Nam, Ngài đã thất vọng như thế nào. Vậy thời thái tử đủ qua học vấn, mà hiểu biết sâu rộng về người Pháp, thái tử thừa sức nhận định được tương lai một cách vững vàng. Thế giới đang tiến mạnh, phụ hoàng biết thế, và chính vì vậy, mà người muốn thái tử được trang bị sẵn sàng để định đoạt lấy số mệnh của mình. Hãy cẩn thận và khôn ngoan. Hiện nay sự yên tĩnh chỉ là bề mặt. Khi thái tử còn ở Pháp, cách đây hai năm, nhiều xáo trộn đã xảy ra ở Bắc kỳ. Tại Yên Bái, lính khố đỏ đã làm loạn ngay trong trại lính, đầu độc và giết các sĩ quan Pháp. Hai sĩ quan và hai hạ sĩ quan đã bị giết. Chỉ nội một tuần sau, toàn vùng đã ở trong tình trạng chiến tranh. Nhiều làng mạc nổi lên như ong. Quan Toàn quyền Pierre Pasquier phải ra lệnh cho máy bay ném bom các làng đó. Thế rồi, vài tuần sau nữa, đã lan tới Vinh. Phải dùng biện pháp mạnh để đổi phó…

Những lời cuối cùng của cụ Charles còn vang bên tai tôi. Máu đã chảy, máu của nhân dân nước tôi. Tôi nghĩ lại đến số phận của các đấng tiên vương, từng loạt cố gắng liên miên của các Ngài, quyết chiến đấu đòi lại quyền tự chủ, mà chỉ đi đến thất bại nặng nề. Tôi đã từng tự chọn cho mình danh hiệu Bảo Đại, có nghĩa là huy hoàng, vĩ đại. Thế thì cái vĩ đại, huy hoàng kia cần phải lấy lại cho bằng được. Tôi biết cần phải theo đường lối nào, để tự dấn thân. Nhưng phải dấn thân trong khôn ngoan và thận trọng. Hiện tại, cần phải mở mang xứ sở, canh tân đất nước, làm cho hùng cường, với sự trợ giúp của Pháp. Rồi đợi và nắm lấy cơ hội, khi thời cơ sẽ đến… Thời gian sẽ đến với chúng tôi. Nhưng cần nhất là phải tự tôn, tự tồn bằng mọi giá, mới có thể thực hiện được.

Hai tháng sau khi ở Pháp về, chính phủ bảo hộ Pháp tổ chức cho tôi ra thăm Bắc hà. Cần phải xóa đi những kỷ niệm hãi hùng ở Yên Bái. Từ Tourane ra Hải Phòng, tôi đi tàu Dumont d’Urville. Tôi trông thấy vịnh Hạ Long đầy vẻ tráng lệ huy hoàng. Từng vách đá nhô lên từ đáy nước, cây mọc xanh um rải rác giữa biển trời mây sóng. Từng cồn cát mịn lập lờ mặt nước. Quả nhiên, đất nước tôi đẹp tuyệt vời.

Từ Hải Phòng lên Hà Nội, tôi đi bằng tàu hỏa. Khắp nơi, dân chúng nồng nhiệt hoan hô. Từ thời Minh Mạng, chưa có vị Hoàng đế nào ra thăm Bắc kỳ. Vua Gia Long trước kia đã ra đây, đến sát biên giới Trung Hoa, để nhận thụ phong làm chư hầu của vua nhà Thanh.

Còn tôi thì nhờ Pháp đưa ra Bắc, nên mới trông thấy giang sơn của nước mình, thành ra dù muốn dù không, tôi đã trở thành chư hầu của Pháp.

Đến Hà Nội, toàn quyền Pierre Pasquier đã tổ chức nhiều buổi tiếp tân long trọng để chào mừng tôi. Trong hai tuần lễ liên tiếp, họ đã đưa tôi đi thăm nhiều tỉnh giáp ranh Hà Nội. Họ đưa tôi đến thăm trường Mỹ thuật, rồi ra Hongay thăm mỏ than. Đây là loại viếng thăm chính thức, nên đã được tổ chức chu đáo. Tất cả đều tốt đẹp, đâu vào đấy cả. Nguyễn Hữu Bài trong ba tuần lễ ấy, đã theo tôi trong dịp xuất du này.

