PHẦN THỨ BA - Hồ Chí Minh và phe nhóm
Tôi rời Huế bằng đường bộ ngày 4 tháng 9. Tôi ra đi, rất thản nhiên, không quan ngại nỗi gì. Có thể là do tính tò mò thúc đẩy, vì tôi muốn gặp những người đã tôi đã trao quyền, nhất là lãnh tụ của họ, nhân vật Hồ Chí Minh bí mật kia.
Trong suốt dọc đường, tin tôi đi qua lan rộng rất nhanh. Khi tôi qua các đám đông, đàn ông đàn bà đến gần xe, trố mắt nhìn. Đây là lần đầu tiên, họ có thể được tự do nhìn kỹ vị Hoàng đế của họ. Đến ngày ấy, trước kia, nghi lễ đã ấn định rằng khi quỳ trước nhà vua mà ngửng đầu lên nhìn là phạm tội nặng, Bây giờ, các đồng bào chất phác đó quả đã không ngờ. Hoàng đế vận âu phục đang ở giữa họ, cũng y như mọi người thường dân khác… Chắc chắn đã có một sự gì thay đổi.
Khi qua Quảng Trị, dân chúng đông nghẹt y như đang có biểu tình, ai cũng có thiện cảm. Theo như hình thức, quả nhiên chưa bao giờ tôi lại được thân dân như vậy. Nhưng tại Đông Hà, phải nghỉ lại ban chiều, tôi mới thấy rõ một sự xáo trộn do sự thoái vị của tôi, đồng thời uy tín của Hoàng đế vẫn còn dâng cao. Tại đây, dân chúng muốn được nhìn tôi càng đông đặc. Các nhân viên trong Uy ban Nhân dân muốn tỏ ra có quyền hành khi đón tiếp công dân Vĩnh Thụy, một cách rất dân chủ. Thế nhưng, bị truyền nhiễm bởi đại chúng, họ trở về với thói quen và nghi thức cổ xưa. Họ ý thức được, và cố gắng để sửa chữa lại cho đúng phong cách của họ hiện tại, nhưng cuối cùng không biết phải làm thế nào, nên rất lúng túng. Tự thâm tâm, tôi thú vị nhìn thái độ của họ, và tìm cách giúp đỡ họ khỏi bỡ ngỡ, nên đã tới gần họ rất niềm nở, nhưng càng niềm nỡ bao nhiêu, họ càng kính cẩn bấy nhiêu. Quả nhiên, cách mạng cũng không phải là điều dễ đạt…
Suốt ngày hôm sau, cũng y như vậy. Tôi đến Thanh Hóa vào buổi chiều, ở đó đã có những cuộc tập họp đông đảo để hoan hô nồng nhiệt.
Đến lúc gần vào bàn ăn, thì được tin Hoàng thân Lào Souphanouvong, anh em họ của nhà vua ở Luang Prabang vừa tới, vì ông cũng là thượng khách của Uỷ ban Nhân dân tỉnh. Cho tới nay, chúng tôi chưa từng gặp nhau, nay mới được quen nhau.
Cùng tuổi với tôi, ông đã ở lâu bên Pháp từng là học sinh xuất sắc của trường trung học Saint Louis ở Paris, và sau là sinh viên trường quốc gia Kỹ thuật Cầu cống.
Về nước năm 1937, ông không được dự vào triều chính, do lý lịch giòng dõi của mẫu thân ông. Chính phủ Pháp bổ nhiệm ông làm kỹ sư công chính bản xứ, và bổ vào Tourane, tại đây ông lấy một bà vợ Việt Nam, gốc Bắc kỳ, Là người hoạt động, ông ta rất bất mãn với địa vị tầm thường đó, nên nuôi hờn với người Pháp, mà ông muốn tống ra khỏi nước Lào. Trong thời tạm chiếm của Nhật, ông đã tổ chức được ở tỉnh Khamouane, một phong trào kháng chiến, với một quân đội du kích y như của Giáp, để dần dà tạo cho ông một thế chính trị cho công cụ giải phóng. Vì vậy, khi người anh cùng cha khác mẹ là Hoàng thân Phatsarath lập chính phủ lâm thời đấu tranh cho độc lập và thống nhất của nước Lào, ông được trao cho làm Tổng tư lệnh Lực lượng Vũ trang Lào Issara (Lào Tự do).
