Hội hè và Tế lễ ở Việt Nam --
Có hai ngày tế lễ đáng kể nhất ở Việt Nam. Đó là ngày Tết Nguyên đán mà gia đình nào cũng cúng bái và ăn tết hàng năm, và ngày tế Nam Giao là ngày tế quan trọng nhất do Hoàng đế đứng chủ tế, thay mặt cho toàn thể nhân dân, tổ chức cứ ba năm một lần.
Tết Nguyên Đán là tết của gia đình, tết của đầu năm thiên thủ, của hy vọng, của hiếu trung với tổ tiên, vừa mang mầu sắc tín ngưỡng thiêng liêng, lại vừa có nhiều tính chất tôn giáo, chứa đựng phong tục tập quán cổ truyền, có thể coi như một đặc thù riêng biệt của nền văn hóa của chúng tôi.
Tết bắt nguồn từ Trung Hoa, do Khổng phu tử dựa vào Kinh Dịch, đã đặt ra theo định kỳ về thời tiết, do sự vần xoay nhất định của Nhật Nguyệt mà ra. Nếu vị Hoàng đế nào mà lơ là, không tổ chức lễ Tết cho chu đáo, thì xã tắc sẽ gặp phải những thiên tai không nhỏ. Hội ngày Tết tương đương với ngày đầu năm âm lịch.
Đừng nên sai lầm cho rằng ngày Tết có thể tương đương với ngày mùng một đầu năm dượng lịch. Ngày đầu năm dương lịch bắt đầu vào giữa mùa đông, trong khi trái đất đang đắm chìm vào thời gian đen tối nhất, đầy băng giá, Nhưng ở Việt Nam, ngược lại ngày xuân phần là ngày đánh dấu cho năm cũ đã qua, năm mới tới. Những mùa xuân hạ thu đông nối nhau liên tiếp có tầm quan trọng vô cùng lớn lao ở nước tôi, vì đời sống của cá nhân hay xã hội, đều được căn cứ vào đó để làm ngũ mà hoạt động.
Theo tín ngưỡng cổ xưa, sự đổi mới của thiên nhiên phải phù hợp với sự đổi mới của con người. Như cây khô cằn cỗi, mỗi xuân về thì đâm chồi nẩy lộc, con người cũng gột được những xíu phiền để làm tươi lại trái tim khô héo, mà hướng lên chiều hy vọng. Con người đã hưởng ứng với thiên nhiên. Cây dù to lớn, có vươn ngọn tới trời xanh, cũng chẳng biết cỗi rễ nó từ hạt mầm nhỏ bé mà ra, nên không thể biết có ngày cây sẽ phải chết. Người biết được do cái Thức máng trong mình. Cái thức này làm cho con người hơn muôn vật, để biết suy tư, nên đã kính trọng tôn thờ người đã khuất, và đã sang thế giới khác.
Vì vậy, trong ngày Tết đã có sợi dây thiêng liêng giữa người sống và người chết, mang tính chất tín ngưỡng, tôn thờ vô cùng kính cẩn và nghiêm túc.
Trong ba ngày Tết, người chết đã trở về dương gian để sống với đàn con cháu hậu duệ của mình. Trước hôm bắt đầu cúng Tết, người ta làm bữa cỗ xơ xài, để mời vong linh gia tiên trở về ăn Tết. Rồi từ đó, cứ ngày hai lượt, làm cỗ cúng, tương đương vào hai bữa cơm sáng và chiều. Gia đình phải lau rửa bàn thờ, trang hoàng với đầy đủ hương đăng hoa quả và các phẩm vật do con cháu đem lại. Đến ngày hóa vàng, tức ngày mùng ba Tết, thì làm cỗ cúng tiễn đưa ông bà ông vải trở về cõi âm. Trước khi dời bỏ dương gian, tổ tiên đã để lại sự phù hộ độ trì cho con cháu được cả năm gặp nhiều may mắn và tốt đẹp.
