Cuộc chiến xa xôi
Trong một cuộc đá banh ở Ban Mê Thuột năm 1938, tôi sa chân vào một hố kiến, nên bị ngã. Chân trái bị gẫy khớp xương trên mắt cá. Lập tức tôi được đưa ngay vào bệnh viện Grall ở Saigon để chữa. Bác sĩ Đại tá Roques đã mổ chỗ đau cho tôi, sau đó tôi được đưa vào dinh Thống đốc Nam kỳ Robin, ở điện Norodon để dưỡng bệnh. Tôi nằm ở đây mất bốn mươi lăm ngày, bột bó được tháo ra, nhưng khớp xương gẫy chưa hàn hẳn lại được, nên phải đắp bột mới.
Tôi trở về Huế bằng máy bay, và vẫn phải nằm. Tuần nào cũng phải soi điện. Mất nhiều tháng như vậy. Và các bác sĩ đều công nhận là xương bị mất nhiều chất vôi. Các danh y được mời đến để điều trị, nhưng họ đồng thanh cho rằng cần phải đưa tôi sang Pháp, mới mau lành mạnh được.
Lập tức tôi ủy quyền cho người em họ là Hoàng thân Bửu Lợi thay tôi để tế Nam Giao và tôi đi Paris để chữa bệnh bằng đường hàng không, do mới thành lập từ năm 1932.
Những chiếc máy bay Deivoitine phải để mất năm ngày mới có thể bay từ Saigon đến Paris được. Nhiều chặng nghỉ là: Bangkok, Rangoon, Calcutta, Karachi, Bassorah, Beyrouth, Tripoli, Tunis, Marseille và cuối cùng đến phi trường Le Bourget. Đó là một cuộc du hành vất vả.
Thế là tôi lại trở lại ngôi biệt thự cũ đường Lamballe vào tháng tư năm 1939. Đầu tháng năm, Hoàng hậu Nam Phương đi bằng tàu thủy sang với tôi, cùng với ba con là Hoàng tử Bảo Long và hai Công chúa Phương Mai, Phương Liên. Khí hậu mùa xuân ở Paris rất tốt cho tôi, nên chỉ có mấy tuần lễ, các thầy thuốc đều công nhận là sức khỏe của tôi đang được phục hồi, chân đã đi được.
Cuộc đi ra ngoài đầu tiên của tôi là đến đường Oudinot thăm xã giao viên Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Georges Mandel. Ông này tiếp tôi một cách rất lịch sự, và đã cho mang một chiếc ghế đẩu để tôi có thể ruỗi chân lên được. Chúng tôi dùng điểm tâm cùng với nhau.
Mặc dù cuộc viếng thăm này không có tính chất chính thức, tôi cũng không thể nén mà không nói xa xôi cho ông ta biết vị trí chán nản mà nền chính trị Pháp đã dành cho tôi.
Viên Bộ trưởng thay thế ông Albert Sarraut này vốn được tiếng là đắc lực, nhưng lại e ngại sự thật. Trong câu chuyện, ông ta tỏ ra cởi mở đối với các vấn đề ở nước tôi. Tuy nhiên, các câu trả lời vẫn mập mờ. Ông ta trỏ vào chiếc ghế ngồi sau bàn giấy như có vẻ dễ chịu hơn. Lúc trước, khi đứng lên tiếp đón tôi, một điểm làm tôi chú ý, đó là ông ta lùn… Phải thế chăng, nên đầy mặc cảm. Ông ta tỏ ra bận rộn về hoàn cảnh ở Âu châu và lo ngại các hậu quả do hiệp ước Munich đã báo hiệu, vắn tắt, ông ta trở lại vấn đề Đông Dương và cho tôi hiểu ngầm rằng, các cơ quan cai trị ở đây rất mạnh và nhiều nhân vật kinh doanh quốc tế, nhờ giao dịch rộng với các chánh khách ở Paris, đủ khả năng tạo ảnh hưỡng lớn lao, thì không dễ gì mà họ dám coi thường. Tôi cáo từ ra về, không khỏi có khá nhiều thất vọng.