Với vị trí ấy, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra Hà Nội.
Lời mời này chứng tỏ phía Việt Minh, muốn nắm quyền chỉ huy tối thượng đối với tất cả phong trào giải phóng Đông Dương, và tôi không lấy gì làm ngạc nhiên nữa.
Chúng tôi liền quyết định cùng đi với nhau, và ngày 6 tháng 9, chúng tôi đến Hà Nội vào lúc ban trưa.
Tôi được đưa đến ngụ ở phố Gambetta, tại nhà viên cưu Đốc Lý Hà Nội. Sau khi tắm rửa xong, tôi đến trụ sở của Uy ban Nhân dân đóng ở dinh Thông sứ Bắc kỳ để dự tiệc tiếp tân chào mừng tôi.
Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng bộ Nội vụ tiếp đón tôi, và lúc vào bàn tiệc, đã giới thiệu tôi với Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa tới. Ông này niềm nở bắt tay tôi, ngỏ ý cám ơn là đã thoái vị, và nói tiếp:
- Chúng ta sẽ làm việc chung với nhau, cho nền độc lập quốc gia.
Bữa ăn rất giản dị. Thoạt tiên, Võ Nguyên Giáp nói mấy câu chúc tụng, rồi câu chuyện chỉ loanh quanh trong vấn đề xã giao. Tiệc khá ngắn ngủi, và ai nấy rút lui.
Hôm sau, lúc 11 giờ, tôi gặp Hồ Chí Minh, diện đối diện tay đôi. Thái độ của ông khác hẳn lần trước. Ông tỏ ra hết sức lễ độ, dùng tiếng Ngài để gọi tôi. Tiếng này coi như tương đương với tiếng xưng hô Hoàng thượng. Chỉ còn có nước là xin lỗi bất đắc dĩ lắm, mới phải cầm quyền.
- Thưa Ngài, tôi không liên quan gì đến bức điện mà Ngài nhận được ở Huế, yêu cầu thoái vị. Riêng cá nhân tôi, như đã từng nói hôm 22 tháng 8, tôi vẫn nghĩ vẫn để Ngài lãnh đạo quốc gia, và đặt tôi vào địa vị Thủ tướng, lãnh đạo chính phủ mà thôi. Tôi không đồng ý với những người đã ép Ngài đến chỗ thoái ngôi.
Tôi cũng trả lời bằng một giọng trang trọng, và gọi ông ta bằng Cụ, và trấn an ông rằng tôi chỉ muốn được là một công dân thường, để xây dựng nước Việt Nam mới, thống nhất và độc lập.
Ông ta thoải mái ra mặt, và vẽ ra một hình ảnh rất lạc quan về tình thế hiện tại, hầu như quên mất thái độ đè dặt vừa qua:
- Tất cả mộng ước của chúng ta sẽ đạt được hết. Chẳng những thống nhất và độc lập mà tất cả các nước Đồng minh sẽ công khai chấp nhận, mà nhờ sự chấm dứt chiến tranh lẫn sự thất trận của Nhật, hoàn cảnh sẽ giúp ta mở đầu một thể chế đồng nhất, ai cũng như ai để có một tương lai rực rỡ. Toàn dân sẽ hăng say hưởng ứng, đồng lao cộng tác giữ nền độc lập này. Độc lập là hai tiếng thiêng liêng ở đầu óc toàn dân, sẽ là nguồn thiêng tác động. Nay thì cái gì cũng có thể đạt được.
Mặc chiếc vareuse hở cổ, đi dép Bình Trị Thiên, râu cằm lơ thơ, Hồ Chí Minh giống như một ông đồ nho hay một triết nhân, thích ngâm thơ vịnh phú hơn là làm chính trị. Người gầy gò mảnh dẻ, mắt sáng quắc đầy nhiệt tâm, ông có một nhãn lực lôi cuốn vừa đạo mạo, vừa độc đáo. Lời nói cũng chan hòa nhân ái, như bác bỏ mọi bạo động, hận thù. Ông như đã nắm vững được thực tại và nhu cầu của Việt Nam lúc ấy. Ông cũng có một nhận xét sắc bén về tiến trình lịch sử, do sự tự học khá rộng rãi về các thế giới Tây phương, về Nga và Trung Hoa.