Đầu năm, ai là người xông đất đầu tiên? Chính vía của người này đem lại sự may mắn quanh năm chờ tất cả gia đình. Nếu vị đó là người sung sướng, có phúc. Thì cái may sẽ đem lại cho cả một năm dài. Nhưng nếu người đó là người nặng vía, hay keo kiệt, thì ôi thôi, gia đình sẽ gặp phải nhiều điều bất hạnh, ăn chẳng nên làm chẳng ra, suốt cả mười hai tháng. Người ta đã có nhiều hình thức để chiêu tài hay chế ngự sự xui xẻo này. Đó là trồng một cây nêu bằng một cây tre khá dài chừng 12 mét, đã tuốt hết lá, chỉ còn để một dúm ở trên ngọn, rồi chôn cây nêu này ở ngay cổng ra vào, vào ngày cuối năm cũ. Trên ngọn cây nêu, có treo một cái lẵng bằng tre đan, có dán giấy hồng điều viết tám chữ nho, để rước tài thần, phúc thần, hỉ thần giáng lâm, và trong lẵng đựng trầu cau. Phía dưới lẵng còn treo thêm mấy chiếc khánh hay con cá bằng sành nung, để khi có gió thì va chạm vào nhau mà reo vang như điệu nhạc vui tươi êm ái. Phía cuối cùng lại treo một mảnh tre đan hình vuông, để cản trở không cho ma quỷ hay tà thần được xâm nhập vào nhà. Nếu mảnh tre vuông này cản trở tà ma không cho vào, thì trầu cau ở lẵng phía trên lại là phẩm vật dâng mời các phúc thần, hỉ thần, tài thần để rước vào mà ban ân cho gia chủ.
Lễ Tết bắt đầu từ nửa đêm ngày 29 bắt làm mùng một nếu tháng chạp ta thiếu, hay chính đêm 30 Tết, nếu tháng đủ.
Việc sửa soạn ngày Tết được chuẩn bị từ nhiều hôm trước, phần nhiều từ 23 tháng chạp, và nhất là ngày 30 Tết để ai cũng phải khẩn trương, nếu vì lý do gì mà chưa kịp hoàn tất cho thật đầy đủ. Phải trang hoàng nhà cửa, dọn dẹp bàn thờ, mua sắm quần áo mới (hay sắp sẵn quần áo sạch và đẹp nhất), mua phẩm vật hoa quả mứt bánh, và các đồ để làm cỗ, kể cả mua sẵn pháo để đốt.
Vào khoảng mấy ngày trước Tết, chợ họp bỗng nhộn nhịp khác thường. Tiếng ồn ào nổi lên xung quanh các sạp mới mọc ngay sát chợ chính, hay bên lề đường, nơi đông người qua lại. Những sạp này chỉ tạm bợ nhất thời, nên dựng bằng gỗ nhẹ và lợp xơ xài bằng giấy bồi, bằng phên, hay vải bạt. Sạp được trang hoàng rất hấp dẫn, có màu sắc lòe loẹt, và giăng đèn kết hoa rực rỡ. Ban đêm đèn sáng như sao sa. Toàn thể nhân dân Việt Nam tự tay sửa soạn đón Tết tỏ niềm hân hoan, sung sướng đón một mùa xuân hy vọng.
Thế rồi bỗng dưng im bặt. Bao nhiêu đèn sáng ấy bỗng tắt phụt. Nhất là ở thành thị thì càng rõ rệt. Ai cũng ở trong nhà, trước bàn thờ ông bà ông vải.
Ngày Tết bắt đầu từ lúc giao thừa nửa đêm ngày 30 cuối năm sang đầu mùng một. Họ cùng giao thừa, để tạ ơn thần linh và để thỉnh nguyện những lời cầu xin cho cả năm, và tiễn ông Công ông Táo cũ, đón ông Công ông Táo mới.
Dân chúng thường láu lỉnh và hơi nhờn với vị gia thần này. Đó là vị thần ba ngôi hai nam một nữ, nên họ đùa cợt với những câu ví von vui vẻ, nhẹ nhàng. Tuy nhiên họ cũng sợ thần giận, khi lên chầu Trời, nên phải dùng mọi cách để chiêu đãi thần để thần làm báo cáo tốt, khỏi bị quở trách trong cõi hư vô huyền bí.