Rõ ràng rằng cuộc đi chơi thăm thú này đã cho tôi trông thấy kích thước mới của đất nước. Những khả năng công kỹ nghệ của Bắc kỳ có thừa sức đưa đất nước lên hàng các quốc gia tiền tiến, chẳng thua bất cứ nước nào. So sánh với vùng Huế vốn mơ màng thơ mộng với nền nông nghiệp lạc hậu của con trâu cái cày, miền Bắc Việt Nam đã cho thấy tiềm năng phấn khởi về tương lai của đất nước. Khi hồi triều tôi cảm thấy khá nhiều thất vọng. Bởi vì, chính ngay tại nước mình, mà tôi được tiếp đón như khách, chứ không phải là chủ nhân ông thì vai trò của tôi quá bé nhỏ, làm sao mà dân chúng đợi chờ gì ở tôi được. Tất cả mọi việc từ to đến nhỏ, từ đời sống hàng ngày của dân chúng đến tương lai của đất nước, đâu tôi được quyền dòm đến? Tôi chỉ là một diễn viên sân khấu, thỉnh thoảng xuất hiện cho xôm trò, chứ đâu phải là người đạo diễn?

Vậy thì cái ý niệm làm hoàng đế như tôi đã từng tin tưởng, theo đúng tinh thần cơ bản cổ truyền về nhiệm vụ của vị thiên tử, để cho triều đại được huy hoàng, vĩ đại, thật quả đã xa vời… xa vời quá đỗi…

Hoàng đế còn là vị Đại giáo chủ, đại tư lý, cha mẹ thần dân, đây là theo căn bản của Khổng Mạnh. Cầm quyền thiên tử là phải trị quốc, an thiên hạ, đem lại thái bình cho phong đăng hòa cốc. Quyền năng tuyệt vời ấy, chẳng cần phải dùng đến giấy tờ nào, hiến pháp nào qui định. Mà nằm ngay trong giáo lý của Khổng Mạnh.

Cầm quyền thượng thặng của nền quân chủ tuyệt đối, vị thiên tử chẳng có một giai cấp phong kiến nào làm trung gian đối với nhân dân. Các người làm quan từ nhân dân do tài đức, hay thi đỗ mà nên, và các con cháu họ, nếu không tự mình thi đỗ lại trở thành dân như cũ. Giai cấp phong kiến cha truyền con nối không bao giờ từng có ở Việt Nam. Chỉ có vua và dân thế thôi. Trong làng xã, dân có quyền của dân, y như một thứ quân bình xã hội giữa vua và dân. Người ta vẫn nói rằng: Phép vua thua lệ làng, là như vậy.

Tất nhiên, nhà vua có quyền tối thượng về đất đai, vúa là chủ sơn hà. Thế nhưng quyền ấy mất đi, nếu đất đai ấy được người dân trong nước khai thác trồng trọt. Đất ấy trước kia gọi là công điền, công thổ. Thì nay, khi được khai thác và đóng thuế, người dân lại là sở hữu chủ, cho đến khi nào, nếu đất bỏ hoang, không ai đóng thuế nữa, thì lại trở thành công điền công thổ như xưa.

Như vậy, nếu có một khu đất nào chưa có sở hữu chủ, mà nay có người đem họ hàng bà con đến để sinh cơ, lập nghiệp, thì người ấy chỉ việc làm đơn xin lên viên quan đầu tỉnh, làm được bao nhiêu cứ việc xin, khu vực ấy với số dân cư này sẽ tạo nên làng xã. Làng là một pháp nhân, có thể mua thêm đất cát, để bành trướng mãi ra, chỉ trừ một số đất gọi là thần từ phật tự, không được đụng chạm đến mà thôi.

Làng xã được tự trị. Làng tạo nên đơn vị thuế khóa, thu thuế của dân để đóng cho nhà vua, cho chính phủ, tự xây những cầu cống, chợ búa, thiết lập những công trình công cộng, tự giữ lấy an ninh trật tự. Có ngân sách riêng, lập ra hương ước. Đây là một pháp nhân rõ rệt, y như một cá nhân đầy tự do, một loại xã hội cộng hòa bỏ túi, mà nội bộ trị an, ra ngoài quyền hạn của nhà vua. Đó là luật hương đẳng, tự bảo lấy nhau, nên gọi là quan viên hương đẳng vậy.