Trong câu chuyện dài hơn một giờ ấy, ông kết luận:
- Thưa Ngài, xin Ngài đừng quên rằng Ngài là bậc quốc phu, vì vậy tôi xin Ngài vui lòng tham dự buổi hội họp của Hội đồng Bộ trưởng, và nhận chức Tối cao Cố vấn cho chính phủ.
Lời mời ấy thật bất ngờ đối với tôi. Thật sự, tôi không nghĩ đến hình thức này mà tôi sẽ tham dự để kiến tạo nước Việt Nam mới, nhưng quả thật, ông cụ này đã thành thực hăng say với nền độc lập và thống nhất của đất nước. Tôi nhận lời.
Hội đồng Bộ trưởng họp mỗi tuần một lần. Kể từ ngày 8 tháng 9, tôi dự là lần đầu tiên.
Chúng tôi cùng ngồi xung quanh một chiếc bàn, từng là bàn ăn thết tôi hôm trước. Giáp giới thiệu với tôi từng người. Ông ta là người độc nhất mà tôi biết cùng với Trần Huy Liệu là người tôi đã trao cho ấn tín ở Huế, nay là bộ trưởng bộ Thông tin. Còn những người khác, tôi chưa quen biết: Chu Văn Tấn, bộ trưởng bộ Quốc phòng; Phạm Văn Đồng, bộ trưởng bộ Tài chánh; Nguyễn Mạnh Hà, bộ trưởng bộ Kinh tế; Vũ Trọng Khanh, bộ trưông bộ Tư pháp; Dương Đức Hiền, bộ trưởng bộ Thanh niên; Đào Trọng Kim, bộ trưởng bộ Công chính; Nguyễn Văn Tố, bộ trưởng bộ Xã hội; Phạm Ngọc Thạch, bộ trưởng bộ Y tế; Lê Văn Hiến, bộ trưởng bộ Lao động; Vũ Đình Hòe, bộ trưởng bộ Giáo dục; Cù Huy Cận, và Nguyễn Văn Xuân, bộ trưởng không bộ nào.
Ngoại trừ Phạm Văn Đồng tuổi hơi cao ít nhiều, tất cả đều ở cùng một thế hệ. Giữa họ với nhau, tỏa ra một bầu thân ái, trẻ trung y như một nhóm bạn hữu đã từng quen thân với nhau.
Thực tế, Hội đồng này gồm ba loại.
Loại “tiền phong” bạn chiến đấu kỳ cựu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, như Trần Huy Liệu. Họ đã sống lâu năm ở Nga và Trung Hoa, thường là lén lút và không lạ các nhà tù. Rất ác cảm với Pháp.
Loại thứ hai gồm những người trước gọi là Giáo sư trường Thăng Long, một trường trung học tư thục, mà ban giáo sư tạo thành lớp trí thức cấp tiến về chính trị. Trong số này có Võ Nguyên Giáp. Bọn này có cả đảng viên đảng Cộng sản, được hoạt động công khai dưới thời Chính phủ Bình dân ở Pháp, như Phạm Văn Đồng. Đa số đều xuất thân từ nền văn hóa Pháp, nên không mấy xuất ngoại. Kém hăng say hơn bọn trên, họ đều là ngừời thông minh, có tinh thần cởi mở. Rất chống đối chế độ thức dân, họ hăng say với nền độc lập, nhưng không muốn đoạn tuyệt với Pháp.
Cuối cùng, coi như bọn “liên kết” như Dương Đức Hiền, cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Hà Nội, hay Nguyễn Mạnh Hà, từng chỉ huy Đoàn Thanh niên Thiện chí Công giáo. Đa số đều là những kỹ thuật gia, tốt nghiệp từ các đại học đường của Pháp. Họ thường bất mãn vì không có nhiệm sứ xứng đáng với văn bằng và khả năng của họ.