Ít lâu sau, cùng với Hoàng hậu và các con, chúng tôi trở về Cannes, vào ngôi biệt thự của chúng tôi là lâu đài Thorenc. Khoảng ba tuần sau, Hoàng hậu về Paris chữa bệnh đau đầu, tôi cũng đi Vichy để xem lại chân lần nữa.
Ở Paris, tôi gặp lại Michel Detroyat mà trước kia tôi đã chơi bóng ngựa với ông ta ở hội Bagatelle (Bóng ngựa là dùng gậy đánh bóng, ngồi ở trên lưng ngựa). Lúc này ông ta ba mươi lăm tuổi, làm thanh tra về vật dụng hàng không trong bộ Hàng không của Guy La Chambré.
Michel Detroyat đề nghị dậy tôi học lái máy bay trong thời gian nghỉ ngơi bắt buộc này. Tôi vui vẻ nhận lời. Ngày nào cũng vậy, trong hai mươi phút, tôi tập lái máy bay ở Villacoublay, trên chiếc máy bay một thân Morane 315, và sau vài lần đi chung với huấn luyện viên, anh ta đã để tôi lái một mình. Tôi cảm thấy thoải mái vô cùng, một hình thái của tự do hoàn toàn. Từ đó, tôi khám phá ra có một năng khiếu khá cao về các máy bay. Michel Detroyat công nhận tôi là một học viên xuất sắc, tóm lại là học viên mà anh ta đã thả ra nhanh nhất. Thế là tại Vichy, trên chiếc Stamp của sân bay địa phương, tôi thi lấy bằng lái máy bay.
Một tối, vì vô công rỗi nghề, tôi theo một số người quen biết vào sòng bài. Họ mời tôi chơi. Chỉ có ít tiền mang đi, nên tôi đánh nhỏ, và tôi đã thắng… Nhưng thắng bao nhiêu? Thật sự thật cũng không nhớ rõ, chỉ biết rằng, hôm sau với số tiền này, tôi đã mua được chiếc Citroën sáu mã lực. Đó là lần độc nhất mà tôi vào một sòng bài, trước khi trở về Việt Nam, và cũng là lúc mang chức vụ làm vua. Và cũng là lần đầu tiên tôi đã dùng tiền riêng để mua sắm riêng cho mình…
Ở Việt Nam, Hoàng đế không có lãnh lương bổng gì. Triều đình phải lo liệu tất cả các điều mà nhà vua cần đến, giúp nhà vua dễ dàng làm tròn sứ mạng, hầu tỏa ra uy quyền tối thượng của mình. Hoàng đế chẳng có gì là của riêng. Ông ta không giống các vua chúa phương Tây, có tài sản riêng biệt. Khi còn tại vị, ở trên ngai, ông ta có hết, cần gì có náy, nhưng nếu xuống ngôi, thì chẳng có một mảy may gì. Tôi có thể được coi như người giàu nhất nước, mà thực sự lại chẳng có một mảnh đất tẻo teo nào. Tất nhiên, các phẩm vật, hay hoa quả ngon nhất được đem cung tiến cho tôi, vì tôi là Thiên tử… Nếu tôi tỏ ý kiến, muốn có hạnh phúc gia đình ở bờ bể, lập tức người ta cất ngay một biệt thự ở Qui Nhơn, ngay bên bãi biển.
Ở Cam Ranh tôi cũng có một ngôi nhà lầu. Tất cả sự tậu sắm ấy, tất cả các công trình kiến thiết ấy đều do Triều đình đài thọ, tôi không cần biết đến, thế nhưng các tài sản này thuộc về triều đình chứ không phải của riêng tôi. Tôi sống trên vàng ngọc, giữa kho tàng, mà mình chẳng có tí quyền gì. Ở Việt Nam tôi không bao giờ có tiền trong người và tôi cũng không biết bằng cách nào, mà người ta có thể có tiền được. Vì vậy tôi sống dửng dưng trước tiền bạc, và của cải này nọ.
