← Quay lại trang sách

Kêu gọi và giáo đầu 1947

Kể từ đầu năm 1947, nhiều nhân vật liên tiếp kéo đến Đông Dương. Những nhận xét của họ nhiều khi trái ngược hẳn nhau. Như Tướng Leclerc được cử đến quan sát, đã tuyên bố khi đi qua Sài Gòn: “Vấn đề chống cộng là một chiếc đòn bẩy rất mạnh, nhưng chưa có chỗ tựa, còn kéo dài chờ đợi đến khi nào có thực lực quốc gia”. Ngược lại, Marius Moutet, bộ trưởng Bộ Thuộc địa, vốn thuộc đảng xã hội, cũng được cử đến quan sát, khi trở về đã xác nhận rằng, chỉ có điều đình trở lại với Việt Minh được mà thôi.

Nhờ một số tả hữu bên cạnh, nay tôi đã biết tất cả mọi diễn biến xảy ra ở Việt Nam cũng như ở Paris, thêm một số nơi khác, mà họ đem đến cho tôi hàng ngày, từ phía này hay phía kia, các lời tuyên bố lúc nào cũng nẩy lửa và mâu thuẫn.

Tôi cũng biết rằng Đô đốc Thierry D’Argenlieu, sau nhiều lần tiếp xúc với các nhân vật quốc gia như Ngô Đình Diệm, Nguyễn Mạnh Hà và Hoàng Xuân Hân, đã viết một tờ trình gửi lên chính phủ Pháp ngày 14 tháng giêng, trong đó ông ta không ngần ngừ gì mà đưa ra giải pháp “trở lại nền quân chủ cố hữu...” Nhận định ấy được hai nhân vật phụ tá ông ta là ông Pignon và Torel nhiệt liệt tán thành.

Tại Pháp, lúc ấy chính phủ Ramadier vừa thay thế chính phủ của Léon Blum, và ra lời tuyên bố được đọc trước Quốc hội ngày 21 tháng giêng, có câu như sau: “Nước Pháp sẵn sàng thực hiện sự thống nhất ba kỳ ở Việt Nam, nếu đó là ý kiến chung của tất cả nhân dân Việt Nam, và công nhận nền độc lập của Việt Nam nằm trong Liên hiệp Pháp và trong Liên bang Đông Dương”.

Tôi đã sưu tầm được bản Hiến pháp mới của nước Pháp, được Quốc hội bỏ phiếu ngày 27 tháng 10 năm 1946, đặt nền tảng về Liên hiệp Pháp mà sau đó người ta bàn tán rất nhiều. Theo bản này, đã có sự thu hẹp đối với điều mong muốn cửa tôi. Bản tuyên bố của tân chính phủ có một câu chứng tỏ sự bất nhất, mập mờ và mâu thuẫn ngay với câu đầu: “Chúng tôi sẵn sàng điều đình với nhà đại diện chính thức và có tư cách của quốc gia”. Không có gì rõ ràng hơn.

Có lẽ để tỏ thiện chí, viên Cao ủy Pháp đã công bố ngày 1 tháng 2, một sắc lệnh trao trả quyền hành cho chính phủ Nam kỳ, do Bác sĩ Lê Văn Hoạch, thay thế Bác sĩ Thinh, cầm đầu. Nhưng những biện pháp ấy, chỉ có trên nguyên tắc.

Đầu tháng hai, Giáo trở lại Hong Kong. Ông ta báo cho tôi biết về tin tức gia đình tôi, đang trú ẩn tại tu viện của các Cha người Canada ở Huế. Kinh đô Huế cũng trải qua những ngày ghê gớm. Trong một tháng rưỡi, trại binh Pháp bị bọn tự vệ vây chặt kể từ chiều ngàỵ 19 tháng chạp. Hoàng hậu và các con chúng tôi phải rời biệt thự để tránh khỏi bị bắt cóc.

Còn về hoàng cung, thì bị cướp sạch. Nhiều cung điện bị tàn phá. Hai cầu trên sông Hương, và chiếc cầu trên đường quan lộ, và đường xe lửa bị phá hủy. Tôi không hiểu lý do sự tàn phá này, ngờ rằng đây là do những người làm cách mạng muốn trở về thời cổ lỗ tiêu sơ cũ.

Ở Sài Gòn, Giáo đến gặp Thierry D’Argenlieu, khi ông này biết là đang ở với tôi, nên cho vời Đô đốc hỏi về hoàn cảnh của tôi cũng như về ý định. Trong dịp nói chuyện, viên Cao ủy Pháp đã tỏ ra thất vọng về giải pháp của Hồ Chí Minh. Giáo cũng đoan với tôi rằng, cuộc nói chuyện chỉ có vậy.

Tuy nhiên, nhiều lần, ông ta luôn nhắc tôi:

- Trong bản tuyên ngôn ngày 21 tháng giêng, chính phủ Pháp đã lưu ý là sẵn sàng thực hiện thống nhất ba kỳ, và không phản đối nền độc lập của Việt Nam trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp và trong Liên bang Đông Dương…

Qua câu nói đó, tôi cảm thấy người Pháp đã rỉ tai Giáo, khi ông này ở Sài Gòn. Ông nay chỉ học thuộc lòng câu ấy mà thôi. Vì vậy tôi đáp:

- Đừng tin như vậy, Giáo. Chính phủ ba thành phần của Pháp hiện nay còn lâu mới thực hiện được mọi chuyện dễ dàng. Phe thì trung thành ủng hộ Hồ Chí Minh, phe thì chống lại do vụ 19 tháng chạp. Còn phe cuối cùng, thì sẵn sàng điều đình với cả mọi người không bỏ ai, trong ván bài chính trị ở nước ta. Như thế là giải pháp không thể thực hiện được.