Hồ Chí Minh chủ tọa, ngồi ở đầu một phía bàn, và mời tôi ngồi đối diện với ông ta ở đầu phía kia.
Buổi họp ban đầu có tôi dự ấy, dành để bàn về thiết lập một Quốc hội Lập hiến. Quốc hội này sẽ được phổ thông đầu phiếu do tất cả công dân Việt Nam, nam cũng như nữ, tuổi từ 18 trở lên. Sẽ có đại biểu của các sắc dân ít người, để bình đẳng với người Kinh.
Trong buổi họp này cũng đề cập đến vấn dề chống nạn mù chữ; mở một phong trào Bình dân Học vụ, dạy về ban tối, để bắt buộc mọi người chưa biết đọc biết viết, phải đi học chữ quốc ngữ.
Về mặt xã hội, đặt ra định lệ, làm ngày tám giờ, định lương tối thiểu, và đặt trách nhiệm đối với giới chủ nhân và tư bản.
Cuối cùng, Hội đồng biểu quyết bãi bỏ thuế thân, gọi là “thuế nô lệ” vì trong lãnh vực kinh tế, có liên can đến một quyết định quan trọng đã được biểu quyết về đầu tháng, tuyên bố cho phép tự do vận chuyển lúa gạo.
Từ đó, trong thời gian tôi ở Hà Nội, từ 9 đến 1 giờ, tôi vẫn dự các Hội đồng Bộ trưởng hàng tuần.
Rất nhanh chóng, tôi nhận xét được như sau:
Dù họ là cựu tù nhân, giáo sư hay kỹ thuật gia, các người cầm đầu chính phủ này chẳng phải là nhân vật chính trị. Đã đành rằng, họ không đến nỗi chân chẳng đến đất, cật chẳng đến trời, để bị mê lú với quyền binh, họ cũng chẳng biết làm cách nào để đặt một kế hoạch cho tương lai đất nước. Họ đành gặp đâu hay đấy. Các cuộc hội họp của chính phủ, giống y như các cuộc hội họp của các sự bàn cãi của tòa thị chính nhiều hơn là sự nghiên cứu đường hướng dự trù về quốc gia đại sự, hay đối phó với những biến chuyển quốc tế. Những người đó cũng biết rằng ảnh hưởng của họ chưa thể vượt khỏi vòng đai các đô thị lớn như Hà Nội, Huế, v.v… Tại chỗ, họ tìm cách để giữ thể điện, để giữ trị an, hầu tỏ quyền năng của họ cho phái đoàn quốc tế đang bắt đầu sang Hà Nội. Than ôi, ở vùng thôn dã, đây quả là một cuộc cách mạng đổ máu và tàn bạo, một sự nhiễu loạn, rối bời.
Những biện pháp đầu tiên đã đưa đến những kết quả tai hại. Mở cửa cấp tốc các nhà tù, các trại giam, hầu nhặt vài cán bộ chính trị, đã thả ra khắp phố phường và hầu như khắp nước, cả một đông cặn bã sẵn sàng làm bậy. Việc thủ tiêu toàn bộ Hội đồng Kỳ mục để thay vào bằng Uy ban Nhân dân, đã đưa đến sự tan rã nền cai trị tự nhiên sẵn có của xã hội. Việc bãi bỏ ngành quan lại, văn và võ, cũng để thay vào bằng một hệ thống cán bộ tương tự, làm tan nát các cơ cấu quốc gia.