Sáng mùng một Tết, cả gia đình ai cũng dậy sớm. Phải làm cỗ để cúng dâng lên bàn thờ tiên tổ. Cỗ phải làm ngày hai bữa, sáng và chiều như hai bữa cơm thường nhật cho người sống ở dương gian và phải cúng liên tiếp trong ba ngày Tết. Và giống như mọi dân tộc khác, họ chúc tụng nhau, và đi đường gặp ai, dù quen biết hay không, cả bạn lẫn thù, họ đều vui vẻ chúc nhau được một năm tốt đẹp.
Sau khi cúng xong, họ bắt đầu đoán điềm may rủi. Tùy theo từng miền, có những hình thức khác nhau. Nơi này thì dùng thầy bói đoán thẻ, để nói về tượng trời đất hôm mùng một Tết. Nơi khác thì xem chân gà. Phần nhiều, họ tra lịch để xem ngày tốt xấu, xem giờ xuất hành, mà lịch sách nào cũng đều ghi rõ, là nên làm gì, và tránh làm gì, và tùy theo từng công việc một. Đồng thời cũng chú trọng đến màu sắc thích hợp nữa.
Muốn cho Tết thật linh đình, long trọng, người ta đốt pháo, Tết càng nhiều pháo càng tốt.
Đến ngày mùng bốn, theo nguyên tắc, đó là ngày hết Tết. Ngày đó họ đi tảo mộ vì ông bà ông vải coi như đã trở về cõi âm. Đi tảo mộ là một hình thức đưa tiễn tổ tiên về bên kia thế giới. Các nghĩa trang bỗng nhiên tấp nập và vui tươi như một ngày hội. Các cửa hàng đều mở cửa lại, đường phố trở về mức bình thường cũ. Đến ngày mùng bảy tháng giêng, thì các thần linh bắt tay vào việc, y như người sống trên dương gian. Thượng đế ban ơn hay trừng phạt hàng năm là căn bản của đạo Khổng, đưa con người vào trật tự, vì biết kính trời, sợ đất. Quyền năng tối thượng của phượng đế chỉ được trao cho một vị chân mạng đế vương để cầm quyền thiên hạ. Vì Hoàng đế là Đại diện của Thượng đế trên thế gian, nên được tất cả mọi người kính trọng và tuân lời. Như vậy, Hoàng đế là vai chủ tể nắm trọn Càn Khôn trong cơ cấu toàn xã hội.
Khi đức tiên đế tôi là Hoàng đế Gia Long khôi phục được sơn hà, Ngài liền giữ đúng mỹ tục cổ hàng ngàn năm của Trung Hoa, đã quyết định đặt ra một buổi tế, để tạ ơn Trời Đất, đã ban ơn cho khắp thần dân, cứ mỗi năm phải tế một lần, gọi là tế Nam Giao. Nhưng kể từ đầu thế kỷ hai mươi, tế Nam Giao được rút xuống còn ba năm một lần.
Tế này chỉ dành riêng cho Hoàng đế, vỗn kiêm nhiệm luôn chức vụ Đại giáo chủ để đứng trung gian giữa Thượng đế với con người, và Hoàng đế đại diện cho khắp cả thần dân.
Việc tế lễ này không liên quan gì đến Phật giáo hay việc thờ cúng gia tiên, cũng không dính líu gì đến những nghi thức về tôn giáo nào từng có ở Việt Nam. Thật sự, theo đúng tinh thần của cuộc tế, đây là việc cúng tế nằm trong triều chính, do nhà vua đặt ra, để tỏ sự tôn sùng đối với Đức Ngọc hoàng Thượng đế, cai quản chư thần đồng thời mang một hình thái cầu xin xá tội của bậc Hoàng đế đối với Thiên Nhan, xin Đức Ngọc hoàng đại xá cho những lỗi lầm đã trót mắc phải. Vì vậy, cuộc tế lễ phải tỏ ra đồ sộ và vô cùng trọng thể.
Ngày tế được công bố trưởc ba tháng. Hoàng đế ra chỉ dụ và do Tòa Khâm thiên giám đã chọn được ngày trước.
Lời cáo tri được một viên quan đại thần tuyên đọc không phải cho thần dân, mà để báo cho các vị Thần linh.