Đô đốc D’Argenlieu được gọi về Paris. Ngày 5 tháng 3, ông Emile Bollaert được cử làm Cao uy Pháp ở Đông Dương. Một cuộc bàn cãi sôi nổi đã xảy ra ở Quốc hội ngày 11, ngày 14, ngày 18 và ngày 20 tháng 3. Ông Ramadier nhắc lại những điều khoản của bản tuyên ngôn ngày 21 tháng giêng:

- Độc lập trong Liên hiệp Pháp có nghĩa là có quyền tự cai trị lấy, có quyền điềũ khiển nội bộ một cách dân chủ, có quỵền thành lập và lựa chọn chính phủ, có quyền đặt thể chế mà nhân dân Việt Nam mong muốn như ý nguyện ấy. Tôi cũng nói rằng thống nhất ba kỳ, nếu tất cả các dân tộc Việt Nam đều mong muốn, và tôi cần nhắc lại là: Theo hình thức mà họ mong muốn…

Và thủ tướng nhấn mạnh đến những khoản được ghi nhận trong bản hiến pháp được tu chính lại ngày tháng 10 năm 1946:

- Ngoại giao và quốc phòng chung cho tất cả các quốc gia trong khối Liên hiệp Pháp, và Cộng hòa Pháp quốc, vì quyền lợi chung, chịu trách nhiệm điều khiển…

Ông ta giải thích thêm nữa rằng:

- Ngày nay không còn phải bận tâm đến thoả ước ngày mùng 6 tháng 3. Sự đó chỉ nằm trong khuôn khổ của bản Hiến pháp nội bộ của chúng tôi, và chỉ dùng để có thể tạo dựng được một cơ cấu hữu hiệu… Với ai đây? Chúng tôi xin miễn nêu danh, ông bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại cũng như tôi, chúng tôi không đọc đến tên ai, và chúng tôi cũng không thể đọc được tên ai, vì đang có một tẩm màn che khuất các diễn biến ở Việt Nam… Chắc chắn đã có những kẻ tội phạm. Họ là ai? Đó là câu hỏi đầu tiên vậy. Dù sao nữa, chúng tôi không thể bảo rằng dân chúng Việt Nam là kẻ tội phạm. Chúng tôi giơ tay ra đón họ, và sẵn sàng hiến cho họ nền tự do. Vậy thì chỉ có dân tộc Việt Nam chứ không phải chúng tôi, chỉ có dân chúng Việt Nam tự tìm lấy lãnh tụ của mình, họ được tự do tìm kiếm, không bị chúng tôi hay bất cứ ai dùng khủng bố mà bắt buộc họ được. Chúng tôi sẽ nghiêng mình trước sự lựa chọn của họ, vi chúng tôi tin rằng như vậy chúng tôi sẽ được bảo đảm hơn trong sự điều đình, hơn là điều đình kiểu tạp nham, để không thể thỏa mãn được nguyện vọng đích thực của dân chúng.

Câu cuối cùng này, phải chăng là câu chống đối với định kiến của Đô đốc D’Argenlieu đối với tôi? Tôi có quyền nghĩ như vậy. Và cũng chẳng phải chỉ có mình tôi nghĩ như vậy… Ngày 21 tháng 3, Hồ Chí Minh tự chiến khu bí mật, cũng lên tiếng phản đối:

- Một lần nữa, chúng tôi tuyên bố long trọng rằng dân tộc Việt Nam chỉ có một điều… mong ước là nền thống nhất và độc lập nằm trong Liên hiệp Pháp và chúng tôi cam kết tôn trọng quyền lợi kinh tế và văn hóa Pháp ở Việt Nam. Nước Pháp chỉ cần tuyên bố một chữ là lập tức sẽ ngưng ngay các hận thù, hầu cứu vãn rất nhiều sinh mạng và nối lại tình hữu nghị và lòng tín nhiệm. Nếu bỏ mặc sự thành thực và tha thiết mong muốn hòa bình của chúng tôi, người Pháp vẫn cứ muốn tiếp tục chiến tranh, thì họ sẽ mất hết, không được tí gì, bởi chiến tranh sẽ chỉ đưa đến sự căm hờn, thù hận giữa hai dân tộc…

Một thông tín viên hãng United Press hỏi tôi về lời tuyên bố này:

- Thưa Ngài, với địa vị là cố vấn tối cao chính phủ Hồ Chí Minh, Ngài có nhận lãnh đạo phái đoàn điều đình hay không?

- Không, tôi không nhận điều đình với tư cách cố vấn tối cao…

Câu trả lời ấy có vẻ mập mờ, nên đã được người ta bàn tán xôn xao. Trước mắt quần chúng, quả nhiên tôi vẫn là cố vấn tối cao. Đó là một lá bài mà tôi chưa muốn từ bỏ, nhưng tôi đã quyết định dứt khoát cắt đứt với bọn người đã làm đổ máu, và muốn thắng ở chỗ mà họ đã thất bại.

Nhất là có nhiều xu hướng đang thành lập. Như đại hội Mặt trận Quốc gia Liên hiệp họp ở Quảng Châu, dưới sự bảo trợ của các tướng quân phiệt Trung Hoa, miền Nam, những nhà ái quốc quốc gia Việt Nam lưu vong sang Tàu: Cao Đài, Hòa Hảo, dân chủ xã hội, thanh niên quốc gia, đã họp và đi đến quyết định thành lập “Mặt trận Quốc gia Dân tộc chống Cộng sản” và các lãnh tụ của mặt trận này tuyên bố sẽ đặt dưới quyền điều khiển của tôi.

Ngày 1 tháng 4, vị tân Cao ủy Bollaert tới Sài Gòn. Đối với ai không từng biết vấn đề Á Đông, thì đó là sự đã chọn lầm nghề.

Mới đến nơi, ông này như muốn thanh toán hết những tàn tích của vị cao ủy tiền nhiệm. Léon Pignon, cố vấn chính trị của Đô đốc D’Argenlieu được bổ làm đại diện ở Cộng hòa Cam Bốt và Albert Torel được cho nghỉ về Pháp. Bộ tham mưu của Bollaert gồm toàn người thông thạo các vấn đề Việt Nam: Pierre Messmer trở thành Chánh văn phòng của Cao ủy, và Paul Mus là Cố vấn chính trị. Sự thiên tả của họ ai cũng biết. Vì vậy, Hồ Chí Minh cho Hoàng Minh Giám, bộ trưởng Bộ Ngoại giao, tung một thông điệp ngày 19 tháng 4 gửi chính phủ Pháp:

“… Chính phủ Pháp do sự bổ nhiệm vị tân Cao ủy Pháp ở Đông Dương, như có thiện chí đưa nền chính trị đối với Việt Nam vào đường hướng mới, xứng đáng với nước Pháp mới… Để chứng tỏ sự tha thiết của Việt Nam đối với hòa bình, và tình cảm nồng nhiệt đối với dân tộc Pháp, chính phủ Việt Nam đề nghị chính phủ Pháp nên chấm dứt ngay mọi hận thù, để mở những cuộc đàm phán hầu giải quyết mâu thuẫn trong hòa bình”.