Trong hoàn cảnh bất lực thực hiện một nền cách mạng xã hội chân chính, mà toàn dân đều mong muốn, chính phủ đã bở hơi tai để đi tìm một sự đáp ứng tạm thời. Họ chỉ tìm thấy một sự mị dân rẻ tiền và sự động viên cuồng tín, hầu cứu vãn nền độc lập. Vội vàng, họ cố gắng đặt cơ cấu mới. Thế là đưa ra bao nhiêu hội, như hội Phụ lão Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Công nhân Cứu quốc hay đặt ra các đội Tự vệ thành, Dân quân Tự vệ xã, Thanh niên Quyết tử…
Hơn nữa, tôi lại nhận thấy các Bộ trưởng thân cận với Hồ Chí Minh, bọn người thuộc lớp đồng chí lâu năm của ông ta, giữ độc quyền về tất cả guồng máy điều khiển nhân dân. Thí dụ như Trần Huy Liệu, đã nắm trong tay toàn bộ phương tiện tuyên truyền, còn cấu tạo ra một lợi khí nặng nề để củng cố tân chính quyền. Đầu tháng chín, Việt Minh chiếm đài phát thanh Bạch Mai, và trưng thu tất cả các phương tiện về báo chí, ấn loát; từng kho giấy, các nhà in. Nhờ cuộc tảo thanh này, Việt Minh đã có phương tiện để tung ra ở Hà Nội, hai tờ nhật báo, là tờ Cứu Quốc và tờ Độc Lập, và ở Huế, tờ Quyết Chiến.
Dần dà tôi khám phá ra được bộ mặt thật của Hồ Chí Minh.
Một hôm, trong một cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, do sự sôi nổi tranh luận giữa vị Chủ tịch và một bộ trưởng. Vũ Trọng Khanh, bộ trưởng bộ Tư pháp, ngồi ở bên phải tôi, đã chìa ra cho tôi xem một cuốn sách nhỏ, và nói:
- Thưa Ngài, hẳn Ngài đang ngạc nhiên về những phản ứng của Chủ tịch của chúng ta. Xin Ngài đọc đây thì hiểu.
Tôi liền đọc đầu đề cuốn sách Đời của Nguyễn Ái Quốc, do tác giả là A. Marty, chánh mật thám của phủ Toàn quyền Pháp cũ.
- Trong ấy nói gì, tôi hỏi.
Khanh nhìn tôi, và ra dấu bằng đầu để chỉ cho biết Chủ tịch Hồ Chí Minh đang đi ra, vấ sát chỗ chúng tôi ngồi. Hồ Chí Minh nhìn cuốn sách tôi đang cầm, hơi nhún vai, và mỉm cười một cách tinh quái, không nói một lời.
Về đến nơi ở, tôi liền đọc tiểu sử của Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc (người yêu nước) là một trong hàng chục tên, mà ông ta mang trong suốt cuộc đời sôi nổi, trước khi trở thành Hồ Chí Minh (Hồ lãnh tụ sáng suốt). Sanh năm 1890 ở làng Kim Liên, trong vùng thuộc phía Bắc Trung kỳ, gọi là Thanh Nghệ Tĩnh, vốn là ổ của cách mạng, sự học của ông ta khá sơ sài: bốn năm học Quốc Học Huế, ông ta đã thâu nhận được một nền học vấn hỗn hợp Pháp và Nho học. Sau đó học thêm ba năm trường Kỹ nghệ Thực hành ở Sài Gòn. Với hành trang yếu ớt ấy, năm 1911 ông ta lăn mình vào cuộc chinh phục thế giới. Làm phụ bếp cho một chiếe tàu biển của hãng Chargeurs Réunis, tàu này thường đỗ ở các bến thuộc Á châu, Phi châu, Âu châu và Mỹ châu. Sau thế chiến thứ nhất, ông sống ở Luân Đôn, rồi sang Paris. Tại đây, người ta bắt đầu nhắc đến tên ông. Năm 1919, ông đệ trình một luận án theo tinh thần 14 điểm, trong hội nghị ở Versailles, được Tổng thống Wilson chấp nhận, đòi hỏi cho nước Việt Nam được mọi quyền tự do cần thiết.
Thế rồi, trong thời gian ấy, xuất hiện trong tờ báo Le Paria (Kẻ cùng khổ) những bài tố cáo tội ác của chính sách thực dân, ở Phi châu cũng như ở Á châu. Ông ta là tác giả tờ truyền đơn nẩy lửa, nhan đề “Bản án chính sách thuộc địa Pháp”.