Hơn nữa, cả Hoàng hậu và tôi, chúng tôi sống cuộc đời rất mộc mạc. Buổi sáng, sau một cuộc cưỡi ngựa, tôi đến bàn giấy và làm việc với Thượng thư Phạm Quỳnh. Đến chiều, tôi lái ô tô chạy một hơi, hay lái thuyền trên sông Hương, chẳng có vệ sĩ hay tùy viên.
Hoàng hậu thì bận lo giáo dục cho con cái. Một cô sẩm người Hoa trông nom bọn trẻ nhỏ nhất. Về sau, có thêm một nữ khán hộ người Thụy Sĩ, một ông thày dạy học tiếng Việt Nam và một bà giáo người Pháp kèm về chữ Pháp cho trẻ nữa. Khi chúng tôi về Đà Lạt, thì Hoàng thái tử Bảo Long theo học ở trường nhà dòng Taberd.
Những bữa tập bay ở Vichy rất lợi cho tôi. Chân tôi nay đã hoàn toàn cứng rắn, và tôi đi đứng không còn khó khăn nữa. Theo lời khuyên của các bác sĩ, tôi nên đến nghỉ ngơi ít lâu ở Aix les Bains.
Tuy nhiên, mây đen u ám ở khắp trời Âu. Những dấu hiệu chiến tranh mỗi ngày một rõ rệt. Ở Huế, Triều đình thôi thúc mời tôi trở về, và không nên mạo hiểm ở lâu bên Pháp có thể bị kẹt. Tôi quyểt định dùng máy bay riêng. Còn Hoàng hậu và các con thì đi đường thủy.
Chiếc máy bay chở tôi là chiếc Dewoitine một cánh quạt. Phi hành đoàn chỉ có một viên hoa tiêu, một bác sĩ và một hiệu thính viên. Cuộc du hành này rất sôi động, và khó khăn, bởi chúng tôi đang ở giữa mùa gió bão. Sau khi bay lên không phận Ấn Độ, chúng tôi bắt buộc phải hạ cánh ở Akyab, một thị trấn nhỏ ở trước vịnh Bengale, thuộc biên giới Miến Điện. Vừa đáp xuống xong thì bãi đáp bị nước tràn ngập hoàn toàn. Chúng tôi phải đợi cho nước rút, mới có thể cất cánh được.
Kể từ lúc ấy, để tránh nguy hiểm, bắt buộc chúng tôi phải bay là là cho tới Rangoon. Chuyến bay này thật nguy hiểm, như trò nhào lộn vậy.
Cuối cùng chúng tôi đến Huế, không ai việc gì. Phạm Quỳnh ra đón tôi ở sân bay. Trong khi đi đường, tôi có nói cảm nghĩ của tôi, khi đi nghỉ ở Pháp. Tôi không dấu sự bi quan của tôi đối với số phận của quốc gia bảo hộ. Từ sự di chuyển trền khắp nước Pháp, cũng như mọi giao dịch của tôi ử Paris, tôi có một cảm tưởng nặng nề. Tôi đã nhận thấy rằng toàn thể nước Pháp như không có chuẩn bị gì, do một sự ăn chơi buông thả quá độ. Phản ứng và tâm thuật của dân chúng không mấy tốt đẹp. Thái độ của người Pháp trước những nguy cơ chiến tranh đã quá thờ ơ làm thất vọng… Viên thượng thư này nghe mà không nói một câu nào.
Ngày 3 tháng 9, chiến tranh đã xảy ra.
Ngày 15 tháng 9, tôi gửi cho dân chúng, lời tuyên bố đại cương như sau:
“Nếu có một cuộc chiến tranh cao thượng để bảo vệ chính nghĩa, thì đây là cuộc chiến đó đã bắt đầu, và nước Pháp bảo hộ đã bị lôi cuốn.