Tôi đã hiểu Hồ Chí Minh tạm đủ, để biết được rằng, khi đẩy chính phủ của ông Ramadier đến chân tường, ông ta đã dự trù tất cả mọi điều có thể xảy ra. Trong tất cả mọi trường hợp, dù là người Pháp tin vào lực lượng quân sự của mình, để đặt ra những điều kiện không thể chấp nhận, hay dù cho họ giả trá điều đình, để rồi lật lọng cầm võ khí trở lại, hoặc họ chấp nhận nền tự trị và độc lập bằng cách đưa ra một chính phủ bù nhìn, mà rồi sự dàn xếp chẳng đi đến đâu, Hồ Chí Minh vẫn có cái lợi là đã đi bước trước. Nhưng Hồ Chí Minh đã phạm một lỗi lầm: ông ta không muốn chú trọng đến nhận định của tôi đã báo động vào tháng giêng năm 1946 là nước Pháp không có một tí nào muốn vào đường hướng cộng sản cả.

Quả nhiên, một biến cố bất ngờ đã làm đảo lộn những dự tưởng của ông. Ngày 5 tháng 5, sau cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm ông Ramadier của các dân biểu cộng sản, ông này liền ra một sắc lệnh chấm dứt nhiệm kỳ của tất cả bộ trưởng cộng sản. Hồ Chí Minh mất tất cả các sự hỗ trợ trung thành của mình ở ngay giữa chính phủ Pháp.

Ngày 15 tháng 5, Bollaert đến Hà Nội. Tại đây, ông ta đọc một bài diễn văn chứng tỏ một sự thay đổi quật ngược:

- Nước Pháp vẫn ở lại Đông Dương, và Đông Dương nằm trong Liên hiệp Pháp. Đó là nguyên lý bất di bất dịch đầu tiên của nền chính trị của chúng tôi, và thật là sai lầm khi cho rằng, vì quyền lợi của hòa bình, mà để sự hoài nghi còn lởn vởn trong óc về vấn đề này. Sự có mặt của nước Pháp vẫn tồn tại ở nước này, từ trước đến nay vẫn là một thực tế, mà những nhà lãnh đạo đã nhầm lẫn lớn, nếu không đếm xỉa đến trong sự tính toán của họ…

Sau khi trình bày bằng những lời lẽ mập mờ, những lợi ích cho các quốc gia nằm trong Liên hiệp Pháp, ông ta nhắc lại lời kêu gọi cho tất cả các đảng phái:

- Tôi nói, tất cả các đảng phái, vì chúng tôi không công nhận bất cứ nhóm nào, được độc quyền đại diện cho dân chúng Việt Nam… Thiện chí của tôi không muốn bị lợi dụng. Không ai có thể dùng hình thức khôn khéo, để qua mặt thiện chí đó.

Để chào mừng viên Cao ủy tới Hà Nội, một tờ báo quốc gia, tờ Thời Sự, đăng một lời kêu gọi, đứng tên ba nhân vật, từng là cựu dân biểu đối lập trong Quốc hội Hà Nội như sau:

- Theo ý của chúng tôi, nước Pháp chỉ có thể, và chỉ nên điều đình với cựu Hoàng đế Bảo Đại. Ngài có thể trở về dưới danh nghĩa Hoàng đế, như trước kia, hay dưới danh hiệu Quốc trưởng, nhưng điều quan trọng nhất là nước Pháp điều đình với Ngài và ủy nhiệm Ngài lập một chính phủ quốc gia, đứng với danh hiệu ấy, gồm các nhân vật có khả năng và đầy đủ uy tín trước mắt nhân dân. Một khi mà nền độc lập của Việt Nam được công nhận và chính phủ quốc gia được thành lập, thì chúng tôi tin rằng tất cả dân chúng sẽ đứng bên cạnh chính phủ và nếu Việt Minh còn ngoan cố không chịu tuân theo, nếu họ cứ tiếp tục phá rối trị an, lúc ấy chính phủ sẽ đảm trách nhiệm vụ dẹp họ như dẹp bọn phản loạn…

Ngày 20 tháng 5, Nguyễn Văn Sâm, đại diện miền Nam cho Mặt trận Liên hiệp Quốc gia tuyên bố:

- Chính phủ Hồ Chí Minh chỉ là một chính phủ cộng sản, theo đuổi chính sách đảng trị và độc tài…

Lời tuyên bố kết thúc bằng sự tán dương “công dân Vĩnh Thụy, một nhà ái quốc, và là người đứng trên hết mọi đảng phái”.

Khi trở vào Sài Gòn, ông Bollaert ngày 24 tháng 5, đã ngưng lại ở Huế. Hội đồng An dân Lâm thời và Phong trào Tập hợp Quốc gia Việt Nam đã nhân dịp tổ chức một buổi biểu dương tinh thần quốc gia và quân chủ của nhân dân thành phố.

Tôi quan sát tất cả những hoạt động đó và chờ đợi.

Tôi không phải đợi lâu. Chỉ vài ngày sau, Cousseau nhân viên cai trị cũ, đang làm việc tại Lãnh sự quán ở Hong Kong đến thăm tôi. Tôi tiếp ông ta ở Hong Kong khách sạn. Đối với nhân vật đáng mến, biết rõ nước tôi này, sự đàm thoại theo kiểu Á Đông.

Ông ta bắt đầu vào đề:

- Thưa Hoàng thượng, tôi đến đây với tính cách cá nhân thôi…

- Tôi biết lắm. Tôi đáp, và không nuôi một ngờ vực nào về nhiệm vụ mà ông ta đảm trách.

Sau một hồi lôi thôi kể lể những thảm cảnh ở Việt Nam do khủng bố và chiến tranh du kích làm hại kinh tế, ông ta nhấn mạnh đến sự cần phải tái lập hòa bình cho đất nước.