Năm 1920, ông gia nhập đảng Cộng sản, đảng này có đề cập đến vấn đề dân tộc thuộc địa. Thế là ông được cử sang Moscou. Sau một thời gian huấn luyện ngắn, ông trở thành cán bộ của đảng Cộng sản Quốc tế (Komintem), cơ quan được Lenin trao phó gieo rắc chủ nghĩa cộng sản, và tạo nhân cách mạng ở mọi nơi trên khắp thế giới do Moscou điều khiển. Được cử sang Viễn Đông, và vùng Đông Nam Á châu, từ năm 1924, ông hoạt động ở Quảng Châu (Canton), làm phụ tá cho Borodine, như là Cố vấn trong tòa Đại sứ Sô viết cạnh Quốc dân đảng Trung Hoa, và là iãnh tụ, sáng lập viên trường Võ bị Hoàng Phố (Whampoa).
Năm 1930, ông lập ra đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó được gọi là đảng Lao động, của giới thợ thuyền. Cuốn sách của A. Marty đến đây là hết. về sau Giáp lại kể cho tôi biết tiếp những hoạt động của Hồ Chí Minh. Về nước vào năm 1941, ông ta ẩn náu ở tỉnh Cao Bằng. Tại đây, ngày 19 tháng 5, ông lập ra Mặt trận Việt Minh, tức là Mặt trận Cách mạng Đồng minh, chiến đấu cho nền độc lập của Việt Nam, và tạo nên căn cứ du kích sau này. Sau đó, ông lại sang Trung Hoa, và bị bắt giam, vừa do người Trung Hoa, vừa do người Anh. Vì ốm nặng nên được tha, đúng vào lúc mà quân đội Nhật đang bị thua, và nhờ cơ quan đặc biệt của Mỹ, để trở về Việt Nam và nhận được quyền hành.
Trong thời gian ở Moscou, Hồ Chí Minh đã ăn ở với một phụ nữ người Nga, và có một đứa con gái, nhưng không bao giờ ông ta nhắc đến thời gian này của đời ông. Rất hiểm khí các đồng chí của ông nhắc đến quá khứ của họ.
Bởi vậy, tôi chưa bao giờ nghe thấy ông Giáp nói đến người vợ ông bị giết, trong một cuộc biểu tình của các sinh viên. Sở dĩ tôi biết được, là do Tạ Quang Bửu, một cộng sự viên cũ của tôi nói. Ông này cũng tiết lộ rằng, Giáp rất đau đớn về cái tang này, và để tâm thù hận người Pháp sâu đậm. Tuy nhiên, để tỏ ra có tâm hồn cao thượng, Giáp làm ra bộ không nuôi một tí hận thu nào đối với Pháp cả.
Sự giao dịch của tôi đối với các “đồng nghiệp” rất là tốt đẹp. Họ cho tôi thuộc cánh của họ. Nếu tôi có gọi họ là “anh,” họ vẫn kêu tôi bằng “Ngài”. Đó là do Hồ Chí Minh đã đòi hỏi họ như vậy. Tôi thường có thân tình giao hảo với Vũ Trọng Khanh, vốn không thuộc đảng Cộng sản, và như vậy hơi lẻ loi riêng biệt. Chúng tôi thường gặp nhau vào ban chiều, và thường nói chuyện với nhau khá lâu. Là người có nhiều thiện chí, ông ta chỉ quan tâm đến hạnh phúc của nhân dân. Những tin từ các tỉnh gửi về làm cho ông buồn rầu không ít. Có thể là tình thế rất đáng lo ngại. Các tỉnh ở miền Bắc Việt Nam bị cô lập gần như hoàn toàn, làm cho mọi sự tiếp tế khó khăn, nên nạn đói hoành hành mạnh mẽ. Bởi vậy, không có gì phải ngạc nhiên, nếu dân chúng có phản ứng ghê gớm. Nhiều cuộc bắt bớ, nhiều chuyện mất tích, và ám sát gần như ở khắp nơi.
Tôi được tin Phạm Quỳnh, cựu thủ tướng của tôi đã bị bắt, rồi đến Ngô Đình Khôi, anh của Ngô Đình Diệm cùng bị bắt với người con trai cả là Ngô Đình Huấn vốn là bí thư của Đại sứ Yokoyama. Tôi đến gặp Hồ Chí Minh để xin can thiệp. Tôi bảo ông ta:
- Tất cả mọi người tìm cách để phụ giúp Cụ, trong đó có tôi là người đầu tiên. Xin Cụ hãy chứng tỏ sự khoan dung đại độ. Khi mới bắt đầu lên nắm chính quyền, Cụ đã thả hết các tù phạm, tất cả các người bị giam cầm. Xin Cụ hãy ra lệnh tha hết các tù nhân bị bắt kể từ ngày ấy đến nay.