“Nước ta và dân tộc ta đã đứng trong hàng ngũ của nước Đại Pháp. Bổn phận của chúng ta đã được vạch rô: Chúng ta phải đứng bên nước Pháp, để chung lưng góp sức với tất cả nhiệt tâm trong cuộc chiến đấu vĩ đại này”.
Nước Pháp liền bổ một viên Toàn quyền mới là Đại tướng Catroux. Tôi đã biết ông ta, khi sang thăm nước Maroc, lúc ấy ông là thị trưởng thị trấn Marrakech, sau đó nhiều lần tôi lại gặp ông ta ở Pháp.
Mỗi khi có một viên Toàn quyền mới nào được bổ đến, tôi vẫn tiếp kiến ở điện Thái Hòa, trước toàn thể nhân viên Viện Cơ mật, và các viên chức, văn, võ cao cấp người Pháp. Viên Toàn quyền mới đọc một bài diễn văn, và tôi đã đáp lại vắn tắt vài lời, liên hệ đến những điều chúc tụng. Cuộc tiếp tân được kết thúc bằng một bữa yến tiệc, đặt ở phòng tiếp tân cạnh điện Thái Hòa. Đối với Đại tướng Catroux cũng vậy, nhưng vì đã có nhiều liên lạc cũ, nên sự đón tiếp có màu sắc thân mật, cởi mở hơn các vị trước nhiều. Catroux phu nhân biết là mình rất khả ái, và đã được gọi là bà Hoàng Margot.
Bà rất hợp ý tâm đầu với Hoàng hậu Nam Phương. Đến nỗi rằng, chúng tôi thường thường gặp nhau luôn, nhất là ở Đà Lạt, ở nhà ông bà nhạc gia tôi, và sau cùng ở biệt thự riêng của tôi đã cất xong.
Đại tướng Catroux lúc đó quãng sáu mươi tuổi. Ông không nói với tôi nhiều về các vấn đề chính phủ. Công việc trị an trong nước vẫn đều đặn, không có gì, nước Việt Nam vẫn bình an.
Ông ta cũng không về Pháp. Đến tháng sáu năm 1940, thì đó là sự sụp đổ…
Nhật đang đánh nhau với Trung Hoa từ năm 1937, liền lợi dụng cơ hội này. Theo các khoản của sự thỏa thuận cũ, binh nhu, nhiên liệu, xe vận tải, do các nước châu Âu viện trợ cho Trung Hoa đi qua đường xe lửa Hải Phòng - Vân Nam hay đường bộ Hà Nội - Lạng Sơn để đưa vào nội địa Trung Hoa.
Ngày 19 tháng 6 không còn đếm xỉa đến chính phủ Pháp, vốn lúc ấy đã quá bận rộn với nhiều vấn đề quan trọng, chính phủ của Nhật Hoàng đã gửi cho Tòa Đại sứ Pháp ở Tokyo một tối hậu thư để gửi cho viên Toàn quyền Pháp ở Đông Dương. Ngày hôm sau 20 tháng 6, biên giới Việt Nam - Trung Hoa liền bị đóng chặt, và binh lính Nhật kiểm soát sự ra vào.
Biết trước về hiểm hoạ nếu từ chối trong hoàn cảnh bi thiết của nước Pháp lúc ấy, Toàn quyền Catroux chấp nhận yêu sách này của Nhật, và cho rằng chỉ có đường lối duy nhất ấy, mới cứu vãn nổi Đông Dương thuộc Pháp. Bị đứt liên lạc với chính quốc trong thực tại, ông ta không có cách nào để báo tin cho chính phủ Pháp cũng như để nhận clủ thị cần thiết theo như hạn định. Chỉ mấy ngày sau đó, khi có hiệp định đình chiến ở Pháp, ông ta mới có thể báo cáo với Bộ Thuộc địa ở Paris.
