← Quay lại trang sách

Sự xâm nhập của quân đội Trung Hoa

Tất cả đều suy thoái, khi quân Trung Hoa, theo nghị quyết của hội nghị Potsdam vào tiếp thu quân đội Nhật và giữ an ninh, ở bắc vĩ tuyến 16.

Toán quân đầu tiên đến Hà Nội ngày 9 tháng 9 năm 1945. Rất nhanh chóng, đây là một sự tràn ngập rõ rệt. Tổng số có ba quân đoàn, khoảng 80.000 người, không kể bọn tùy viên phụ thuộc, và gia đình họ, đổ xô cả đến Bắc kỳ, như từng đoàn châu chấu. Họ đến để che chở nền độc lập của Việt Nam, nên với tư cách là kẻ chiến thắng. Đối với đoàn quân gồm hầu hết là người Quảng Đông và Vân Nam, Bắc kỳ là một xứ thần tiên. Họ cảm thấy như trở lại thời chinh phạt cổ xưa đến từ phương Bắc, nên có những tác phong khốn kiếp của bọn quí khách loại ấy.

Mới đến ngày 18 tháng 9, Tướng Lư Hán, Tổng tư lệnh, chiếm ngay ngôi dinh thự đường Puginier, và đuổi phái đoàn Sainteny không một hai gì hết. Họ yêu cầu tôi tiếp họ. Hình thức ấy có nghĩa rằng, họ không cần biết đến Hồ Chí Minh là ai. Tôi trả lời rằng, để tôi xin sang gặp họ để chào mừng, còn sự thăm hỏi chính thức thì thuộc phần của Cụ Chủ tịch chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh, mà tôi báo cho biết ngay. Thế là đặt ra một thỏa thuận này: Hồ Chí Minh tiếp Lư Hán trước mặt tôi, trong một tòa biệt thự mới trưng dụng. Như vậy, sự thăm hỏi không còn mang tính chất chính thức nữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng lòng vì ông ta muốn xoa vuốt người Trung Hoa. Báo chí loan đi một thông báo như sau:

“Quân đội Trung Hoa sang đây chỉ để giải giới quân đội Nhật, không có ý đồ xâm phạm đến chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta nên tiếp đón họ nồng hậu để tỏ cảm tình giữa hai dân tộc Việt và Hoa”.

Chẳng ai lạ gì nhau cả. Một mặt, người Trung Hoa thừa biết thành tích chính trị cũ của ông Hồ, nên không muốn ở phía sau lưng họ có một chính thể cộng sản. Họ vừa phải đương đầu sinh tử ở phía Bắc đối với Mao Trạch Đông. Mặt khác, việc tước khí giới quân đội Nhật chỉ là mối quan tâm phụ, họ chú trọng đầu tiên vào vấn đề kinh tế. Và nếu ai đã biết cái tài vơ vét của các tướng Tàu, thì mới hiểu dễ dàng những tai hại ở Việt Nam trong sự tạm bợ chiếm đóng này. Có dụng ý muốn bám chặt, các ông bạn quí Trung Hoa muốn dùng hình thức gây rối loạn ở Hà Nội và trên khắp đất nước. Đầu tiên, họ không đếm xỉa đến những nhân vật dân sự. Vì vậy, ta thường thấy những tù binh quân sự Nhật, giả làm thường dân, đi khơi khơi ngoài đường phố. Nhiều chuyên gia Nhật, lấy ra từ các trại giam, để sung vào các đội ngũ Tàu, vì thiếu kỹ thuật gia.

Quan trọng hơn nữa, họ can thiệp vào nội tình chính trị Việt Nam. Kéo theo quân đội Tàu, từng đoàn đảng viên quốc gia, bị cách mạng ruồng bỏ, chạy theo quân Quốc dân đảng Tàu. Đây là các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng và Đồng minh hội muốn lợi dựng thời cơ để chiếm thế thượng phong. Được bọn tướng lãnh và cơ quan tình báo Tàu do Tiêu Văn lãnh đạo nâng đỡ các nhà cách mạng quốc gia vội vàng tước khí giới và thay thế các Uy ban Nhân dân thôn xã, do Hồ Chí Minh đặt ra. Tại các thành phố, hai phe Việt Minh và Việt Nam Quốc Dân Đảng thường đụng độ nhau. Được Tiêu Văn nâng đỡ, một nhóm biểu tình đã đến nơi ở của tôi để yêu cầu tôi ra chấp chính. Nhiều đám tàn quân Nhật, không chịu khuất phục là đã bị thua trận, tự nguyện đặt dưới quyền tôi, để lập đường hướng khác đấu tranh cho nền độc lập quốc gia.