Gia đình nào cũng có gia tiên để thờ, thì làng có sự thờ cúng vị thành hoàng. Các ông thành hoàng này, phần nhiều chẳng ai khác hơn là vị đã sáng lập ra ngôi làng ấy ban đầu. Lúc mới thành lập làng, các chủ gia đình lập nên cái gọi là Hội đồng Kỳ mục, người cao tuổi nhất được bầu lên làm tiên chỉ. Sau này, vị nào có đức hạnh, co tài năng, hay thành tích gì nổi bật đối với làng, vị đó cũng được tôn vinh, sau khi chết. Không có gì vinh hạnh cho làng bằng có người tài ba, nổi tiếng, hay thi đỗ ra làm quan to ở triều đình. Thế rồi, lâu dần, từ những vị sáng lập ra làng, những vị tài cao đức trọng, những nhà khoa bảng hay có quan tước lớn, đều có ở nguyên quán một ngôi đền, một tấm bia ghi lại thành tích của họ, người ta biết được giá trị tinh thần và đạo hạnh của những vị ấy.

Họ được tôn thờ, đó đã là gương sáng cho dân noi theo. Từ chỗ đó, họ biến thành thần, mà trở thành Thành hoàng làng là như thế. Tài ba, đức hạnh của họ, tạo nên khuôn vàng thước ngọc linh thiêng, nên dân chúng đặt họ ngang với các bậc tiên thánh, và lẫn lộn với các bậc thần linh khác.

Từ đó nên nhà có thần, với đạo gia tiên, xã tắc có hồn với khí thiêng sông núi, làng mạc được che chở bởi những bậc thần linh, với các đình trung miếu mạo, đời sống dân gian được bình an dưới mái ấm, có những nỗi buồn vui quấn quít, tạo nên đạo hiếu trung bền vững cùng với núi sông.

Các Thành hoàng được thờ ở dinh. Dân làng càng tô điểm đình của làng mình cho nguy nga tráng lệ, và các kinh phí bảo trì hay phụng sự được lấy ở sở đất thần từ phật tự mà ra.

Nhưng các vị thần làng này vẫn thuộc dưới quyền cai quản của Hoàng đế. Đây chính là một thứ quyền về nghi lễ mà người Pháp dành cho tôi đó. Các Thành hoàng này chỉ được thờ cúng, khi được Hoàng đế cấp cho sắc phong, thì mới nên thần mà thôi.

Tôi cũng có thể phong tước hay cấp phát phẩm hàm cho người đã chết. Bộ Lễ viết sắc phong, có ấn dấu quốc bảo, chuyển qua viên quan đầu tỉnh, viên này khi trao sắc là đứng vào chức vụ khâm mạng của nhà vua, để trao cho Ông cụ già nhất trong làng. Dân làng rước sắc ấy về, sắc được đựng trong một hộp gỗ sơn son thếp vàng, gọi là hòm sắc.

Bất cứ ai, thuở sinh thời làm được điều gì hiển hách đều có thể được phong làm Thành hoàng cả và có đình thờ, có bia đá ghi công.

Làng thường có nhiều thôn, xóm, trại, ấp tập hợp lại làm một, và bao gồm cả những ngôi nhà ở rải rác bên ngoài gần chỗ đó, tạo nên đơn vị cuối cùng của nền hành chánh hạ từng cơ sở. Làng thiết lập bài chỉ về thuế đinh, thuế điền, và thổ trạch. Đó là căn bản của ngành địa chính.

Sự khuếch trương làng xã, do chính dân làng tự lực, qua hai hình thức, hoặc là dân tự nguyện tham gia, hoặc là do cưỡng bách công sai để kiến tạo, tu bổ đường sá, sông ngòi, hào lạch, cầu cống đê điều, rào làng, phòng hỏa cũng như phòng thủy, chăm sóc các đình chùa, miếu mạo. Ngoài ra còn phải trông nom đồng ruộng hoa màu, chống gian phi đạo tặc. Nhất là phải phòng đê trong mùa nước. Trong thời gian này, toàn thể dân chúng phải quan tâm lo ngại đến mức nước lên của các triền sông, các vụ nước lũ, dùng trông cái thúc giục hay báo động những chỗ đê điều bị thẩm lậu, hầu tránh bị lụt hại đến hoa màu, nhà cửa. Các viên chức cai trị làng xã, tạo nên lớp kỳ hào phần lớn xuất thân ở giới phú nông, hay trung nông, gọi chung là địa chủ. Họ tự bầu ra để giữ những nhiệm vụ điều khiển, gọi là bọn kỳ hào, hay hào mục, hay hương lý, những bậc đàn anh trong làng. Họ có thể được tăng cường thêm bởi các vị khoa bảng, các quan lại về hưu, có ảnh hưởng xã hội, để giúp đỡ hay cho ý kiến cần thiết. Viên tiên chỉ phần nhiều là một cụ già có uy tín nhất, ở Việt Nam tuổi tác là một yếu tố đáng kính. Kính lão đắc thọ là một câu châm ngôn. Bởi thế, dù người già mà nghèo đến đâu chăng nữa, cũng được gọi bằng cụ hay bằng ông, hai danh từ này chỉ dùng để tôn kính các bậc trưỡng lão, không phân biệt, ai cũng như ai.

