Tạm trú ở Hong Kong
Không ai đợi chúng tôi ở phi trường Kai-tac. Cả Yu và tôi đều không ai biết gì về thành phố ấy. Chúng tôi lên xe bus để lên chiếc tàu thủy chở khách từ Kow Loon sang đảo Victoria. Tại đây, chúng tôi thuê hai buồng, trong một khách sạn hạng xoàng ở khu phố Tàu Happy Valley. Hôm sau, chúng tôi đi thăm thành phố. Quả là một sự huy hoàng.
Bên kia sông, nhà băng Trung Hoa đồ sộ, và các nhà chọc trời của Kow Loon làm thành một khối đen sậm, đứng lù lù như hư như thực. Thuyền bè rộn rịp: thuyền mủng, sà lan, thuyền máy đưà khách, thuyền buồm với những cánh buồm tre đan, đi lại trong cảng Victoria Harbour vô cùng rộn rịp.
Sau hai tuần lễ du ngoạn ở Hong Kong, Yu từ biệt tôi để đi Nam Kinh. Ông ta rất thất vọng đã không kéo được tôi đi theo, nhưng trước khi từ biệt, ông đoan với tôi rằng tôi sẽ là thượng khách bên cạnh Tưởng Thống chế, nếu tôi quyết định tìm đến Thống chế.
Nay tôi hoàn toàn đơn độc, chỉ còn trong túi một vài đô la Hong Kong, mà Yu đã để lại. Nhưng với tiền ít ỏi đó, sẽ hết mau ngay nếu tôi không tìm cách nào để tự giải quyết. Trong khi chờ đợi, tôi thường đi chơi vơ vẩn, khi thì đi bộ, khi đi bằng xe bus. Tôi thấy hoàn toàn tự do. Đây là lần đầu tiên mà tôi cảm thấy như vậy. Tì
nh cờ tôi đến một ngôi nhà lớn, mà bảng hiệu làm tôi chú ý: “Nhà Băng Đông Dương”.
Ngập ngừng một phút, tôi cũng chẳng hiểu vì sao, tôi bước vào. Quả nhiên, đúng là ngày may mắn của tôi. Vừa bước vào trong, tôi trông thấy ông Ganay, chủ nhà băng của vùng Đông Nam Á. Bốn mắt gặp nhau, ông ta nhận ra tôi ngay và tiến tới gần, với hét ngạc nhiên tột bực. Ông bảo cho tôi biết là đang đi thanh tra ở Hong Kong, và hỏi hiện tình của tôi nay thế nào?
Nói vắn tắt mấy lời, tôi cho ông biết sự đến Hong Kong, và hoàn cảnh rỗng tuếch của tôi hiện tại. Tôi cũng hỏi ông xem có thể ứng trước cho tôi mượn ít tiền. Lập tức, ông đưa cho tôi khoảng 2.000 đô la Hong Kong. Vài hôm sau nữa, cũng bất ngờ, tôi lại gặp Cơ quan Truyền giáo Pháp ở ngoại quốc, họ sẵn sàng cho tôi mượn tiền, lấy bảo đảm ở tài sản của hoàng gia. Thế là tôi thoát những lo âu về tiền bạc, được một thời gian kha khá. Tôi liền đến ngụ ở khách sạn Gloucester Hotel ở đường Queen’s Road. Cạnh đó, có một chiếc building, mà tầng cuối cùng là nhà hàng Le Paramount là nhà hàng có máy lạnh duy nhất ở Hong Kong. Trong bầu không khí ngột ngạt của thành phố, đây là chỗ nghỉ ngơi đặc biệt dành cho du khách, và phải nói thực rằng, gồm đủ loại người, bọn anh chị giang hồ, buôn lậu, gián điệp, thường thấy ở những thành phố quốc tế trên thế giới. Có cái lợi, là không ai biết tôi là ai. Cũng không phải là điều thích thú gì khi tự cảm thấy lúc nào cũng như bị theo dõi, bị kiểm soát, ở ngoài đường, trong khách sạn, ở trên sân golf hay sân tennis. Từ nhỏ, tôi không quen bị như thế bao giờ.