Bảo cáo tri ấy đại để như sau:
“Đại Nam quốc, tuế thứ…
“Tiểu thần Nguyễn Văn B… phụng ngự chiếu của Đức Việt Nam Hoàng đế, kế thế các Tiền triều liệt thánh, cẩn tấu Đức Ngọc hoàng Thượng đế, đến ngày… tháng… toàn dân nước Việt Nam sẽ dâng lễ tế Nam Giao. Tiểu thần kính cẩn cáo tri trước thiên nhan và chư thần, cẩn tấu”.
Hai tuần lễ trước ngày tế, thì là cáo tri đối với các đấng Tiên đế để cung nghinh các Ngài về dự lễ.
Thế rồi, một sắc chỉ của Hoàng đế được ban bố vào ba ngày trựớc hôm tế, để nhắc nhở các người dự tế, phải trai giới và dọn mình cho thật là thanh khiết.
Việc trai giới đó rất quan trọng. Để nhắc nhử nhà vua một cách cụ thể, trước đó bốn ngày, người ta mang một tượng người bằng đồng, gọi là đồng nhân rước đến cung điện của vua, để ngày đêm vua trông thấy vị thần tượng trưng cho trong sạch và chay tịnh này, hầu giữ mình cũng y như vậy.
Đúng hôm tế, mới tám giờ sáng, khi tiếng súng thần công báo hiệu mở đầu, một đám rước đang tụ tập sẵn ở điện Cần Chánh, được khởi hành rất nghiêm chỉnh ra đàn tế ở phía nam thành phố.
Đám rước chia ra làm ba đoạn, mỗi đoạn tương đương với một quân đoàn gọi là tiền quân, trung quân và hậu quân. Thoạt đầu, là một hàng voi choàng đầy phẩm phục rất lộng lẫy, có một người quản tượng và một vị quan ngồi, có lọng che. Theo sau là đủ hạng nhạc công, phần việc mang các trống chiêng, và các đồ nghi trượng, như loa đồng, cờ xí, hương án, tàn lọng và nhạc cụ.
Trung quân là nơi quan trọng nhất. Ngoài các phần việc, còn có lính thị vệ mang hèo và trượng là các loại võ khí chỉ huy và hộ vệ, mang kiếm của Đức Vua và các tinh kỳ riêng biệt. Sau đó là bọn vác cờ, thuộc các cờ biểu tượng của Thiên đình như cờ Đại hùng tinh, cờ Nhật Nguyệt, và cờ ngũ hành thuộc về Dịch Ịý. Đức Vua ngồi trong chiếc ngự liễn sơn son thếp vàng đi ở giữa, xung quanh có các kiệu của các hoàng thân dòng huyết mạch, có các kỵ sĩ và các phường tuồng xênh xáng bao quanh. Ngự liễn của Đức Vua được sáu người khiêng, có che hai chiếc tán lớn, và có một vị đại thần đi phò giá, và hai hàng võ quan đi sát hai bên. Lính ngự lâm và cung thủ mang những phủ việt đi hộ vệ. Sau đó đến các xe tay kéo các vị Thượng thư và các quan dự tế.
Hậu quân thì không mấy long trọng. Đó là hàng quân những người mang các nhạc khí như nhạc bát âm, một chiếc chuông lớn, mười hai chiếc lục lạc nhỏ, một trống cái bằng gỗ, một trống cái lớn, gọi là đại cổ, để trên một giá trống thật lớn, mười hai chiếc khánh đá, mỗi chiếc có một tiếng vang cao thấp khác nhau, một chiếc đàn thập lục mang hình đầu hổ, một chiếc sáo lớn để trưng bày, một chiếc cổ cầm thật lớn. Nhiều phường chèo nhảy nhót làm trò khép hậu. Chúng mang rìu và mộc như chiến sĩ đi hộ vệ. Hai con voi khoác vải vóc lộng lẫy đi sau cùng đám rước.
Đám rước đi thật thong thả, và gồm khoảng trên hai ngàn người, mất nhiều giờ để đi trong thành phố, trước khi đến đàn tế Nam Giao, do Đức Tiên đế Gia Long đặt ra. Đàn tế ở giữa nhiều đồi núi, trên có những cây thông, và nằm hướng chiều Bắc Nam có bốn vòng đai lồng vào nhau. Toàn thể được bao bọc bằng một bức tường gạch, chiều dài 390 mét từ Bắc chí Nam và chiều ngang 265 mét tự Đông sang Tây.