- Thưa Hoàng thượng, Ngài đang muốn có hòa bình. Nước Pháp cũng muốn như vậy. Và Ngài có thể đem đến sự hợp tác quí báu…

Tôi bắt đầu hiểu lý do sự kể lể:

- Tôi có thể đem đến được gì bây giờ? Đồng ý, tôi mong muốn hòa bình, và càng nhanh chừng nào càng tốt, nhưng chẳng có gì trao đổi, khi mà nước Pháp đã không cho lại chúng tôi nền độc lập và thống nhất đã đạt được từ 1945.

- Thưa Hoàng thượng, Việt Minh đòi ít hơn Ngài.

- Trường hợp ấy, thì nước Pháp cứ điều đình với Việt Minh. Người Pháp vốn hay quên. Ông vừa chẳng bảo tôi rằng trong tất cả các sự liên lạc chính thức, người Pháp không muốn điều đình với Hồ Chí Minh. Hay là ông coi tôi là một người điên.

Ông ta thú thật với tôi:

- Trước khi đọc diễn văn ở Hà Nội, ông Bollaert đã cử vào đầu tháng năm, viên Cố vấn Chính trị Paul Mus lên Việt Bắc để bí mật gặp Hoàng Minh Giám rồi sau đó Hồ Chí Minh. Ông này đã đưa ra những điều kiện của chính phủ Pháp, để ngưng mọi hận thù: Ngưng ngay tức khắc các hoạt động chiến tranh, khủng bố, và tuyên truyền trao trả lại hầu hết các quân cụ, binh sĩ Pháp đi lại tự do trên toàn lãnh thổ, trao trả tất cả các con tin, các tù binh, hay binh sĩ đào ngũ. Những điều khoản ấy đều do bộ Tham mưu Pháp đòi hỏi. Tất nhiên, Hồ Chí Minh đã coi là không thể chấp nhận được, nếu không muốn nói là ô nhục. Việc mới tới đây. Sau khi các nhân viên cộng sản bị giải nhiệm ở chính phủ, tất cả đang thay đổi. Nay Hoàng thượng là nhân vật đáng giá. Sau lưng Ngài, toàn thể nhân dân Việt Nam đều tập trung thành một khối duy nhất. Chỉ có riêng Ngài mới tạo được sự tín nhiệm của Pháp.

- Vậy thì nước Phảp hãy thỏa mãn nguyện vọng của dân chúng Việt Nam, nước Pháp hãy trả lại nền thống nhất và độc lập cho họ.

- Thưa Hoàng thượng, Ngài đang giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Tất cả dân chúng đều kêu gọi Ngài, chắc Ngài thừa biết.

- Thế còn các tay tự trị Nam bộ, họ nghĩ sao?

- Đành rằng tính tình họ có khác, nhưng họ vẫn là người Việt Nam, họ sẽ tìm đến Ngài. Hơn nữa, đại diện của họ rồi đây sẽ xác nhận với Ngài.

- Xin nước Pháp hãy bỏ hết lý do đưa đến chiến tranh, nước Pháp hãy trả lại thống nhất và độc lập cho chúng tôi, không còn cách nào khác.

Có lẽ thất vọng về những đòi hỏi của tôi, ông ta rút lui. Thái độ ấy, vì lý do không muốn đoạn tuyệt với Pháp, buộc tôi phải ẩn nhẫn, để vớt lại tương lai, và để chuẩn bị những đường hướng khác. Vấn đề chính là không nên hấp tấp, có thể cháy tiêu quá sớm.

Viên Cao ủy đi Paris và tới vào ngày 14 tháng 6, để tường trình về sứ mạng của ông ta. Phải chăng ông ta đã đợi câu trả lời của tôi, để ra đi?

Ở Hong Kong, các chính khách vẫn tới lui tấp nập. Các tả hữu của tôi rất lo ngại sự chấp nhất của tôi. Họ nài nỉ tôi lên lãnh đạo phe quốc gia, vì ngại rằng trong trường hợp đối nghịch, tôi đã bỏ lỡ thời cơ, và bị kẻ khác vượt qua. Nhưng tôi biết, khi đạt kết quả hơn Hồ Chí Minh, mà không cần gây hấn với Pháp, tôi mới lãnh đạo được dân chúng của tôi.

Ngày 19 tháng 6, trong một thông điệp bằng vô tuyến, Hồ Chí Minh lại tái xác nhận sự mong muốn hợp tác của dân tộc Việt Nam với dân chúng Pháp, trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp, và ấn định những mối bang giao mà ông ta kỳ vọng đạt kết quả với Pháp.

Để cụ thể hóa sự trả lời của tôi đối với Cousseau, và đánh dấu thời gian này, ngày 5 tháng 7: năm 1947, tôi cho phép tờ báo Union Française (Liên hiệp Pháp) ở Sài Gòn được đăng lời tuyên bố của tôi sau đây:

“Nếu tất cả dân chúng Việt Nam đều đặt tín nhiệm nơi tôi, nếu mặt khác, sự hiện diện của tôi có thể góp phần đem lại sự giao hảo của dân tộc tôi với người Pháp, tôi sẽ sung sướng để trở về nước. Tôi không ủng hộ Việt Minh và cũng không chống Việt Mihh. Tôi không theo đảng phái nào. Hòa bình sẽ tới nhanh chóng, nếu người Pháp hiểu rằng tinh thần dân tộc tôi bây giờ không giống như trước cách đây mười năm. Tôi không muốn nói dài hơn nữa, vì chính phủ Pháp đã hiểu lập trường của tôi rồi. Đề nghị của tôi là muốn đóng vai trò hòa giải giữa nước Pháp với các phe phái ở Việt Nam”.

Không để mất thì giờ và sự hấp tấp của ông ta chứng tỏ ông ta không đồng quan điểm này - Hồ Chí Minh vội vã trả đũa ngay. Ngày 19 tháng 7, ông ta cải tổ lại chính phủ. Những bộ trưởng quá lộ liễu do hình thức, đều bị hy sinh. Như vậy, Giáp không còn ở trong chính phủ nữa, nhưng lại giữ chức Tổng tư lệnh quân đội. Sau cuộc cải tổ, thành phần chính phủ gồm ba cộng sản, bốn dân chủ, bốn xã hội, hai quốc gia, ba Công giáo, một Phật giáo, tám trung lập, hai quan lại. Tuy nhiên, cộng sản, xã hội, và dân chủ giữ những chức vụ then chốt. Ván cờ đã bắt đầu gay cấn.