Ít lâu sau đó, tôi gặp ở khách sạn Hong Kong một người Pháp muốn gặp tôi. Đó là ông Yole, thám tử riêng của tòa Lãnh sự chịu trách nhiệm kiểm soát các người Việt qua lại Hong Kong. Sau khi giới thiệu, ông ta tự nguyện đặt dưới sự điều khiển của tôi, và cho biết tháng nào ông cũng qua Sài Gòn, nên có thể làm liên lạc dễ dàng được. Chúng tôi thường gặp nhau, và lần nào, ông ta cũng cho tôi biết các tin tức thật quí báu cho tôi.
Nhờ vậy, trong tháng mười, ông ta đưa cho tôi toàn văn bức thư ngỏ gửi Hồ Chí Minh, trong khi ông này đang sửa soạn sang Paris. Dù là thực hay giả, bức thư này cũng được các báo ở Pháp phổ biến trong thời gian ấy. Nó chứng tỏ những khó khăn của ông Hồ, ngay từ nội bộ đảng của ông ta, thêm những khó khăn ông phải đương đầu, với tư cách lãnh đạo quốc gia:
“Được biết cụ và một phái đoàn sắp sang Pans, để ký kết một hiệp ước nhất định về nền độc lập của Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, chúng tôi gửi cụ bức thư ngỏ này:
“Chúng tôi là những kẻ sống sót của một nhóm nhỏ những người do cụ lập nên năm 1925, tức là kể từ ngày mà cụ rời bỏ nước Pháp để đi ra ngoại quốc, chúng tôi đã chiến đấu theo chủ trương của cụ là chiến đấu cho nền độc lập hoàn toàn của Việt Nam, để giải phóng những người vô sản, khỏi sự bóc lột và đè nén của bọn tư bản thực dân, bọn quan liêu phong kiến, bọn ác bá cường hào, chiến đấu để dẫn dắt người vô sản Việt Nam vào con đường cách mạng dân tộc xóa bỏ giai cấp. Trung thành với chủ thuyết đó, chúng tôi đã lập ra phong trào đun đúc Việt Nam liền mà chính cụ tạo nên động lực chính, trước khi rời bỏ nước Pháp, phong trào được tất cả các chiến hữu bạn ở nước thuộc địa Phi châu ủng hộ, do tờ báo Le Paria (Kẻ cùng khổ) ở Paris, đăng tải, mà cụ đã trao lại cho chúng tôi. Chúng tôi cũng cho phổ biến cuốn sách “Bản án đối với chính sách thuộc địa Pháp” (Procès de la colonisation française) mà cụ đã soạn thảo chung với cụ Nguyễn Thế Truyền. Chúng tôi củng tổ chức và tìm đồng chí, để gửi họ vào trường cao đẳng chính trị đào tạo cán bộ cộng sản ở Moscou.
“Trong số một dúm đảng viên ấy, nhiều đồng chí đã trở về nước để chiến đẩu. Rất nhiều người đã hy sinh mạng sống, người bị tù đầy ra Côn Đảo, người bị đưa sang Guyane. Còn những anh em khác vẫn còn đang chiến đấu.
“Tình hình sự việc buộc chúng tôi phải nhắc lại những chi tiết nhỏ nhoi này, chỉ với mục đích tường trình với cụ, là tư tưởng của cụ đã được chúng tôi thâm nhập dứt khoát, đã nuôi dưỡng trong đầu óc chúng tôi sự tin tưởng không gì lay chuyển nổi. Sự tin tưởng được cụ gieo rắc càng cao bao nhiêu, chúng tôi càng tin tưởng vào cụ bấy nhiêu, vì chúng tôi đã coi cụ là hiện thân của tư tưởng đó của toàn thể giới thanh niên lao động cần cù của nước Việt Nam.