Trước tất cả những đề nghị đó, tôi giữ thản nhiên, để từ chối.

Nhưng hoàn cảnh mỗi ngày một khó khăn cho Hồ Chí Minh. Tự cảm thấy bất an, ông ta thay đổi chỗ ở hàng đêm, để ngủ ở những ngôi nhà trưng dụng rải rác khắp trong thành phố. Ông ta vẫn đặt tín nhiệm hoàn toàn nơi tôi, và chỉ riêng một mình tôi biết được chỗ ngủ của ông ta. Ông tỏ ra lo ngại rất nhiều vào sự an ninh của tôi, hơn chính cả tôi nữa.

Một buổi tối, trong khi chúng tôi đang trò chuyện đến một giờ khuya, có sự lộn xộn ở cạnh ngôi nhà này. Đặc biệt, tôi cho người tài xế và chiếc xe của tôi đi trước, rồi tôi bảo ông Hồ:

- Khuya rồi, xin lỗi Cụ, tôi xin về nhà. Tôi sẽ tìm một chiếc xe tay để đi.

- Ấy chớ, rất nguy hiểm cho Ngài. Để tôi báo cho quân đội Tàu đem xe đến đây đón Ngài, them xe hộ tống nữa cho chắc.

Đối với sức khỏe cũng như sự giao du của tôi cũng vậy. Một lần tôi bị cảm không đến được, chính ông đã đến thăm và xem cách thức chữa trị cho tôi ra sao. Biết rằng tôi thường hay đến ăn cơm tối ở nhà một số bạn hữu, ông khuyên tôi một cách rất ưu ái, nên cẩn thận về vấn đề nam nữ, mà tôi có thể bị vướng mắc.

Thấy dân chúng kính yêu tôi, ông cảm thấy rằng săn sóc chiều đãi tôi có lợi cho ông nhiều lắm. Ông cho rằng ở Việt Nám, sự cầm quyền bao giờ cũng cần phải được tấn phong. Cách mạng Việt Minh cũng không dám phá bỏ khái niệm này, vì nó đã ăn sâu sát rễ vào đầu óc dân chúng từ lâu. Sự có mặt của tôi bên cạnh Chủ tịch là một hình thức tấn phong vĩnh viễn trước mắt nhân dân Việt Nam. Người Tàu, người Mỹ cũng không dám coi thường mối tương quan này được.

Tôi cũng không lạ gì thái độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tôi. Hơn nữa, tôi cũng nhận thấy rằng, khi người ta càng săn sóc mình, càng thân cận với mình bao nhiêu, người ta càng ngờ vực bấy nhiêu. Nhưng tôi cũng không thấy ló ra sự cứng rắn, tàn bạo nào của ông, rồi sẽ được thực hiện sau này. Bởi vậy, tôi vẫn yên chí đóng vai trò của mình.

Đây, người ông đây. Người ấy rất lo lắng cho nền độc lập của quốc gia. Những quan điểm của ông ta giống của tôi như hệt. Vậy thì cần gì biết đến quá khứ, đến phương tiện, bởi thế tôi rất thành thực phù trợ ông ta.

Hơn nữa, tôi củng nhận xét tất cả. Tôi thích thái độ của ông hơn thái độ của các lãnh tụ quốc gia, thật sự là, bù nhìn trong tay bọn Tàu. Giữa sự xáo trộn ấy, Hồ Chí Minh vẫn giữ được bình tĩnh.

Một buổi chiều, ông ta bảo tôi:

- Thưa Ngài, tôi rất thất vọng về thái độ của Đồng Minh. Tôi nghĩ rằng mình được ưu đãi hơn, nếu gặp người Nga. Thế nhưng, họ lại chẳng làm gì được cho mình. Họ cũng chẳng phái đến đây một quan sát viên nào cả. Họ dửng dưng hoàn toàn trước vấn đề Đông Dương. Còn đối với người Anh, thái độ thật đáng ngờ. Họ thiên về Pháp rõ rệt, và đang giúp bọn này loại trừ tất cả các chiến hữu đang chiến đấu giành độc lập cho chúng ta. Người Mỹ thì Ngài đã nhận thấy như tôi rồi. Khi tôi từ Tàu trở về, đại diện của họ đã hứa hẹn, dặn tôi bao điều đảm bảo. Để chiều lòng họ, tôi đã đặt vào câu đầu của bản tuyên ngôn độc lập, nguyên văn lời tuyên ngôn độc lập của họ, do Jefferson viết năm 1776. Nhưng chúng ta đã gặt hái được gì? Chẳng được tí gì. Điều quan tâm duy nhất của họ là được thay thế người Pháp, vì thế họ đâm găng nhau với người Tàu. Gallagher chấp nhận làm trung gian giữa ta với Bộ Ngoại giao của họ, và sẵn sàng đưa giúp chúng ta những điều yêu sách. Nhưng ông ta lại cần kinh tế ta phải lệ thuộc vào kinh tế Mỹ. Đó là bọn tư bản, tư bản từ trong máu mà ra. Đối với họ, chỉ có đầu tư, đô-la là đáng kể… Một bữa, chúng tôi nhận thấy có một phái đoàn điều tra tội ác chiến tranh của họ, sang đây để thăm tù binh Nhật, lại chú trọng vào các trang bị cửa bể Hải Phòng nhiều hơn là tội ác của bọn An bộ đội. Còn bọn Tàu thì… Nước Tàu là cái bụng kinh niên. Bọn Quốc Dân Đảng là bọn lưu manh, bọn ăn cắp. Các ông tướng Tàu phù là lũ cú vọ, kền kền… Chẳng bao giờ thỏa mãn lòng tham không đáy. Chẳng có gì làm cho chúng ta tin tưởng được. Chỉ có một tên trong bọn chúng là có thể dùng được. Đó là Tiêu Văn, nó làm tiền mình khiếp quá. Nhưng tôi tin rằng nó cũng hiểu mình đang khao khát cái gì, và sự toa rập của nó có thể giúp ích cho mình được. Thế nhưng tôi vẫn chưa tin hẳn, bởi biết đâu nó không trở mặt lúc nào. Khi mới sang đây, nó đóng vai ủng hộ Việt Nam Quốc Dân Đảng hết mình, bây giờ thì nó lại mỉm cười cầu tài với mình. Vậy ngày mai, thì nó đi với ai đây?

Vậy thì suy đi tính lại, chỉ còn Pháp…

Tôi không khỏi ngạc nhiên về luận lý này, nhưng quả đã hợp lý. Trong lập trường thực tế, Hồ Chí Minh còn tỏ ra có khả năng biết dung hòa.

Ở Việt Nam, người Công giáo dù ở vị trí thiểu số, vẫn tạo nên một lực lượng đáng kể. Hai triệu tín đồ đã quây quần chắc nịch bên các linh mục của họ. Họ tạo nên một yếu tố quan trọng, có trật tự và đoàn kết vững chãi. Tuy ông Hồ có lập trường vô thần nhiều khi đến độ bài giáo, ông ta cũng không dám lơ là với khôi này, để hãm bớt sự hăng say quá đà của cách mạng. Đầu tiên, Hồ Chí Minh tìm sự hỗ trợ nơi họ. Không phải là không có dụng ý mà ông ta ẩn định ngày lễ Độc lập vào ngày 2 tháng 9 là ngày kỷ niệm các Thánh tử vì đạo của bên Công giáo Việt Nam. Cũng do sự quan tâm ấy, ông ta đã bổ nhiệm một người có ảnh hưởng lớn lao của phe này là Nguyễn Mạnh Hà làm bộ trưởng. Ông này từng du học ở Pháp về, hoạt động về mặt xã hội ở Pháp, và lấy con gái của Georges Maranne, một nghị sĩ Cộng sản ở hạt Seine. Nguyễn Mạnh Hà về nước, vẫn hoạt động trong khối Công giáo và trở thành một lãnh tụ của đoàn thanh niên Công giáo. Ông ta kính trọng và khâm phục Hồ Chí Minh thật sự. Ông ta tin rằng Hồ Chí Minh là người duy nhất có thể dẫn dắt thanh niên Việt Nam. Rất trung kiên, ông ta đi theo phò ông Hồ, và kéo theo sau cả đoàn thanh niên đầy nhiệt huyết.

Ngày 23 tháng 9, ông ta đã tổ chức một cuộc biểu tình lớn, tập trung hàng ngàn thanh niên Công giáo để biểu dương tinh thần ái quốc, và lòng tin tưởng đối với ông Hồ. Trong buổi lễ, Hồ Chí Minh tuyên bố:

- Người Công giáo Việt Nam phải chứng tỏ lòng ái quốc nhiệt thành của họ. Chẳng những đó là quyền yêu nước của họ, mà còn là bổn phận, họ phải đứng hàng đầu trong cuộc chiến, giữ trung thành với Đức Thiên Chúa và Tổ quốc của mình.