- Thưa Ngài, thật khó có thể làm được, vì dân chúng sẽ không thể hiểu nổi.
- Nếu vậy, ít nhất xin Cụ cho thả các cựu cộng sự viên của tôi. Họ không có trách nhiệm gì.
- Vâng, tôi sẽ cố gắng lo việc ấy…
Thật sự, hai người đầu tiên (Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi) đều đã bị giết, mà ông Hồ vẫn không biết một tí gì.
Ít lâu sau, Phan Anh, cựu thượng thư của tôi đến gặp tôi. Ông ta đã tiếp xúc với Léon Pignon. Ông này yêu cầu tôi can thiệp để thả Pierre Messmer. Vị thứ hai này được cử làm thượng sứ Pháp ở Bắc kỳ, nhảy dù xuống bị rơi vào một chiến khu Việt Minh, nên bị bắt cùng với hai đồng hành của ông ta.
Ngay chiều hôm ấy, tôi có nói với Hồ Chí Minh, nhưng không đạt kết quả nào. Sau tôi mới rõ Messmer may mắn đã vượt thoát được, rất khó khăn.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh vẫn cố gắng chinh phục tín nhiệm của tôi. Trong những cuộc gặp gỡ thường xuyên, chỉ có tôi với ông ta, ông vẫn giữ thái độ chỉnh tề, vừa niềm nở vừa lễ độ, gần như nhiễm tình phụ tử. Phải chăng ông ta đã đóng trò, hay là một tác phong quan cách cổ xưa còn tiềm tàng nơi huyết quản? Dù sao nữa, tinh thần hữu nghị của chúng tôi rất hoàn hảo, và trong bất cứ cuộc nói chuyện nào, cũng không bao giờ đá động đến những lý thuyết chính trị này nọ. Ông ta thường mời tôi đi cùng với ông trong mọi cuộc thương thuyết, hay vận động. Chúng tôi đến thăm Jean Sainteny được cử thay Pierre Messmer, ở địa vị thượng sứ Pháp ở Bắc kỳ. Đây là lần độc nhất mà tôi gặp ông này. Sainteny đã viết rằng, sau đó ông ta có yêu cầu được gặp tôi nhiều lần, mà không có trả lời. Các sự yêu cầu này chẳng bao giờ đến tay tôi cả.
Chúng tôi cũng từng đi với nhau đến thăm người Mỹ, và chúng tôi đã gặp một đại diện của họ: Nhân vật đặc biệt Lansdale và Thiếu tá Patti, và về sau cả Tướng Gallagher nữa. Trong những dịp này, tôi mới biết là Hồ Chí Minh nói được tiếng Anh một cách khá sõi.
Trong những dịp tiếp xúc này, tôi thường nhường bước ông trước mặt quan khách. Mỗi lần như thế, tôi đều nói: “Thưa Cụ Chủ tịch, tôi xin mời Cụ, tôi xin theo sau Cụ, vì tôi chỉ là một viên cố vấn mà thôi...”
Ngược lại, nếu chúng tôi cùng đến một cuộc hội họp hay trước đám đông nào, nếu có ai đưa chúng tôi đi, thì bao giờ ông cũng để tôi đi về bên tay phải của ông ta. Tôi liền hiểu được ý nghĩa của sự sắp đặt này. Chính phủ dù có hiện hành, nhưng chưa được Đồng minh công nhận. Sự có mặt của tôi, giúp cho ông ta một hình thức chính thức dùng làm chiếc bình phong gánh đỡ mà thôi.
Đầu tiên, cuộc sống có vẻ bình thản ở Hà Nội. Các nhà báo đặt tiệc ca ngời tôi đã hy sinh ngai vàng vì hạnh phúc của nhân dân. Nhưng tình hình kinh tế bị suy thoái thê thảm. Hàng nghìn người, đàn ông, đàn bà và trẻ con, chết như rạ vì đói, trong khi hàng nghìn tấn gạo mốc thối ra ở Sài Gòn. Vụ lúa tháng mười mất mùa, vì hạn hán, sạu vụ lụt ghê gớm.