“Thêm vào đấy, một số đồng chí trong đảng ta đã từng gặp cụ ở Moscou hay ở Hội nghị chống thực dân ở Bruxelles. Trong khi bàn cãi về vấn đề Việt Nam, họ đã thấy tư tưởng cách mạng quá khích của cụ: quốc gia độc lập hoàn toàn; giải phóng dân thợ và dân cầy.
“Năm ngoái, khi toàn thể nhân dân đứng lên để chống lại đế quốc Pháp, chúng tôi được biết là chính cụ đã lãnh đạo phong trào ấy, chúng tôi vô cùng sung sướng và tin tưởng rằng phong trào phải đưa đến sự giải phóng vô sản ở Việt Nam. Khi đọc lời tuyên ngôn của cụ cũng như đọc các báo chí ngoại quốc, hồi tháng hai vừa qua, tin tưởng của chúng tôi càng gia tăng: tin tưởng vào chính phủ lâm thời đã quyết chiến đấu đến cùng, dù có phải hy sinh đến hai triệu người, toàn thể nhân dân Việt Nam củng rất sẵn sàng, cốt thu hồi được liến độc lập của mình.
“Trong hơn hai mươi năm, cụ đã nuôi dưỡng tình thần cách mạng, cụ truyền bá chủ thuyết cách mạng, cụ tổ chức và đào tạo cán bộ cách mạng, và ngày nay, khi bắt tay vào thực tế, cụ lại thoái lui, cụ phản bội lại chính tư tưởng của cụ. Khi phản bội lại tư tưởng của cụ, cụ phản bội luôn số phận lớn lao của toàn thể nhân dân Việt Nam…
“Tóm lại, chúng tôi tạm khuất tín rằng nhân dân Việt Nam chỉ tạm thời mất niềm tin nơi cụ, có thể, họ sẽ tạm thời thua một keo đầu. Nhưng, mục đích mà họ theo đuổi, vẫn chưa đạt, thì nhanh hay chậm họ vẫn phải tiếp tục con đường mà cụ chưa đưa tới đích cuối cùng mà họ đợi chờ. Họ sẽ theo đuổi cho đến ngày được độc lập hoàn toàn, được giãi phóng hoàn toàn. Paris, ngày 4 tháng 4 năm 1946.
Ký tên:
Hoàng Quang Giụ, Vũ Văn Tân, Nguyễn Văn Tư.
Thời gian cứ qua đi, ngày nào cũng giống ngày nào. Vài cuộc gặp gỡ ở khách sạn Gloucester. Chính tại đây, vào trung tuần tháng 11, tôi thấy Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đến tìm. Ông này trước là giám đốc Phong trào Thanh niên Nam bộ, dưới thời Trần Trọng Kim, rồi làm bộ trưởng không bộ của chính phủ lâm thời năm 1945, nay là chánh văn phòng của Hồ Chí Minh.
- Hoàng thượng, tôi đến từ Quảng Châu (Canton) và tôi được Hồ chủ tịch trao cho sứ mạng tìm gặp Ngài. Chủ tịch gửi lời kính thăm Ngài, và yêu cầu tôi đệ trình Ngài cái này.
Nói xong ông ta lấy từ trong cặp ra, một gói giấy mà ông đưa cho tôi. Đây là mấy lạng vàng lá. Với số này, tôi có thể sống được vài tháng.
- Xin ông gửi lời tôi đa tạ chủ tịch về những lời thăm hỏi và cho quà. Nay xin ông cho tôi biết tình hình sang Pháp của chủ tịch ra sao.
- Chủ tịch đã về nước hôm 21 tháng 10. Cụ đi tàu Dumont d’Urville…
Tên chiếc tàu này, gợi cho tôi kỷ niệm đã đi tàu đó từ Sài Gòn ra Tourane cách đây mười lăm năm, khi tôi từ Pháp trở về.