Sau cuộc biểụ tình này, Giám mục Nguyễn Bá Tòng đã gửỉ một kiên nghị lên Giáo hoàng Pie XII, để xin Ngài làm phép thánh của Công giáo và sự ấn tứ của Tòa Thánh cho nền độc lập của Việt Nam.

Vài hôm sau, chính phủ ra nghị quyết trừng phạt nặng nề tất cả kẻ nào xâm phạm đến các nơi thờ phượng, nhà thờ và chùa chiền.

Chính trong bầu không khí ấy, Giáo hội sửa soạn lễ tấn phong cử Đức Cha Lê Hữu Từ, vừa được làm Giám mục địa phận Phát Diệm. Ông Hồ Chí Minh đã yêu cầu tôi thay mặt ông ta đến dự lễ này. Đúng vậy, vì ngày 28 tháng 9, ông ta bận tiếp Tướng Lư Hán, để chính thức nhận lễ đầu hàng của quân đội Nhật.

Nhưng tối hôm trước tôi đi Phát Diệm, Hồ Chí Minh căn dặn:

- Thưa Ngài, người Pháp đang tiêu hao lực lượng kháng chiến ở Nam bộ. Họ sẽ không chậm trễ dời bỏ nơi đây. Cần nhất phải cố tránh chớ nên để họ nắm được. Ngài là người độc nhất tượng trưng cho nước Việt Nam độc lập. Xin Ngài lợi dụng cơ hội này thay dổi ở Phát Diệm để đi xa khỏi Hà Nội. Xin Ngài nên đứng ngoài bất cứ hoạt động công khai nào ở đây. Ngài nên tạm ngụ ở nơi nào biệt lập một thời gian, mà sự an ninh cho Ngài được bảo đảm dễ dàng. Khi nào mà sự trở về của Ngài có thể được vững chắc và không còn bị đe dọa nữa, tôi sẽ báo sau. Trong khi chờ đợi, tôi xin báo tin thường xuyên để Ngài biết.

- Thế nhưng còn Cụ?

- Ồ, đối với tôi ư, đường lối đã được vạch rồi, ông ta chỉ nói có vậy.

Ngày hôm sau, tôi đi Phát Diệm, cùng với Giáp, bộ trưởng bộ Nội vụ. Giám mục Lê Hữu Từ, thuộc dòng tu khổ hạnh, là một nhân vật lạ lùng. Người nhỏ bé, rất khẳng khiu, bận chiếc áo nhà tu mầu trắng, ông có đôi mắt rất sắc, trên đôi gò má cao. Trong tu viện, ông được tiếng là một nhà trị an có tài, và đầy thủ đoạn trong mọi sự hòa giải hay điều đình. Buổi lễ do Đức Cha Nguyễn Bá Tòng, Giám mục Hà Nội, chủ tọa, có Giám mục Bùi Chu, đã được tổ chức trước công chúng, họ tỏ ra rất tôn kính đối với tôi. Giáp đi với tôi, tỏ vẻ ngạc nhiên hết sức. Nhưng chúng tôi quả đã sống những giờ phút lạ lùng… Ông ta chả được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho nhiệm vụ, yêu cầu vị tân Giám mục này, làm Cố vấn tôn giáo của chính phủ đấy ư? Nhiệm vụ mà Cha Lê Hữu Từ sốt sắng nhận lời…

Khi buổi lễ chấm dứt, Giáp trở về Hà Nội, còn tôi thì ra Sầm Sơn, là nơi nghỉ mát của tỉnh Thanh Hóa. Đường đi ra bể, tôi đến một làng tôi đã từng đến, trong cuộc đu lịch lần trước tiếc thay chiếc cầu bị gẫy, tôi không thể đi tiếp được. Tôi cho vời viên chủ tịch xã. Ông ta tới, và cúi gập mình xuống để chào mừng tôi, không dám ngửng đầu lên. Đó là sự tôn kính tuyệt vời. Đối với ông ta, tôi vẫn là Thiện Tử. “Ông hãy bảo tu sửa lại chiếc cầu này ngay, để tôi có thể đi qua”. Tôi bảo ông ta thế. Chỉ một giờ sau, cái vũng nước này được lấp ngay. Tất cả làng đã ở đây, tụ tập để xem công tác lấp đất này. Đến lúc tôi chuẩn bị bước lên xe, viên chủ tịch đến gần tôi, cúi xuống thưa:

- Thưa Ngài, xin Ngài cho biết chúng tôi có được phép hoan hô “Hồ Chí Minh muôn năm” không ạ?