Ngày 22 tháng 7, Bollaert từ Pháp về, mở một cuộc họp báo:

- Chúng tôi chờ đợi ở sự xung đột này, không có kẻ thắng, người thua. Chúng tôi chỉ loại trừ ra khỏi cuộc đàm phán này, những kẻ địch không thể điều đình được bởi mất trí, và những kẻ làm chính trị điên khùng. Như vậy, với tất cả các đảng phái, đoàn thể, phe nhóm, trong một tinh thần yêu nước, chúng tôi muốn mở cuộc đàm phán cho một nền hòa bình vĩnh cửu…

Vài ngày sau, Hồ Chí Minh phản pháo bằng cách tiết lộ công khai sự mặc cả của Paul Mus vào tháng năm, và tuyên bố:

- Ông ta đã bảo rằng chính phủ Pháp sẽ gửi cho chúng tôi một trả lời chính thức. Cho đến nay, chẳng có trả lời nào gửi cho chúng tôi… Ông Cao ủy lại tiếp tục nói rằng muốn đặt nền tảng cho một nền hòa bình vĩnh cửu với tất cả mọi đảng phái. Thế nhưng chính phủ Việt Nam chẳng những biết các đại diện của các đảng phái, mà còn biết cả những nhà ái quốc không thuộc đảng phái nào. Nếu ông Cao ủy thành thực muốn gặp các đảng phái chính trị xứng đáng với danh gọi, ông Cao ủy chằng cần phải tìm đâu xa…

Và rất khôn ngoan, dưới hình thức một câu trả lời cho một nhà báo phỏng vấn, ông này tiếp tục:

- Nhiều nhân viên chính phủ và cả tôi nữa, đều là bạn thân của Cố vấn Vĩnh Thụy, ai cũng khao khát được gặp mặt lại Cố vấn, và mong muốn người trở về, để cùng chúng tôi chăm lo việc nước. Nhưng hiện nay Cố vấn Vĩnh Thụy, chưa thể dời bỏ Hong Kong về được. Chúng tôi dù cách mặt, nhưng chẳng xa lòng. Chính phủ và dân chúng Việt Nam hoàn toàn tin tưởng vào lòng trung thành của Cố vấn Vĩnh Thụy, dù ở ngoại quốc, vẫn tiếp tục làm việc cho chính phủ quốc gia mà Cố vấn vẫn còn là một thành viên.

Lời phản pháo quả thực là đầy thủ đoạn, và cũng làm hoang mang nhiều người, bởi họ tin rằng cặp bài Bảo Đại - Hồ Chí Minh vẫn còn ăn ý bên nhau. Chính phủ Pháp cảm thấy nguy hiểm, vội vã phản ứng ngay, bằng cách cử Thiếu tá Raynaud từ Paris sang gặp tôi. Ông này từng là sĩ quan tùy viên của tôi vào năm 1935-36, và thường là tay bồi tiếp các cuộc tập dượt về thể thao của tôi ở Huế. Đây là một thanh niên đáng mến, tôi tiếp ông ta rất nồng hậu. Sự đó làm ông ta hy vọng đạt được kết quả mong muốn, nhưng khi ông ta nhắc lại những luận điệu y như của Cousseau, thì ông ta cũng nhận được những trả lời y như vậy: Thống nhất và độc lập trước đã. Ông ta cố gắng làm cho tôi nghe thấy tiếng nói của chính phủ Pháp để phải mềm lòng. Vô ích. Buồn thay cho Raynaud, khi trở về tiu nghỉu. Ông ta không nhận được ra tôi, ngày nay, lại cứng rắn đến thế. Đấy là tại mười năm đã trôi qua, sau những ngày từng đánh tennis, và đánh golf, và bởi tôi đã học được nhiều.

Ngày 7 tháng 8, Bollaert lên Hà Nội, và chuẩn bị mở một cuộc tấn công mới lớn lao. Quả vậy, ngày 15 tháng 8, Ấn Độ và Pakistan, sau Phi Luật Tân, Nam Dương và Miến Điện, đều được độc lập hết. Vị Cao ủy muốn lợi dụng sự trùng hợp ấy, để nhắc lại lời tuyên bố ngày 22 tháng 7, là đặt nền móng cho tổ chức độc lập “trong khối Liên hiệp Pháp” và đề nghị ngưng bắn tức khắc.

Nhưng ngày 15 tháng 8 qua đi, không có gì xảy ra. Sau tôi mới biết là ông Bollaert bất ngờ đi Paris ngày 12, nên hủy bỏ dự định kia. Cousseau đến giải thích cho tôi lý do sự thay đổi đột ngột chương trình này. Thật sự, ông Bollaert là người cẩn thận, nên trước khi định tiến hành, đã e ngại rằng không rõ chính phủ có đồng ý với dự định của ỏng ta không. Một bài báo của Léon Blum vừa viết trên tờ Le Populaire (Bình Dân) là nguyên nhân cho sự ngập ngừng này. Nhà lãnh tụ thuộc đảng Xã hội này đã viết:

“Vâng, Hồ Chí Minh… mà tôi vừa nhận được vài hôm nay một giác thư riêng, qua đường lối hết sức chính thức (6), vẫn là người đại diện chính thức và đủ tư cách của dân, tộc Việt Nam...”

Ông Cao ủy bỗng nhiên thấy rằng chính phủ đã không cho ông biết tất cả, và đã “chơi” ông ta. Ván cờ mỗi lúc càng thêm gay cấn. Hồ Chí Minh bắt buộc phải hoạt động. Bị thúc đẩy bởi các nhân vật quốc gia, ông ta buộc lòng phải đi với họ, và không còn được tự do làm theo định kiến của mình. Còn Cao ủy Pháp Bollaert cũng không tin vào phía hậu thuẫn, và luôn sự bị Paris phủ nhận. Thành ra tôi trở thành chủ động, để cầm cân nẩy mực cho ván bài này. Tiếc thay, tôi lại không có một ưu thế gì. Tôi quyết định cử Trần Văn Tuyên đi dò tại chỗ dư luận quần chúng. Ông ta thuộc Việt Nam Quốc dân đảng, nhưng nhận lãnh sứ mạng mà tôi ủy nhiệm. Sau khi về Hà Nội và Huế, ông ta đến Sài Gòn vào cuối tháng tám. Sau đó, tôi được biết, ông ta đã đi quá nhiệm vụ mà tôi trao phó, và đã tuyên bố nhiều lời sóng gió, coi như lời của tôi. Ông ta thường nhắc rằng:

- Hoàng đế Bảo Đại không còn tự coi là Cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh nữa. Ngài không phản đối sự liên kết với cụ Hồ, để điều đình với chính phủ Pháp, với điều kiện là sự hợp tác phải bình đẳng, và Việt Minh không được tự coi hơn các đảng phái khác…

Cũng không sao, các đề nghị tới tấp được gửi đến tôi, do nhiều nguồn gốc, để yêu cầu can thiệp.