Viên tiên chỉ chủ tọa hội đồng kỳ mục, đảm trách về lễ nghi, hội hè đình đám, giữ vai trò quan tòa hòa giải, và trông coi về ngân sách, về thuế má, cùng thiết lập ra quỹ hàng xã của làng. Việc quản trị làng xã được chia ra làm hai hạng kỳ mục. Các vị sáu mươi tuổi, gọi là lão hạng, điều khiển toàn công việc của xã, còn các người trẻ gọi là hương lý thì phụ trách điều hành. Hội đồng Kỳ mục này chẳng những chỉ lo toan về mặt điều khiển và trị an, mà còn phải chăm nom về tác phong đạo hạnh của các thanh niên trong làng, chú trọng đến các cô nhi quả phụ, và các người già và nghèo đói, Mỗi làng đều phải lo cho an sinh xã hội giúp đỡ tất cả con dân trong làng.

Việc liên lạc với chính quyền sở tại trung ương, được trao cho một người trong Ban kỳ mục, gọi là Lý trưởng. Viên này phải đốc thúc cả việc tuần phòng. Nếu xảy ra việc gì do con dân trong làng phạm phải đối với chính quyền trung ương thì viên này phải chịu trách nhiệm nặng nề, mà trở thành một thứ dê tế thần, phải gánh đủ.

Một tổ chức như vậy, vừa nhiều khê, vừa dân chủ, mà không có một viên kỳ mục nào có thể đơn phương hành động được, đã có ở nước tôi cả ngàn năm cũ. Thật rõ ràng minh bạch, chẳng ai có đặc quyền gì, đời sống tự do, làng xã Việt Nam chỉ đặt dưới quyền tòng phục tinh thần Hoàng đế, để được che chở và giúp đỡ trong các công tác hữu ích, có vậy mà thôi.

Căn bản của cơ cấu xã hội là họ (mỗi họ có nhiều gia đình). Phải chăng vì thế mà người ta đã gọi nước Việt Nam xưa là Bách Việt (Trăm họ)?

Tục thờ cúng tổ tiên, tin tưởng ở linh hồn người chết, ở Việt Nam cũng giống như ở phương Tây, bắt nguồn từ tôn giáo gia đình mà ra. Mỗi một gia đình có những thần linh riêng biệt (ông bà ông vải), và người tế tự chẳng ai khác hơn là viên trưởng tộc. Người sống không thể sao nhãng đến người chết, và người chết cũng không thể bất cần đến người sống được. Giữa người sống và người chết, đã có sự tương quan mật thiết vĩnh viễn để làm lợi cho nhau.

Người gia trưởng là kẻ thừa kế ông cha, truyền lại sự phụng thờ tiên tổ cho hậu duệ chính thống của mình, đời đời tiếp tục, trở thành vai chủ tể trong gia đình, phải có bổn phận lo giữ lấy giòng giống. Bởi thế, ai không có con trai nối dõi bị coi là bất hiếu (Bất hiếu hữu tam, vô tự vi đại).

Đối với cha, người con trai phải biết tuân lời, tôn kính và tòng phục. Ngay từ tấm bé, nó phải học lấy chữ hiếu đối với cha, mà nó là kẻ nối dõi tông đường. Tổ tiên dù đã khuất, nhưng vẫn ngự trị trên cao, để che chở, phù hộ, để cùng mang chung một nỗi buồn vui, thái bĩ của con cháu trên dương gian.

Cũng ngay từ tấm bé, đứa trẻ được tu luyện trong trật tự, có hệ thống mạch lạc. Nó gọi cha là Thầy cũng như gọi thầy học bằng thầy. Cha nó dạy nó về lễ giáo và lòng hiếu thảo, thì ở nhà trường thầy học cũng trau dồi cho nó nền học vấn giáo khoa y hệt. Nó theo luân lý Khổng Mạnh, nên biết bổn phận làm con đối với cha mẹ, bổn phận làm em đối với bậc huynh trưởng, bổn phận làm dân đối với vua, với nước.

Như vậy các trẻ nhỏ Việt Nam được dậy dỗ và uốn nắn theo một đường lối quyết liệt đáng yêu, một dị đoan hiền dịu của hoài nghi thơ mộng, là sự thờ cúng tổ tiên, tô chuốt tâm hồn trung trinh hiếu thuận, có nhiễm tinh thần từ bi của đạo Phật.