Hơi ngạc nhiên, tôi mỉm cười đồng ý cho phép. Thế là cả làng, tụ tập quanh viên xã ủy đã chào từ biệt tôi bằng tiếng hô vang dậy: “Hồ Chí Minh muôn năm”.

Đến chiều, tôi đến Sầm Sơn. Tôi được Uỷ ban Nhân dân đã nhận được chỉ thị tiếp đón.

Một bãi bể rất đẹp, có cát mịn, nằm bên một rừng phi lao, với những nhà lầu, biệt thự, ở một làng đánh cá, tạo nên một nơi nghỉ mát thật hữu tình, trước kia rất đông du khách về mùa hè, nay thì vắng tanh vắng ngắt.

Khi tôi đến, viên chủ tịch địa phương hỏi tôi thích ngụ ở nhà nào. Tôi đã nghe nói đến chiếc biệt thự của ông Beau, chủ cửa hàng trang sức nổi tiếng ở Hà Nội. Tôi đến đây cư ngụ. Căn biệt thự gần như bỏ hoang. Chỉ có vài người đánh cá ở trong đó, họ trở thành bạn thiết với tôi.

Người tài xế cũng ở chung nhà, và Uỷ ban sở tại đã đặt nửa tiểu đội dân quân luân phiên bảo vệ. Uỷ ban phụ trách cung cấp gạo, còn đồ ăn, thì tôi phải lo liệu lấy. Công việc hàng đầu của tôi là đi câu cá hàng ngày.

Ngược với điều hứa của Hồ Chí Minh, chẳng có tin nào từ Hà Nội đến với tôi cả. Tôi có cảm tưởng ngay rằng, không phải mình bị giam tù, bởi còn được tự do đi lại, và sử dụng thời gian muốn gì tùy ý, nhưng là kẻ bị đi đầy. Trừ mấy người đánh cá mà tôi quen biết, bọn dân quân gác tôi thì chẳng biết gì, và viên bí thư của Uỷ ban Nhân dân thường đến thăm tôi, tôi chẳng còn biết đến ai nữa.

Đến cuối tháng 11, tôi bị sốt rét, mất nhiều ngày. Đây là lần bị bệnh nặng nhất mà tôi mắc phải. Tôi chưa khỏi hẳn, thì viên Chủ tịch Uỷ ban đến báo cho tôi biết chỉ thị mới mà ông ta nhận được về tôi:

- Thưa Ngài, chính phủ vừa báo cho biết là sợ rằng quân Pháp sắp đổ bộ, nên xin Ngài tạm lánh vào phía trong, sâu hơn nữa.

Ngay ngày hôm ấy, tôi vào huyện Thọ Xuân ở sâu vào phía trong, trên con đường từ Thanh Hóa đi Hòa Bình. Tôi được đưa đến ở trong ngôi công đường đổ nát của huyện cũ. Viên chủ tịch địa phương săn sóc tôi từng ly từng tí. Và ở đây, tôi cũng nhận thấy, mặc dù ảnh hưởng của cách mạng, dĩ vãng của hoàng triều vẫn còn sâu đậm. Uỷ ban sở tại này do úy ban tỉnh Thanh Hóa chỉ định. Những con người mộc mạc này đã cổ gắng chứng tỏ cho vị cố vẩn tối cao của chính phủ, sự triệt để tuân theo lệnh của tân chính quyền; vì vậy, họ thi đua đi họp, dự mít tinh, hay biểu dương lực lượng mỗi khi có dịp, để tha hồ mà kêu gào đả đảo bọn “thực dân, phong kiến”. Đồng thời, họ cũng không nén đi lòng tôn quân của họ đối với Cựu hoàng, và lấy làm hãnh diện được tiếp rước tôi, và được tôi cư ngụ trong địa hạt của họ… Chắc chắn họ đã được lệnh của Hà Nội, để vừa giữ được niềm tin vào cách mạng, vừa giữ được phong tục cố hữu ngàn xưa.

Bởi thế, sáng nào họ cũng mang thức ăn sáng đến cho tôi với một niềm trịnh trọng vô biên. Đám rước mang thức ăn được một người vác hương dẫn đầu, y như trong một buổi tế ở triều đình. Thật cũng khá khôi hài.