Trong số quan khách tiếp tục đổ đến Hong Kong, tôi thường gặp nhiều lần Thiếu tá Buckley của cơ quan chiến lược Hoa Kỳ (OSS) mà tôi đã từng gặp ở Hà Nội. Không đi sâu lắm, ông ta để cho tôi hiểu là Hoa Kỳ không thích Hồ Chí Minh và sẵn sàng yểm trợ cho bất cứ ai, có thể đưa lại độc lập cho Việt Nam, với điều kiện là không phải cộng sản là được…

Ngày 4 tháng 9, khi ông Bollaert trở lại Sài Gòn, tôi liền tung lời kêu gọi là “mời tất cả các lãnh tụ, bất cứ thuộc quan điểm chính trị nào, hãy đến Hong Kong ngày 9 tháng 9 để báo cho tôi biết hiện tình, hầu giúp tôi có thể đạt được kế hoạch thực hiện nền hòa bình trong danh dự và vĩnh cửu”.

Ngày 9 tháng 9, có tất cả 24 vị đã đến Hong Kong. Trong số này, có các vị người miền Nam là Nguyễn Văn Tâm, thuộc Mặt trận Nam bộ; Nguyễn Văn Sâm, thuộc Mặt trận Quốc gia Thống nhất: Trần Quang Vinh, lãnh tụ lực lượng Cao Đài. Miền Trung có Chủ tịch Hội đồng An dân thành phố Huế Trần Văn Lý, Cao Văn Chiêu, đại diện trí thức… Tại chỗ, có các lãnh tụ quốc gia lưu vong ở Tàu, và khi vừa đến, họ đã in bản tuyên ngôn chung, là “toàn thể yêu cầu Cựu hoàng Bảo Đại, người đại diện độc nhất, đủ tư cách của dân tộc Việt Nam ra chấp chính và mở cuộc đàm phán với nước Pháp, hầu tái lập hòa bình ở Việt Nam và thực hiện hòa bình và độc lập”.

Một sự thuần nhất như thế cho cảm tưởng có bàn tay của công quyền xếp đặt, nhưng các cơ quan này rất ngạc nhiên, thấy sự hăng say đã đáp ứng lời kêu gọi của tôi.

Vì vậy, ngày hôm sau 10 tháng 9, Cao ủy Bollaert đọc một bài diễn văn tại Hà Đông, Hà Nội trước mặt các đại diện ngoại giao đoàn cũng như trước số đông dân chúng, định rõ vị trí của nước Pháp. Thật sự thì bài diễn văn này cũng chẳng có dữ kiện mới mẻ gì. Hai chữ “Độc lập” vẫn được tránh né rất kỹ: Thống nhất nước Việt Nam, nếu người Việt Nam muốn, tự trị nội bộ trong Liên bang Đông Dương và trong Liên hiệp Pháp. Nước Pháp vẫn chịu trách nhiệm về ngoại giao và quổc phòng của nước tôi… Viên Cao ủy nhắc lại lời kêu gọi cho tất cả các gia đình trí thức và mọi giai tầng xã hội ở Việt Nam, yêu cầu họ tự lựa chọn - không nói dưới hình thức nào - “để đại diện cho mình, trong trường hợp này, những người có khả năng đạt đích”. Nhưng ông ta không quên nói rõ rằng, quả nhiên chẳng có gì đáng ngờ hơn là “sự thất sủng, mà một số lãnh tụ đã gây ra cuộc chiến tranh du kích phải chịu hy sinh, cũng chằng có thể thay đổi được lợi lộc gì cho dân chúng Việt Nam trong việc tìm kết quả của các hiệp định riêng biệt, mà người ta có thể dùng hình thức điều đình được. Như vậy, hòa bình không thể thực hiện được, nếu nó là tác phẩm của một phe phái...”

Chúng tôi quả đã thụt lùi, so với bài diễn văn dự định đọc ngày 15 tháng 8. Ai cũng thất vọng, và các vị do tôi triệu tập ở Hong Kong ngày 9 tháng 9 đã xác nhận sự tín nhiệm tôi và nói rằng, những đề nghị của Pháp không thỏa mãn được nguyện vọng chính đáng của dân chúng Việt Nam và cũng không phải là loại có thể đem lại sự hòa dịu hầu kiến tạo hòa bình lâu dài.

Cousseau đến gặp tôi:

- Thưa Hoàng thượng, Ngài cần phải trả lời bài diễn văn của ông Bollaert. Tôi cam đoan với Ngài rằng, ông Cao ủy sẽ hoan nghênh bài trả lời của Ngài.

- Thế ông ấy có đọc đến hai chữ “Độc lập” hay không?

- Dạ có, nhưng ông ta đọc bằng tiếng Việt Nam.

- Tôi thấy quả là lạ lùng, và có thể nói là chướng nữa.

- Thưa Hoàng thượng, xin Hoàng thượng thông cảm về hoàn cảnh của nước Pháp. Nếu hôm nay đọc ở đây hai chữ “Độc lập” thì đó là châm ngòi lửa cho cả Phi châu.

- Không, tất cả sự đó là vô nghĩa và không thể chấp nhận được.

- Thưa Hoàng thượng, xin Hoàng thượng hãy đề phòng Hồ Chí Minh, ông ta có thể vượt Hoàng thượng lắm.

- Không, tôi không muốn trả lời… Tôi đi câu đây.

Kiên trì với chiến thuật ấy, tôi đợi phản ứng. Phản ứng của Việt Minh do bộ trưởng Ngoại giao Hoàng Minh Giám tung ra ngày 15, tuyên bố rằng: “Tự trị không quân đội, và không ngoại giao thì chẳng có nghĩa lý gì,” nhưng ông ta tiếp: “Nước Pháp hãy công nhận một cách rõ ràng và minh bạch nền thống nhất và độc lập của Việt Nam, thì máu của người Pháp và người Việt sẽ ngưng chảy lập tức”.