Ngày 25 tháng 6, Hội đồng Bộ trưởng Pháp cất chức Toàn quyền của Đại tướng Catroux và bổ nhiệm thay vào đó, Phó Đề đốc Jean Decoux lúc ấy đang chỉ huy hạm đội Pháp ở Viễn Đông. Nhưng Đại tướng Catroux cho rằng quyết định bãi nhiệm này đã không tính đến hoàn cảnh thực tế, và các nhân viên thân cận ông đã dùng nhiều hình thức để can thiệp cạnh chính phủ của Thống chế Pétain. Quốc vương nước Cao Miên cũng như Quốc vương nước Ai Lao đều gửi điện văn lên Thống chế Pétain. Khâm sứ Graí Teuil, dùng điện văn yêu cầu tôi gửi một bản kiến nghị cho Tổng thống Albert Lebrun. Quyết định kia vẫn giữ y nguyên.
Tuy nhiên, Đại tướng Catroux chỉ bàn giao công việc vào ngày 20 tháng 7. Trước khi ra đi, Đại tướng đã đên Huế để chào từ biệt tôi. Tôi cho rằng việc chính phủ Pháp đối với ông là việc riêng của ông, không quan hệ gì đến tôi, nên vẫn tiếp ông ở điện Thái Hòa, với đầy đủ nghi thức dành cho vị trí của ông.
Tôi cũng đốì xử như thế đối với Đô đốc Decoux khi đến chào tôi. Nhưng sự giao thiệp giữa tôi và Đô đốc không có thể bằng như cách tôi đốì xử với Đại tướng Catroux. Đô đốc Decoux là người ái quốc nhiệt tâm, thẳng thắn tột bực, nhưng tính tình khó khăn. Chúng tôi không mấy gặp nhau, và trong một vài trường hợp, ông ta tỏ vẻ cởi mở với nguyện vọng ái quốc của nhân dân Việt Nam. Đối với tôi, ông cũng không có vẻ gì là khắt khe hơn các vị tiền nhiệm của ông ta, trước các vấn đề của nước tôi.
Những tin tức mà tôi nhận được, là do hai đài phát thanh Tiếng nói Phù Tang và Radio Saigon, là hai đài nghe được ở Huế.
Trái lại với điều người ta dự tưởng, sự thất trận của Pháp năm 1940 không làm sứt mẻ mốì giây liên lạc giữa hai nước. Thực sự, dân tộc Việt Nam bao giờ cũng tỏ sự thương xót đối với những điều bất hạnh đang đánh vào quốc gia bảo hộ, và có thể nói rằng dân chúng chưa bao giờ lại gần gũi với Cộng đồng Pháp quốc như lúc ấy. Vì vậy, khi có sự kêu gọi dân chúng giúp đỡ về vấn đề cứu trợ cho Pháp thì toàn dân đã hưởng ứng nhiệt liệt, với tất cả độ lượng và lòng ưu ái đáng quí. Có lẽ thế chăng, nên sau này Pháp đã đền đáp lại bằng cách trả ơn, là để Việt Nam độc lập.
Lòng ưu ái ấy cũng không bị sứt mẻ trong vụ xung đột ở Lạng Sơn cuối năm 1940, cũng như vụ tấn công của Thái Lan vào đầu năm 1941, đối với các tỉnh biên giới Cao Miên và Ai Lao.
Nước Việt Nam sống trong thái bình và kiến thiết.
Trong môi trường ấy, tôi đón tiếp vị thiếu vương nước Cao Miên Norodom Sihanouk vừa lên ngôi vua Monivong. Vị thiếu vương này đã ra yết kiến Toàn quyền Pháp ở Hà Nội, và khi trở về đã ngừng lại ở kinh đô Huế. Khi lên nối ngôi, Sihanouk mới mười chín tuổi, và có thể nuôi mộng tương tự như tôi khi ở Pháp trở về. Khi gặp tôi, ông ta mời tôi đến thăm Phnom-Penh.
Tuy có thỏa ước giữa Pháp và Nhật ký ngày 21 tháng 7 năm 1941, mở cửa toàn thể Đông Dương cho quân đội Nhật, các sự di chuyển vẫn hoàn toàn tự do. Vì vậy, cuối năm, theo lời mời của Toàn quyền Decoux, tôi ra Hà Nội khánh thành Hội chợ như đã từng dự định ở Huế vào năm 1939. Đây là lần thứ hai tôi ra thăm Bắc hà.