Tôi được biết cách Thọ Xuân vài quãng, có ngôi đền thờ nhà Lê. Tôi ngỏ ý muốn đến thăm. Viên chủ tịch xin tự đi trước dẫn đường, và khi tôi đến gần ngôi đền, ông ta đứng ngoài xa, để tôi vào một mình, theo đúng như lễ nghi của triều đình vậy.

Sau đó ba tuần lễ, có lẽ sự đe dọa đổ bộ của quân Pháp đã hết, nên người ta lại đưa tôi về Sầm Sơn.

Trong thời gian tôi vắng mặt ít lâu này, một đội dân quân tự vệ khác được thành lập trong huyện. Theo truyền thống quí hóa, họ đã vơ vét sạch cả. Tôi thấy căn nhà của ông Beau bị lục soát hoàn toàn trống rỗng. Thấy tin tôi về, họ vội bỏ chạy thật nhanh. Bọn tự vệ là bọn thiếu niên, tưởng rằng vào tự vệ là được tự do thỏa mãn mọi thú tính của chúng. Chúng thường tránh thoát mọi sự kiểm soát của chính phủ, trong thực tế. Việc tuyển mộ chúng quá sơ sài, vì vậy, chúng thường chơi những trò tinh nghịch ngu xuẩn, ngông cuồng của tuổi trẻ khi chúng không được ai coi sóc.

Một sự làm tôi ngạe nhiên không ít. Giữ an ninh cho tôi bây giờ là bốn chị nữ dân quân do Uỷ ban cử đến. Hôm đầu tiên, họ vận đồng phục, nhưng kể từ hôm sau, họ vận quần áo phụ nữ bó sát vào người. Trong suốt thời gian tôi ở Sầm Sơn, họ thay nhau làm việc nội trợ và nấu bếp. Nhưng tôi vẫn phải lo phần đồ ăn, nên phải đi câu cá hàng ngày.

Tôi không có tin tức gì từ Hà Nội, nên cảm thấy thời gian quá lâu. Tôi phàn nàn với viên trưởng ty Công an tỉnh Thanh Hóa, khi đến thăm. Nhân dịp này, tôi cũng báo cho ông ta biết những sự thiệt hại do bọn tự vệ gây nên. Ông ta liền trao cho tôi một khẩu tiểu liên để tự vệ nếu cần.

Vài hôm sau, vào giữa tháng chạp tây, tôi được một viên đại biểu của Uỷ ban tỉnh Thanh Hóa tới thăm. Nhân danh chính phủ, ông ta hỏi tôi có chấp nhận ứng cử dân biểu tỉnh Thanh Hóa. Tôi đồng ý về nguyên tắc, nhưng nhắc lại sự mong muốn của tôi là được trở về Hà Nội. Ông ta mới đặt câu hỏi cho tôi như sau:

- Thưa Ngài, nếu Ngài ứng cử thì Ngài sẽ đứng dưới đoàn thể nào ạ?

- Đảng Cộng sản, tôi đáp có nhiễm chút khôi hài trước câu nói ấy.

- Thưa Ngài, không thể được ạ, ông ta trả lời tôi một cách rất trang nghiêm. Đảng Cộng sản đã tự giải tán do quyết định của Uỷ ban Trung ương ngày 11 tháng 11 rồi.

Tôi chẳng biết gì, cũng như mù mịt tất cả mọi vấn đề ở Hà Nội từ ngày tôi lánh đi.

- Nếu thế, thì hãy đề tên tôi là ứng cử viên cộng hòa hạng nặng.

Trong ba tuần lễ liên tiếp, tôi không nghe thấy ai nói gì cả. Đùng một cái, ngày 7 tháng giêng, một phái đoàn đến báo cho tôi biết, cuộc bầu cử vào Quốc hội đã hoàn tất hôm trước, và tôi trúng cử đại biểu tình Thanh Hóa với 92% số thăm. Họ mừng tôi đã đắc cử. Nên nhớ rằng, tôi cũng chẳng biết ngày giờ bầu, và tôi cũng chẳng đi bầu…

Nhưng nay thì tôi đã đắc cử rồi. Tôi yêu cầu họ báo cho Uỷ ban tỉnh Thanh Hóa là tôi muốn chóng được về Hà Nội, và dặn họ đổ xăng đầy đủ cho chiếc xe của tôi.

Tám hôm sau, tất cả đều được thuận buồm xuôi gió, và tôi rời bỏ Sầm Sơn, với sự thơ thới hân hoan.