Hàng rào thứ hai hình vuông, mỗi chiều 165 mét, và hàng rào thứ ba cũng hình vuông mỗi chiều 85 mét. Đây được gọi là bàn thờ Đất, cuối cùng trèo lên quãng mươi mười hai nấc thì đến một khu hình tròn đường kính 42 mét, gọi là bàn thờ Trời. Ở giữa có lợp một chiếc lều vải rộng, bằng vóc màu xanh để tượng trưng cho Trời.
Mỗi hàng răo đều có bốn cửa ngoảnh theo phương hướng gọi là tứ phứơng Đông Nam Tây Bắc. Phương Nam có ba cổng ra vào, xây bằng gạch. Cửa chính giữa dành cho các bậc thần linh, cửa bên hữu dành cho Hoàng đế. Mỗi cửa đều có chiếc bình phong cốt để ngăn chặn tà thần.
Khi đám rước đến đàn tế, thì đã sang giờ Ngọ. Hoàng đế được đưa đến phía Tây Nam của đàn tế, vào một cung gọi là Trai cung, túc cung của trai giới và chay tịnh. Hoàng đế nghỉ ở đó một đêm, để suy tưởng hầu như đơn độc chỉ có một mình. Đối với vua Gia Long, khi xây cất đàn tế này là có ý minh định trước quốc dân Ngài là bậc Chí tôn của toàn thể sơn hà Việt Nam, và Ngài phải có bổn phận tôn thờ Đức Ngọc hoàng Thượng đế đã trao cho Ngài sứ mạng lãnh đạo triều đại mới cung lãnh đạo thần dân và xã tắc này.
Đến đúng hôm cúng tế, mới hai giờ sáng, đại kỳ được kéo lên. Thật lạ lùng, dù cho đêm trước hay ngày hôm trước có mưa, thời hôm nay trời quang mây tạnh trong suốt buổi lễ. Tôi dời khỏi Trai cung, lên kiệu và vào cửa Tây, ở đó tôi đi bộ leo lên đàn về phía phải, và do cửa Nam tiến vào, và dừng lại một nơi gọi là Mục dục để làm lễ rửa tay.
Nhiều bó đuốc thắp sáng ở bốn góc của đàn tế. Về góc Đông Nam có một đám lửa thiêu lớn, đây là nơi làm lễ tam sinh, gọi là thần trù (tức nhà bếp của chư thần), trên đó có thiu cả một con nghé bị hy sinh, do bọn phần việc phải nhóm lửa luôn tay cho cháy thật to.
Trên tất cả các bàn thờ, những cây nến khổng lồ, cao cả thước tây, cháy sáng rực khắp nơi, ngọn nến to bằng nắm tay. Bóng tối đã lui vào các bụi hốc sâu thẳm bao quanh bàn tế. Trong ánh lửa bập bùng, nhạc bát âm hòa nhịp theo điệu của từng cử động làm con người bị say sưa quyến rũ vào một cõi u minh bát ngát tôn thờ.
Kể từ lúc ấy, tất cả mọi cử động của tôi đều phải đưa vào đúng nhịp, sao cho hòa đồng với các viên bồi tế. Chân tôi khi tiến, khi thoái, phải theo một hình vẽ vô hình, cho đúng nghi thức, theo tiếng xướng của viên lễ sinh.
Vẫn bằng cửa Nam, tôi tiến vào bàn thờ Đất. ở giữa khu này, có dựng một chiếc lều bằng vóc vàng, gọi là “nhà vàng” có đặt một hương án xếp đầy lễ vật. Hai bên có tám án hương thờ các vị thần linh là:
Dương quang tinh tú thần (Thần Mặt trời và các vì sao)
Phong vũ vân lôi thần (tức Thần Gió, Mưa, Mây, Sấm)
Binh tướng nguyệt đức thần (Thần Mặt trăng và Quân đội)
Sơn hải hà hồ thần (tức Thần Núi, Bể, Sông, Hồ)
Bình nguyên phì địa thần (tức Thần của các Đồng bằng và màu mỡ)
Dạ quang thần (Thần ban đêm)
Du thần (Các Thần có ảnh hưởng đối với trái đất và con người)
Khi tôi vào trước bàn thờ Đất, thì các phần việc đốt to ngọn lửa thiu con nghé, còn lông nghé và huyết nó thì được chôn xuống đất, để cúng dâng cho Đất. Tôi châm hương. Các viên bồi tế liền khấn vái và cất cao giọng tụng bài Thái hòa để ca tụng sự thái bình, an lạc.