Nhưng khi tàu hỏa đến Thanh Hóa, tôi được viên đồn trưởng binh lính Pháp báo cho biết là nhiều tin tức quan trọng ông ta mới nhận được: Nước Nhật đã tấn công Hoa Kỳ. Đó là ngày 8 tháng chạp năm 1941. Tôi quyết định quay lại, và khi đến Huế, tôi mới rõ chi tiết về trận tấn công bất ngờ của quân đội Nhật vào Trân Châu Cảng, lôi cuốn cả Hoa Kỳ vào vòng chiến.
Kể từ ngày ấy, các liên lạc đường biển với nước Pháp qua Hão Vọng Giác, đã bị cắt đứt. Chúng tôi hoàn toàn bị cô lập cho đến hết tháng tám năm 1945.
Đầu năm 1942, Đô đốc Decoux chuyển cho tôi lời mời chính thức của Quốc vương Sihanouk. Tôi liền đáp tàu hỏa xuyên Đông Dương, đi cùng với Hoàng hậu Nam Phương đến Sài Gòn. Chúng tôi nghỉ ngơi ở nhà một người cậu của Hoàng hậu, có một biệt thự lớn ở Sài Gòn. Thống đốc Nam kỳ mời chúng tôi dự tiệc. Nhân dịp, tôi ngỏ ý muốn đến Bến Tre là sinh quán của Đức bà Từ Dủ, mẫu thân của Hoàng đế Tự Đức. Thống đốc chấp nhận, nhưng chính phủ Pháp ở Nam kỳ lại ra chỉ thị cho dân chúng là cấm dân chúng dọc đường không được tụ tập để hoan hô tôi, nếu trái lệnh sẽ bị phạt vạ. Tôi dùng đường bộ đi bằng ô tô và có một viên chức Pháp đi theo.
Nhân viên mẫn cán này quả đã bực dọc vô cùng. Dọc đường rất nhiều hương án với hương hoa được bày ra để bái vọng tôi. Dân chúng vui lòng nộp phạt, để được thanh thản tâm hồn, tôn kính vị Hoàng đế của họ.
Tại Bến Tre, tôi nghiêng mình trước bàn thờ Đức bà, mà mộ phần thì ở Huế. Tại nơi đây sinh quán của Đức bà, đã có xây một ngôi đền để thờ cúng Đức bà.
Chúng tôi dùng đường bộ bằng ô tô đi thẳng tới Phnom Penh. Trong suốt dọc đường, mặc dù đã có chỉ thị cấm đoán của chính phủ Nam kỳ, nhưng sự tung hô tôi càng nhiều. Đến kinh đô xứ Chùa Tháp, tôi được tiếp đón rất long trọng.
Nằm ở ngã ba sông Cửu Long với phía đuôi hồ Tonlé Sap, Phnom Penh là một thành phố đầy cây cao bóng mát, hơi giống Huế, nhưng có tính chất thương mại nhiều hơn do kỹ nghệ tơ lụa, và ngành trồng bông vải và cao su mới được phát triển mấy năm gần đây. Cung điện nhà vua được trùng tu lại, nhưng vẫn giữ hình thức cũ. Chúng tôi ở đấy hai ngày, trong thời gian đang có hội té nước.
Sau đó chúng tôi vẫn dùng đường ô tô để thăm Đế Thiên Đế Thích. Trước bao đống đá đổ vỡ của cổng ra vào, cung tẩm, hành lang, tháp chuông, cột trụ đồ sộ, điêu khắc mỹ xảo, những cầu lơn, thềm cao bệ đá, người du khách dễ bị lạc. Cả khung cảnh hoang tàn đồ sộ ấy, loại thành thiêng cấm địa xây dựng bởi cả một dân tộc sư sãi, tạo nên một bí ẩn khó giải. Công sức tạo tác của con người nhỏ bé đối với công trình vĩ đại này thật không thể nào tính toán nổi. Cũng không có gì có thể so sánh được với công cuộc trùng tu của Trường Viễn đông Bác cổ để cứu vãn lại kỳ quan này đốí với sự xâm nhập của rừng.