Thật sự, tôi bắt đầu làm việc với Giáo và với Bác sĩ Quế. Ở Pháp, sau khi giải nhiệm số bộ trưởng cộng sản trong chính phủ, thì phe hữu tăng cường vị trí của họ. Mỗi ngày càng rõ ràng, họ sẽ không bao giờ điều đình với Hồ Chí Minh. Đảng Việt Minh không còn đất để chạy nữa. Như vậy thời gian đã điểm để tôi điều đình. Có hai dữ kiện thuận lợi cho tôi về vấn đề này.

Một mặt dù tôi không còn tin tưởng và số phận sau cùng của Quốc dân đảng Trung Hoa, họ vừa đạt được một lợi điểm trong cuộc chiến đấu chống Mao Trạch Đông, khi tải chiếm lại Diên An. Mặt khác, tình hình căng thẳng giữa Nga Sô và Mỹ, và Hoa Kỳ không bỏ dịp nâng đỡ nền độc lập của Việt Nam, nếu nền độc lập này được thực hiện, không có cộng sản trong chính phủ. Cuối cùng, các hành động ủng hộ tôi đã liên tiếp nổi lên ở Huế, ở Hà Nội và Sài Gòn, trong suốt thời gian tháng chín.

Đúng vậy, thời gian đã đến rồi. Nay đến lượt tôi, lần đầu tiên, kể từ khi thoái vị, ngày 18 tháng 9, tôi gửi lời kêu gọi dân chúng:

“Đồng bào Việt Nam thân mến,

“Để khỏi làm đổ máu đồng bào, tôi đã từ bỏ ngai vua của tổ tiên tôi,

“Đồng bào đã muốn trao vào tay những nhà lãnh đạo mới, trách nhiệm, hướng dẫn số phận của mình, tôi đã sẵn sàng rút lui. Tôi đã thoái vị và chọn con đường lưu vong để khỏi là một trở ngại cho cuộc thí nghiệm này, mà đồng bào đã nghĩ rằng có thể đem hạnh phúc đến cho mình.

“Từ nơi đất lạ mà hiện nay tôi trú ngụ, tôi vẫn theo dõi khi vời hy vọng, khi vôi niềm chua xót, sự phát triển của những trang đời khốc liệt mới, đày bi thảm của lịch sử nước ta. Tôi không lạ gì niềm hy vọng, cũng như nỗi lo âu, sự băn khoăn về điều bất hạnh của đồng bào.

“Mặc dù nền độc tài vẫn tìm cách bịt miệng đồng bào, ngày nay tôi đã nghe thấy tiếng gọi và tiếng kêu thương tuyệt vọng của đồng bào, đồng bào đã vẽ nên một bức tranh thống khổ, và kê khai bao điều bất hạnh mà dân tộc Việt Nam ta phải gánh chịu, sau hai năm kinh nghiệm, mà các chủ nhân của đồng bào đã nắm quỳễn cai trị tuyệt đối gây nên.

“Như vậy, dần đà niềm hy vọng và hạnh phủc của đồng bào cũng bị mất đi, dù đã được sự tuyên truyền khôn khéo, và một lý tưởng ngoại lai cám dỗ ban đầu. Trong niềm tuyệt vọng, đồng bào đã chạy đến tôi. Đồng bào kêu gọi đến uy tín và quyền hành của tôi để đem về cho đất nước bị chiến tranh tàn phá, một cuộc chiến huynh đệ tương tàn, một nền hòa hình như ở các nước tự do và bình đẳng, một nền hòa bình căn bản của an ninh và trật tự.

“Đồng bào mong mỏi rằng tôi sẽ là người đứng điều đình với nước Pháp, do tiếng nói của vị đại diện ở Việt Nam, Ngài Cao ủy Bollaert, đã rõ rệt kêu gội đồng bào, trong bài diễn văn đọc ở Hà Đông, yêu cầu đồng bào chọn các người mà đồng bào tín nhiệm.

“Đáp ứng lời kêu gọi của đồng bào, tôi nhận sứ mạng mà đồng bào trao phó, và sẵn sàng để bắt liên lạc với nhà cầm quyền Pháp. Với họ, tôi sẽ nghiên cứu tất cả mọi khía cạnh của những lời đê nghị đối với chúng ta.

“Trước hết, tôi muốn đạt được độc lập và thống nhất, đúng như nguyện vọng của đồng bào, đạt tới những thỏa hiệp do sự bảo đảm hỗ tương, và có thể xác nhận với đồng bào là lý tưởng mà chúng ta từng dũng cảm chiến đấu trong cuộc kháng chiến gian lao, sẽ đạt được toàn diện.

“Như vậy, nhờ vào quyền lực và uy tín của tôi, để có thể đóng vai trọng tài cho mọi tranh chấp nội bộ giữa anh em trong nhà với nhau, bởi vì mục đich, đã đạt thì không còn gi phải chống lại nhau nữa, khi hòa bình đã được lập lại. Nền hòa bình căn bản của phồn thịnh, và an ninh mà tôi sẽ đem lại cho đồng bào, tôi muốn giữ mãi. Thời gian sẽ xoa dịu mọi tham vọng, ganh đua. Trong hợp tác, tất cả người Việt Nam chúng ta sẽ xây dựng một nước Việt Nam tốt đẹp, huy hoàng, theo căn bản mới, tạo nguồn sinh khí trẻ trung, đồi dào trong nền văn hóa cổ truyền uy nghi và mãnh liệt của tổ tiên xưa”.

Thật đã khá rõ ràng. Như Việt Minh, tôi từ chối đề nghị của ông Bollaert, vá xác nhận lập trường của tôi: Độc lập và Thống nhất, nhưng trái với Hồ Chí Minh, tôi đi bước trước. Ngày hôm sau có lời tuyên bố ấy, Mặt trận Quốc gia Thống nhất chấp nhận nội dung, tái xác nhận sự tín nhiệm của họ đối với tôi, đồng thời kêu gọi dân chúng Việt Nam siết chặt hàng ngũ bên tôi.