Bộ Luật Việt Nam buộc người con trai phải phụng dưỡng cha mẹ. Sự hiếu thuận không bao giờ được sao nhãng. Quyền của người cha là quyền tuyệt đối. Cha muốn cưới vợ, gả chồng cho con với ai thì con phải vâng lời. Cha chia gia tài cho con nào ra sao, là quyền của người cha, miễn là phải viết minh bạch ra giấy. Người con gái, một khi đã xuất giá thì phải theo chồng. Con gái là con người ta, con dâu mới thật là mẹ cha mua về. Do thế, con gái phải có nhiệm vụ thờ cúng gia tiên bên chồng, và nhẹ về bên mình. Người ta cho rằng đàn ông Việt Nam đa thê. Nhưng thật sự, họ chỉ có một người vợ cả, gọi là vợ tào khang, được cưới hỏi đàng hoàng còn các vợ khác đều là thứ cả.

Muốn tránh những sự ghen tuông, mâu thuẫn, nhất là đối với sự thừa kế trong hoàng tộc, tôi đã cương quyết bãi bỏ tục đa thê.

Bất động sản của người vợ đem về nhà chồng là thuộc về chồng, nhưng người này không được quyền bán, nếu không có sự thỏa thuận của người vợ. Cưới hỏi phải nằm trong nguyên tắc môn đăng hộ đối.

Tín ngưỡng nhân gian coi linh hồn là bất diệt. Vì thế, sự thờ cúng tổ tiên gồm hai hình thức lễ nghi: một là đối với vong linh người quá vãng, và hai là đối với xác người chết.

Vong hồn vẫn tiếp tục sống trong cõi vô hình. Bởi thế phải làm cỗ cúng, và con cháu phải quỳ lạy khấn vái trong các giỗ chạp. Muốn cho linh hồn được thanh bình an lạc dưới suối vàng, cần phải tìm nơi đất tốt mà xây mộ. Bởi thế, ở nước tôi, không có tục hỏa thiêu xác chết, trừ trường hợp ở nơi đất khách xa xôi. Tang lễ cũng định đoạt về tục để chờ có thời gian nghiêm ngặt. Phải tuân theo cho khắp đồng dân đúng như in. Cũng như tất cả mọi quyền hạn và qui chế, như phụ quyền, quyền nuôi con nuôi, hôn nhân, ly dị…

Lấy căn bản của sự nối dõi tông đường, dòng giống được thuần nhất và tinh khiết đạo hiếu hầu như không cho phép những sự xen kẽ ngoại lai, kể cả về pháp lệnh của công quyền. Vì gia đình đã có vị chủ giáo về lễ nghi, vị trưởng quyền tư lý để hóa giải bảo ban nhau, có gia phong, nếp nhà, tạo nên một đơn vị chặt chẽ về gia tộc trước xã hội.

Những phong tục tập quán ấy đã áp dụng cho cả hoàng gia như cho tất cả mọi người. Nếu hoàng đế có giữ cái uy quyền tối thượng, thì chính nhà vua cũng bị đặt trong một qui chế nghiêm khắc áp dụng chung cho cả thần dân.

Nhà vua cai trị với sự phụ lực của hai cơ cấu điều hành, có những bộ trưởng phụ trách.

Cơ cấu thứ nhất gọi là Viện Cơ Mật. Viện này phải chịu trách nhiệm cho tất cả các vấn đề quan trọng trong nước. Có bốn vị đại thần, gồm hai vị là Chánh nhất phẩm và hai vị Tòng nhất phẩm, cả bốn được gọi là Tứ trụ triều đình, ở dưới có đủ các hàng quan lại để điều hành, và phụ chính khi vua vì lý do gì mà khiếm khuyết.

Cơ cấu thứ hai là Nội Các, coi như chính phủ trung ương, đứng trung gian giữa vua và các bộ trưởng. Chia ra làm sáu bộ (Lục bộ) do sáu vị Thượng thư cầm đầu là bộ Lại (tức bộ Nội vụ), bộ Hộ (tức Tàỉ chánh), bộ Lễ (hay bộ Học), bộ Hình (tức Tư pháp), bộ Binh (tức Quốc phòng), và bộ Công (tức Công chính). Nội các điều hành toàn thể công viêc trong nước. Mỗi bộ có một viên thượng thư đứng đầu, hai vị phó, hai vị cố vấn gọi là phụ thẩm hay trợ lý. Ngoài ra còn nhiều các viên chức và đại diện. Một Đô sát viện được cử đi công cán trên toàn quốc để bổ túc vào nền hành chính trung ương ấy.