Ban đêm, dưới màu trắng sữa của trăng, cảnh tượng của Angkor Tom nhuốm một vẻ đẹp thần tiên. Chúng tôi ở đó một tuần lễ, và đi thăm Angkok Vat, Angkok Tom, đền thờ Thần Rắn Bayon, đền thờ Prah Khan… Cái làm nổi bật Angkor thành độc nhất vô nhị ở thế giới chính là vẻ đẹp dịu dàng, yểu điệu thoát ra từ những đống đá khổng lồ vĩ đại, đó chính là vẻ kỳ quan của Đế Thiên Đế Thích vậy.
Dùng đường bộ qua Kratie, chúng tôi về Ban Mê Thuột không cần qua Sài Gòn.
Nơi nào, đất nước cũng được phồn vinh. Bị phong tỏa bởi hạm đội của Hoàng gia Anh quốc, Liên bang Đông Dương tìm cách tự túc và cố gắng kỹ nghệ hóa xứ sở. Nhiều công trinh lớn được thiết lập: đường xá, cầu cống được kiến tạo, hải cảng và phi trường được tu bổ, cùng với các công trình thủy lợi.
Một nỗ lực lớn lao dành cho thanh niên, trong lãnh vực thể dục, thể thao. Tháng 7 năm 1942, đã tung ra cuộc đua xe đạp vòng quanh Đông Dương, hơn 100 tay đua dự, kèm theo 200 xe ô tô và xe gắn máy đi theo. Trên đường đua hơn hai nghìn cây số, đi khắp lục tỉnh ở Nam kỳ, vòng lên phía Bắc Cao Miên, đến Hạ Lào và Trung Lào rồi tiến ra phía Bắc Trung kỳ để tởi Bắc kỳ, sau đó dùng đường ven biển mà trở lại Sài Gòn, cứ nghỉ ở mỗi chặng lại có phát thưởng và tổ chức kịch hát rất vui nhộn. Tôi chủ tọa cuộc phát thưởng ở chặng Huế. Những hoạt động ấy rất làm nức lòng dân chúng.
Song song với phong trào thể thao này, đầu năm 1943 viên Toàn quyền đã tự phong cho mình nhiều ưu quyền đặc biệt nhằm để củng cố hệ thống liên bang. Chính sách này nhằm hai mục tiêu là đào tạo cấp tốc số thượng lưu trí thức bản xứ, và đoàn ngũ hóa họ quanh Đô đốc để liên kết chặt chẽ, tôi cũng không quan tâm đến. Viên Khâm sứ Trung kỳ vẫn chủ tọa Hội đồng Nội các và giữ y nguyên quyền điều khiển chính phủ Hoàng gia Huế. Câu nói này chẳng phải của tôi, nhưng quả nhiên đã thật đúng, đó là: Đông Dương, thì vua có ngai, nhưng Đô đốc thì cai trị.
Tôi cố tránh tham dự vào các quyết định quan trọng, để giữ y nguyên thái độ mà tôi đã tự vạch ra, kể từ lúc bắt đầu.
Sau khi chữa bệnh ở Pháp về ít lâu, thì chiếc máy bay đặt mua đã được gởi đến cho tôi. Gần phía Bắc hoàng cung, tôi cho làm một bãi đáp. Thường ngày tôi vẫn bay hàng giờ với chiếc Morane 343, dần dà tôi đã nhào lộn trên không, làm cho hoàng gia rất lo ngại.
Cứ cuối tuần, tôi hay đi săn ở Quảng Trị hay đi nghỉ mát ở Đà Lạt. Tại Đà Lạt, tôi có một biệt điện có vườn cây cao ở gần Liên Khang. Tôi cũng thường đến Ban Mê Thuột, ở đấy có một nhà lầu sát hồ nước nằm trên núi cao, vốn là miệng núi lửa xưa kia.