Bãi bỏ thuế má, xáo trộn hành chánh làm trống rỗng ngân khố quốc gia. Chính phủ dùng biện pháp lắt léo để cứu vãn tình thế, kêu gọi nhân dân tự động đóng góp, và thi đua ái quốc. Các bộ trưởng và nhân viên cao cấp phải làm gương trước để làm việc không lương. Tôi cũng phải góp phần như họ. Chúng tôi chỉ được ở, còn ăn thì nhờ vào thiện chí của những nhà giàu.
Tuần lễ Vàng được mở ra để mua súng đạn cho binh sĩ của quân đội nhân dân anh hùng. Lần khác, thì là miếng cơm cứu đói, mọi người nhịn ăn một bữa trong tuần lễ để cứu trợ người nghèo. Mặc dù chiến dịch ấy được phổ biến rầm rộ, kết quả cũng không lấy gì làm dồi dào.
Trong một cuộc họp của Hội đồng Bộ trưởng, Phạm Văn Đồng báo cáo, trong ngân quỹ chỉ còn đúng có 3 đồng 25 xu. Trong sự hỗn độn tột cùng, người ta quyết định đánh thuế gián thâu về các hàng ăn. Đó là các hàng hóa cuối cùng còn được đem ra để bán. Thế là mỗi người kể ra, hỗn độn, các sản phẩm có thể đánh thuế:
- Con gà đi…
-. Con vịt đi…
- Con trâu đi…
Không thể nhịn được sự kê khai điên rồ, lố bịch đó, tôi nói tiếp:
- Các anh còn quên con chó…
Người cười đầu tiên là Hồ Chí Minh. Sự riễu cợt của tôi xẹp xuống, vì đa số bộ trưởng đều người miền Trung, nên không ai hiểu nổi câu “miếng dồi chó” của miền Bắc.
Vài hôm sau, Hồ Chí Minh nói tất cả sự khó khăn hiện tại với tôi, và phàn nàn là không được bộ trưởng nào giúp đỡ đắc lực trong công cuộc điều khiển quốc gia. Tôi bảo:
- Sao Cụ không kêu gọi những đồng bào đã từng du học ở Pháp? Họ đã có kinh nghiệm điều khiển quốc gia rất quí báu.
- Tôi không thể tin họ được Ông Hồ đáp. Họ thân Pháp quá độ, và cũng không thành thạo mấy về nội tình ở nước ta, do đã xa cách lâu ngày.
- Cụ nhầm đấy, tôi phản đối. Trong bọn chúng ta đây, chúng ta chống Pháp hơn ai hết. Như Cụ chẳng hạn, Cụ đã sống lâu năm ở ngoại quốc. Vậy mà Cụ rất thấu triệt tâm hồn Việt Nam.
Sự tham gia vào các cuộc bàn cãi quốc gia này, làm tôi nhớ lại các kinh nghiệm cũ của tôi. Tôi lại thấy trở lại cùng một vấn đề, đã từng thảo luận với Ngô Đình Diệm, với Phạm Quỳnh, với Trần Trọng Kim. Thật là những người cao khiết, đầy tinh thần trách nhiệm, rất tài ba, sung mãn, nhiều ý kiến, nhưng chỉ khổ nỗi không có phương tiện để thực hiện quyền hành. Thế mà, các đồng nghiệp của tôi bây giờ, lại chỉ là những nhà lý thuyết suông. Họ ngây thơ đối với tâm lý con người, đến độ không tưởng. Tuy sấp sỉ tuổi của đa số trong bọn họ, kinh nghiệm của tôi về lãnh vực này còn cao lớn gấp bội. Mười lăm năm cầm quyền, đứng đầu chính phủ, tôi đã hiểu thấu bao mưu vọng, ý đồ, bao thủ đoạn khốn nạn đến độ rằng, tôi đi guốc được vào ruột gan của con người, đã hành động vì mục đích gì, chẳng mấy khi sai.