Quyết định của tôi có ảnh hưởng gần như tức khắc. Tôi gửi một bức điện cho Bác sĩ Lê Văn Hoạch; đường lối thống nhất bắt buộc phải đưa đến sự giải tán chính phủ của Cộng hòa Tự trị Nam kỳ. Theo sự gợi ý của tôi, vì không thể giải quyết theo kiểu ấy, Lê Văn Hoạch vốn cầm đầu chính phủ gần một năm, liền từ chức ngày 29 tháng 9. Vị thầy thuốc Cao Đài này, nguyên quán người Bến Tre, là một người lương thiện. Từ nguyên thủy, theo qui chế của phe nhóm, ông hoàn toàn thuộc nhóm ly khai địa phương, sau trở thành Nam kỳ Tự trị, trước khi chấp nhận một thái độ có hảo ý với vấn đề thống nhất. Sự tiến triển này của ông ta làm cho ông bị chống đối bởi xã hội thuộc địa, và những người đại diện của nhóm ấy được đưa vào trong hội đồng của ông. Tướng Xuân vừa từ Pháp về, vốn có nhiều liên lạc ở Pháp, nhất là các người thuộc phe tả ôn hòa, liền được bầu làm Thủ tướng chính phủ Nam kỳ Tự trị ngày 1 tháng 10, và bắt đầu lập chính phủ.

Là cựu sinh viên trường Võ bị Bách khoa, thiếu tướng trong quân đội Pháp, tướng Xuân sống ở Pháp nhiều hơn ở Việt Nam. Tôi biết rõ ông ta. Ông ta vào một đoàn thể có xu hướng dung hòa đang sáng giá tại Pháp. Giữa một giải pháp Mác-xít và giải pháp quân chủ, sao lại không thể có một giải pháp thứ ba, một “đường hướng trung dung” na ná như tư tưởng của Khổng Phu tử? Trong óc Xuân, giai đoạn một, chấp nhận một thứ liên hiệp của ba kỳ. Miền Bắc với Hồ Chí Minh, miền Trung với Bảo Đại, miền Nam với Xuân. Đến giai đoạn hai, sẽ loại Hồ Chí Minh cộng sản ra ngoài, và Bảo Đại sẽ là sự phục hưng của nền quân chủ, để tạo rạ một thứ cộng hòa dân chủ, xã hội và tiến bộ. Ý tưởng ấy phù hợp gần hoàn toàn với chủ trương dung hòa, mà các đảng phái chính trị ở Pháp đang muốn cân bằng giữa các đảng ấy.

Theo tôi, giải pháp ấy thật đáng nghi ngờ, bởi vì ngay giai đoạn đầu, nó có thể trở lại nền tự trị Nam kỳ quốc, làm hại cho sự kiến tạo nền thống nhất. Để vắn tắt, ngày 5 tháng 10, tôi gửi một điện văn cho viên Cao ủy yêu cầu bãi bỏ ngay chính phủ Nam kỳ, và thay vào đấy bằng một Hội đồng An dân như đã có ở Huế, và ở Hà Nội.

Nhiều sự kiện gián tiếp có lợi cho giải pháp của tôi. Một mặt, Tướng Xuân gặp rất nhiều khó khăn để lập chính phủ. Mặt khác, ngày 7 tháng 10, quân đội Pháp mở cuộc hành quân rộng lớn, đánh lên Việt Bắc ở cả hai miền thượng du và trung du nơi có căn cứ quân sự và chính phủ trung ương của Hồ Chí Minh. Cuộc hành quân kéo dài tới cuối tháng 10, đánh một trận quyết liệt đối với kháng chiến Việt Minh, làm cho bộ Tư lệnh và Tổng tham mưu bị tan rã hoàn toàn.

Sự kiện cuối cùng là tình hình chính trị ở Pháp cũng tiến triển mau lẹ, theo chiều hướng mà tôi cảm thấy trước, và ngày 21 tháng 11, sau vụ khủng hoảng về nhân sự, lãnh tụ đảng Xã hội Ramadier phải nhường chỗ cho Schuman thuộc đảng (MRP) Cộng hòa thân hữu của Tướng De Gaulle. Ở bộ Pháp quốc Hải ngoại, cũng vẫn là MRP, Paul Coste Floret thay thế viên bộ trưởng Xã hội Marius Moutet. Vị tân bộ trưởng này không giấu sự ác cảm đối với Việt Minh ra mặt.

Tuy nhiên, tôi không nhận được bản trả lời chính thức của vị Cao ủy đối với bức điện văn của tôi, nhưng Tướng Xuân, sau khi tham khảo với nhân viên chính phủ của ông, đã có sáng kiến là thay thế tên gọi của “Chính phủ Cộng hoà Tự trị Nam kỳ” bằng danh xưng “Chính phủ Lâm thời miền Nam Việt Nam”.

Cuối cùng, trong những ngày cuối tháng 11, tôi lại nhận được sự thăm viếng của Cousseau.

- Thưa Hoàng thượng, nay nhân vật Hồ Chí Minh đã bị gạt ra ngoài rồi, tôi được ủy nhiệm đến thưa với Ngài rằng, Cao ủy Bollaert ước mong sớm được gặp Ngài.

- Hẳn ông biết lập trường của tôi rồi chứ, ông Cousseau. Thế mà bài diễn văn ở Hà Đông không đáp ứng được bất cứ điều kiện nào.

- Thưa Hoàng thượng, tôi được phép thưa với Ngài rằng, viên tân bộ trưởng Pháp quốc Hải ngoại đã bảo đảm cho ông cao ủy rồi. Ông bộ trưởng đã hiểu thấu nguyện vọng của nhân dân Việt Nam về độc lập và thống nhất.

Nếu nguyện vọng này đã được thể hiện bởi một chính phủ thật sự quốc gia, quan tâm đến những giao ước này, thì không còn vấn đề nữa. Thời gian đã đến để bắt tay vào việc đàm phán trực tiếp. Dù sao nữa, những đề nghị đọc ở Hà Đông, không phải nằm trong một chương trình vĩnh cửu.

Chú thích:

(6) Đây là Bác sĩ Descoeudres, đại diện hội Hồng thập tự quốc tế, được cử đến Việt Minh với một sứ mệnh hoàn toàn nhân đạo, khi trở về, đã đem lại bức giác thư, cho viên Tư lệnh Pháp để gửi cho người nhận (Léon Blum).