- Tại Hải Phòng và Hà Nội - Phạm Ngọc Thạch nói tiếp - dân chúng hoan hô nhiệt liệt, và Quốc hội đã tặng cụ danh hiệu là “Đệ nhất Công dân Việt Nam”. Sau đó, cụ lập tân chính phủ, theo “đường lối quốc gia,” trong đó cụ vừa làm chủ tịch vừa giữ Bộ Ngoại giao. Giáp là bộ trưởng Quốc phòng, Phạm Văn Đồng vẫn giữ bộ Tài chánh. Và chủ tịch vẫn muốn giữ Hoàng thượng là cố vấn tôi cao chính phủ.
- Xin ông nói với Cụ chủ tịch là tôi rất lấy làm vinh hạnh về sự tín nhiệm của cụ. Nay ông hãy cho tôi biết tình hình, kể từ ngày tôi sang Tàu.
- Thưa Hoàng thượng, hẳn Ngài đã biết, theo thỏa thuận của hiệp định mùng 6 tháng 3 (4), người Pháp đã trở lại. Đã tổ chức nhiều lễ tiếp đón, đối với Tướng Leclerc khi tới Hà Nội. Chủ tịch đã rất hợp ý với Tướng Leclerc, là để phái đoàn ta sang Pháp để cụ thể về nền độc lập và thống nhất của nước ta. Đã mở ra ở Hà Nội, một hội nghị kể từ ngày 17 tháng 4 để chuẩn bị cho cuộc viếng Pháp này. Chính Nguyễn Tường Tam cầm đầu phái đoàn, có Giáp, Vũ Trọng Khanh, Hoàng Xuân Hãn, Cù Huy Cận… Cũng có thêm cả đại diện Nam bộ nữa. Ngay lúc đầu, đại diện của mình đã biết Pháp không thành thật. Bởi vì, cái gì đúng ở Hà Nội, lại không đúng ở Sài Gòn, và nguyên tắc về sự sát nhập của Nam kỳ được để ra xét lại. Cuộc bàn cãi kéo dài đến ngày 11 tháng 5.
Chỉ đến ngày mùng 6 tháng 7 hội nghị mới bắt đầu họp, mà lại ở Fontainebleau, chứ không phải ở Paris, như họ đã từng hứa hẹn. Phạm Văn Đồng phụ tá cho chủ tịch của chúng ta. Nhưng đến cuối tháng 7, thì ai cũng biết rằng không thể đạt được kết quả gì ở hội nghị này. Người Pháp đã từ chổi tất cả mọi sự bàn cãi về vấn đề Nam bộ, trước khi tổ chức trưng cầu dân ý, theo như thỏa ước mùng 6 tháng 3. Nhưng sự trưng cầu dân ý không thể thực hiện được trước sự xáo trộn chưa yên hẳn ở miền Nam và người Pháp lại không chấp nhận bất cứ tổ chức ngưng bắn nào để thể hiện lệnh đình chiến. Thật là cái vòng luẩn quẩn đốn mạt. Vì thế, chúng ta giữ vững lập trường: Nước Pháp phải công nhận thống nhất ba kỳ lên trên hết. Ngày mùng 2 tháng 8, không báo trước, người Pháp đề nghị mở một hội nghị thứ hai ở Đà Lạt, chúng ta không được mời dự. Thật không còn hy vọng gì nữa. Sau một tháng rưỡi chờ đợi, Hồ chủ tịch quyết định trở về.
Tuy nhiên, để tỏ sự thành thực và thiện chí của dân tộc Việt Nam, cụ đã chấp nhận ký với viên bộ trưởng Pháp Marius Moutet, một bản thông cáo chung, cam kết giữa Việt Nam và Pháp cái gọi là Medus Vivendi “Bản tạm dung sống còn”.
Tôi đã đọc trên các báo Hong Kong những bài nói về sự thất bại của hội nghị Fontainebleau, và tôi có thể đến tòa lãnh sự Pháp để lấy bản sao của Medus Vivendi kia. Thật sự, nếu Hồ Chí Minh nhận bản tạm dung này vào phút chót, chính là bởi ông ta không muốn trở về Việt Nam với hai bàn tay trắng, vì sợ mất mặt. Tôi cám ơn Bác sĩ Thạch và bảo ông ta:
- Tôi nghĩ rằng sự thỏa thuận này, sẽ dự trù vào khoảng tháng giêng 1947, sự tiếp tục hội nghị Fontainebleau, vì vậy, xin ông nói với Chủ tịch Hồ Chí Minh là tôi muốn đợi đến ngày ấy sẽ trở về Hà Nội.