Sau khi vái tạ các thần, tôi bước lên ngôi đền thờ Trời, ở mô đất tròn chính giữa. Đây có hương án thờ Đức Ngọc hoàng Thượng đế. Xung quanh cho nhiều hương án thờ các vị tiên đế của triều đại tôi. Tôi dâng ngọc ngà, vóc lụa. Sau đó rót rượu cúng để lên bàn thờ cùng với các lễ vật khác. Trong khi đó, kẻ hầu cận mang đến một chiếc khay đựng thịt tam sinh (thịt nghé, thịt heo và thịt dê), cũng được đặt lên bàn thờ. Đây là lúc quan trọng nhất.
Các lễ sinh xướng phủ phục, tôi và các bồi tế đều phải quỳ cả xuống. Một viên quan Đại thần đến trước hương án, lấy một bài văn tế do tôi đứng chủ tế. Ông ta quì xuống và tiến quì vào trước mặt tôi, và đây là giờ hành lễ tế. Tất cả đều im bặt. Bài văn tế do Cơ quan trong Nội các viết, nhưng có một khoảng trống ở phía trên, để dành riêng cho tôi, vì chỉ có một mình tôi biết. Chỗ này, tôi sẽ viết dưới hình thức những danh hiệu riêng của từng vị tiên đế, có thêm những đức tính và những thành tích của các Ngài khi còn sinh tiền.
Im lặng hoàn toàn, chỉ có tiếng nến cháy xèo xèo. Viên quan đọc văn tế cất tiếng ê a đọc (giọng văn tể):
“Tấu lạy Đức Ngọc Hoàng Thượng đế,
“Hạ thần truyền nhân của liệt vị Hoàng đế nước Đại Nam quốc, nhân dịp đầu xuân, kính dân Đức Ngọc hoàng Thượng đế và Đức Chúa tể cõi Trần, lòng tôn thờ bất diệt.
“Nhân dịp xuân về, giang sơn tô thắm, cây cỏ tốt tươi, người vật tràn trề nhựa sống, hạ thần thay mặt toàn thể thần dân, cùng các triều thần, hạ thần xin kính dâng lên Đức Chúa tể muôn loài của cõi Trời và cõi Đất, lễ vật tam sinh, ngọc ngà, tơ lụa, gạo rượu, hương hoa phẩm vật.
“Theo lệ ba năm một lần, Lễ Nam Giao năm nay, hạ thần kính cẩn cầu xin Đức Ngọc hoàng Thượng đế cũng như chư Thánh tiên triều Hoàng đế.
“Đức Vua khai sáng vĩ đại, đã đặt ra nền móng của triêu đại. Sáng suốt và thấu đáo, công bình và đầy kinh nghiệm. Nhờ đức tính của Ngài, đã giúp cho đận hậu duệ nhiều sự phù trợ và che chở.
“Đệ nhị tiên hoàng đế, đã củng cố quyền uy do Đức Ngọc hoàng Thượng đế ủy nhiệm. Đã mở rộng sơn hà. Luật pháp và văn hóa phát triển. Trung chính, đầy nhân ái và hiếu thuận.
“Đệ tam tiên Hoàng đế nhiều nhân ái, và hiếu thuận. Đã tiếp tục công nghiệp của tiên đế phụ hoàng. Trong sạch. Văn chương siêu quần. Thần cơ diệu toán. Đệ tứ tiên Hoàng đế, khuôn mẫu, hoàn toàn. Hiếu thuận trung trình. Tinh vi, đại đức.