Trong thời gian này, trên thực tế, tôi không từng có liên lạc gì với nhà cầm quyền. Nhưng sự có mặt của họ rất kín đáo, không gây phiền phức gì cho đất nước. Tuy nhiên, không phải là tôi không biết những hoạt động ngấm ngầm của họ đối với đất nước tôi. Họ chú trọng nhiều nhất vào giới chính trị quốc gia, và muốn lợi dụng những người này. Về phía Trung Hoa thì xưa nay vẫn là nơi bao dung cho những nhà cách mạng ẩn núp, bọn cán bộ Cộng sản, và bọn xách động đủ loại…
Nếu trường hợp hiện tại kéo dài, thì sự khiêu khích ấy có thể trở thành nguy hiểm. Nhưng sau những cuộc thất bại của phe Trục ở Bắc Phi và ở Âu châu, tôi tin rằng quân đội Nhật sẽ thua. Lẽ ra Nhật nên tự chế sau các chiến thắng ở Đông Nam Á, mà chẳng nên nhảy lên lưng anh khổng lồ Mỹ mới phải. Tôi biết rằng đây cũng là một ý kiến của Bộ Tham mưu Hành quân Nhật Đại Đô đốc Yamamoto đã không mấy hoan nghênh việc tấn công Trân Châu Cảng.
Hơn nữa, bọn mật vụ Nhật đã đặt trọng tâm vào miền Nam Nam kỳ, bởi ở đây có các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên và rất nhiều hoạt động chông đốì khác, kể từ khi có Phong trào Bình dân ở Pháp từ 1936, tăng cường thêm bởi sáng kiến của Đô đốc Decoux. về phía trên, giáp ranh biên giới Hoa Việt, các giới trẻ, trí thức được hun đúc hăng say vào các hoạt động phá hoại tích cực.
Ngược lại, ở Trung kỳ, còn bảo thủ hơn nhiều, nên trung thành với nền nếp cũ, và đứng ra ngoài mọi sôi động đó. Đối với người dân quê, hay dân vùng cao nguyên của nước tôi, không có gì đặc biệt đã xảy ra. Tất cả mọi cơ sở, mọi cơ cấu điều hành vẫn hoạt động đều như cũ, trong một bầu an ninh, tự tại và không bị phiền hà gì trước sự có mặt của quẩn đội Nhật, và quân số trên toàn cõi Đông Dương không quá 25.000 người.
Sự đi lại không bị trói buộc. Xe lửa xuyên Đông Dương vẫn chạy điều hòa, từ Bắc vào Nam. Khi tôi di chuyển với Hoàng hậu, không bao giờ cần đến vệ sĩ. Đường xá rất an ninh. Ngày cũng như đêm. Chính vì chạy ban đêm từ Sài Gòn về Đà Lạt, mà phu nhân Đô đốc Decoux bị tử nạn xe hơi giữa đường. Cái tang đau đớn này làm Đô đốc rất xúc động trước lời phân ưu của Hoàng hậu và của tôi, khi ông đang đứng nghiêng mình trước thi hài của vợ. Bà Decoux đã rất thân thiện với Hoàng hậu, khi hai người cùng hoạt động trên lãnh vực xã hội.
Tôi cũng không phải là không biết những khó khăn mà Toàn quyền Decoux gặp phải với chính phủ Pháp của Tướng De Gaulle, kể từ ngày mà Tướng De Gaulle đã về ngự trị à Paris. Các liên lạc giữa hai bên rất chậm trễ và gặp nhiều trở ngại nhiều khê, qua ngả Calcutta. Nhưng Đô đốc Đecoux không ngỏ cho tôi biết, còn tôi thì cho rằng là việc riêng của Pháp thì không liên can gì đến tôi cả.
Ngoài những cuộc oanh tạc bằng máy bay mỗi này mỗi nhiều ở ven biển Nam kỳ và Bắc kỳ, tình hình vẫn y nguyên cho đến đầu năm 1945.