- Thưa Hoàng thượng, tôi nghĩ rằng Hồ chủ tịch vẫn mong muốn Hoàng thượng cứ lưu trú tại Hong Kong trong thời gian ấy, vì Hong Kong là nơi quan sát tốt. Tuy nhiên, chủ tịch cũng muốn Hoàng thượng nên cảnh giác người Pháp, và đề phòng tất cả bọn Việt gian làm tay sai cho Pháp.
Đối với tôi, sự việc đã rõ rệt. Hồ Chí Minh chẳng ưa gì tôi. Trước đây, ông ta muốn đẩy tôi đi khi người Pháp quay trở lại, và giữ tôi ở thật xa khi có hội nghị Đà Lạt và Fontainebleau, thì bây giờ ông cũng không mong tôi trở về khi các cuộc bàn cãi với Pháp đang thực hiện.
Vài hôm sau nữa, thật là cả một phái đoàn mà tôi tiếp nhận ở khách sạn Gloucester. Những người từ Quảng Châu lại có ba lãnh tụ quốc gia là: Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam của Việt Nam Quốc Dân Đảng, và Nguyễn Hải Thần thuộc Đồng Minh Hội. Họ đã bỏ chạy từ Hà Nội kể từ tháng bảy, do bọn đặc công của Giáp tung ra đối với cánh quốc gia, trong thời gian Hồ Chí Minh đi vắng. Họ kể cho tôi nghe sự tàn sát của Việt Minh đối với phe quốc gia.
Lấy cớ là phe quốc gia đã dựa vào quân đội Tàu để khủng bố Việt Minh và Pháp, nay Võ Nguyên Giáp, khi quân Tàu vừa rút đi, liền tung ra một mẻ lưới, với sự phối hợp của công an, nhân dân tự vệ thành, và dân quân để tiêu diệt hết phe quốc gia. Khám nhà, bắt người, bắt cóc, tịch thu báo chí, làm không khí thật khó thở, rất sôi động ở Hà Nội. Tại các tỉnh, còn ghê gớm hơn. Hai bên đã dàn quân, đánh nhau thành trận chiến hẳn hoi.
Trong thời gian đó, cơ quan tuyên truyền của Việt Minh tìm cách bôi nhọ họ trước mắt nhân dân. Đó chính là Giáp và thủ hạ của hắn đã hại nước. Họ tái đặt các thứ thuế khóa, và đem bán tất cả nguồn nguyên liệu của Việt Nam: quặng mỏ, thuốc phiện, kể cả gạo, trong khi dân chúng đang chết đói. Do mất mùa, ít nhất một triệu rưỡi nhân dân đã chết vì đói. Và trong thời gian đó, Việt Minh tịch thu hết cái gì có thể sử dụng được. Công tác độc nhất của họ chỉ là tìm tiền, để mua võ khí, thế thôi.
Vũ Hồng Khanh trình tôi:
- Thưa Hoàng thượng, Giáp đang sửa soạn chiến tranh. Phạm Ngọc Thạch gần đây đến Quảng Châu, chính là do mục đích đó.
Cả ba người đều thề trung thành với tôi:
- Dân tộc Việt Nam đa số đang chờ đợi Hoàng thượng ra lệnh. Kể từ hôm nay, Hoàng thượng có thể tin cậy ở nơi chúng tôi.