“Đệ ngũ tiên Hoàng đế, sáng suốt vô địch. Củng cố ngai vàng. Kiên nhẫn, sáng suốt vô tận về chính trị. Văn chương trác tuyệt
“Cung thỉnh Hoàng triều liệt thánh ve âm hưởng phẩm vật, do kẻ truyền nhân hiếu tử kính đệ lên bàn thờ để kính dâng”.
Sau khi khấn vái xong, tôi phải rót rượu hai lần để cúng. Mỗi lần, tôi bưng một cốc rượu bằng hai tay, nâng cao ngang trán, và vái ba vái.
Sau đó, các viên bồi tế được chia nhau uống rượu này, và ăn phần tế ngay lúc ấy, gọi là được ban lộc Trời. Còn họ đã đặt vào một chiếc khay một phần tế, để mang về cung dành cho tôi.
Những phẩm vật nào không được phân chia, thì cùng với bài văn tế được đốt ở trong một cái chuông đồng. Không để sót vật gì còn lại.
Khói lửa đã mang hương vị này để dâng cúng lên các thần linh ở cõi âm.
Tôi quay lại nhìn vào chiếc chuông đang đốt các đồ cúng lễ còn đang cháy. Lúc đó các Thần linh đã trở gót về bên kia thế giới. Viên quan bồi tế xướng lễ tất. Tôi liền bước xuống ra khỏi bàn thờ Trời, rồi ra khỏi đàn tế. Ở đây đã có chiếc kiệu khiêng tôi về Trai cung, ở ngoài sân, các quan và các hoàng thân cùng huyết thống cũng như các vị thượng thư, và các viên quan võ, đầu phủ phục và chúc tôi đã hoàn tất cuộc tế tốt đẹp.
Thế rồi, đám rước lại bắt đầu như lúc ra đi, để trở về hoàng cung. Suốt dọc đường, dân chúng đứng xem đông nghịt. Chín phát súng thần công nổ vang báo hiệu sự hồi cung của tôi.
Nhiều người đã muốn so sánh cuộc cúng tam sinh ở Tế Nam Giao này với lễ dâng mình thánh của Thiên Chúa giáo. Tất nhiên hai cuộc lễ này cũng có nhiều chỗ gần như nhau, như chỗ trai giới, chỗ dâng vật cúng, chỗ khấn nguyện, và chỗ chia phần và hưởng thực lộc cúng tế. Để có một hình ảnh y hệt ngày Chúa Ki Tô bị đóng đinh râu rút, đòi hỏi vị chủ tế phải tự dâng mình hy sinh cho đúng lễ nghi, bên Trung Hoa ngày xưa đã có vị Hoàng đế tự sát làm vật hy sinh trong buổi lễ. Gương của ông không ai dám theo. Thật sự những điểm tương đồng này chỉ chứng tỏ niềm khát vọng, thì ở đâu cũng thế thôi. Khát vọng về lẽ huyền vi, khát vọng được che chở, khát vọng được bình an ở cõi đờỉ này cũng như ở kiếp sầu. Cũng do một nguyện vọng tín ngưỡng, nguyện vọng được Trời chiếu cố và cứu rỗi, nên dù ở Tây phương hay Đông phương, mong mỏi những kết quả y như nhau, nên đã được thể hiện bằng những lễ nghi có nhiều điểm tương đồng giống nhau y hệt mà thôi.
Đối với tôi, bao giờ tôi cũng hoàn tất lễ tế Nam Giao như một hình thức công khai của vị Hoàng đế đã phục tòng vương đạo để giữ niềm tin kính Trời sợ Đất, vốn đem đến trật tự và hòa bình cho con người trong cuộc sống hàng ngày. Đó là một hành động mang tính chất của nền vương chính, để đưa con người vào vị trí đúng với đạo nghĩa, mà trong nền vương chính này, nhà vua phải có một thái độ khuôn mẫu gấp đôi, vừa là đại diện cho khắp thần dân, lại vừa chứng tỏ chính nhà vua cũng phải tôn trọng trật tự chung như khắp mọi người.
Có người đã hỏi Khổng tử là tại sao con người lại phải kính Trời, Khổng tử đáp: “Chính ta cũng chẳng rõ. Nhưng ai hiểu rõ, thì trị dân dễ như trở bàn tay vậy”. Vừa nói ông vừa giơ ngửa bàn tay ra