Vài hôm sau nữa, thì đến Trần Trọng Kim cũng đến tìm tôi, có thêm nhiều lãnh tụ quốc gia tiếp theo sau nữa. Ông ta cũng đến từ Quảng Châu, và họ đã gặp nhau ở đấy. Ông ta nhấn mạnh cho tôi biết, chằng có cái gì hơn trước, với người Pháp, mặc dù có Medus Vivendi. Nhiều cuộc đụng độ nặng nề trong các thành phố, và ở vùng thượng du Bắc kỳ, quân Pháp từ Tàu trở về, sau một thời gian lánh mặt, sau vụ mùng 9 tháng 3 năm 1945. Họ theo đường mòn mà trở lại. Ở Hà Nội, người Pháp đã tái chiếm phủ Toàn quyền cũ, mà chính phủ Việt Nam đã tuyên bố là cộng sản quốc gia.
Chính Giáp đã cầm đầu chiến dịch này. Ông ta ra lệnh cho tất cả mọi công dân Việt Nam, bất kể tuổi tác, phải tập thể dục hàng ngày vào buổi sáng ở ngay trên các đường phố. Thế mà, dân chúng bắt đầu chán nản về những cuộc tụ họp, biểu dương, bất cứ dưới lý do nào. Người ta có cảm tưởng rằng, viên bộ trưởng Quốc phòng này đang tìm cách khiêu chiến Pháp, đến độ cho đào các hố ở trên đường, và dựng các chướng ngại vật ngay trên đường lộ, giữa thành phố Hà Nội, và ngay trước mũi của các đồn binh Pháp. Trong những trường hợp ấy, chẳng ai lấy làm lạ là các vụ đụng chạm gia tăng mãi lên. Nhiều vụ tỏ ra rất lớn như ở Bắc Ninh, vào tháng tám, làm chết 15 binh sĩ Pháp, và bị thương đến trên 30 người khác.
Trần Trọng Kim hỏi tôi:
- Tâu Hoàng thượng, Ngài định sao bây giờ?
- Tôi đợi ông Hồ mời tôi về Hà Nội.
- Dạ không nên. Hoàng thượng mà trở về bây giờ, thì nguy hiểm lắm. Tại sao Ngài không đi Nam Kinh, cạnh Quốc dân đảng Trung Hoa, họ vẫn mời Ngài?
- Không, tôi không bao giờ đi Nam Kinh cả. Quốc dân đảng Tàu mất hết tín nhiệm rồi. Tưởng Giới Thạch đã không chống đỡ nổi áp lực của cộng sản, và chỉ trong một thời gian ngắn hay dài, họ Mao sẽ thắng. Trong thời gian tôi ở Trùng Khánh, tôi đã nhận thấy sự xuống dốc của phe quốc gia Trung Hoa, nhất là trong quân đội. Không còn có kỷ cương nào nữa. Tìm vào với họ, hay nhờ họ giúp đỡ, giữa lúc họ đang tan rã này, quả là một nhầm lẫn lớn…
Ngày 30 tháng chạp, các báo ở Hong Kong loan tin súng đã nổ ở Hà Nội, và trên toàn lãnh thổ Đông Dương. Bắt chước cuộc hành quân chớp nhoáng của Nhật ngày mùng 9 tháng 3 năm 1945, Hồ Chí Minh đã chọn giải pháp chiến tranh. Sau sự bất ngờ ban đầu, quân Pháp đã trấn tĩnh lại được. Đây là chiến tranh rồi. Cuộc chiến mà tôi vẫn muốn tránh cho dân tộc tôi… Vậy thì cái gì sẽ xảy ra đây?
Đành rằng, Việt Minh sau sự thất vọng ở Fontainebleau, chỉ còn giữ được uy tín bằng cách đưa cả nước vào trong biển máu. Như vậy, Hồ Chí Minh đã trung thành với nguyên tắc của cách mạng. Không ai làm cách mạng mà không đổ máu bao giờ. Các nhà cách mạng rất cần sự đổ máu khai lộ này, để làm lệch hẳn cán cân trật tự trong những xã hội, mà họ muốn thay quyền, nên cần phải tạo ra điều kiện cần thiết bạo tàn này.
Vụ nổ súng ngày 19 tháng chạp gây một mối xúc động lớn lao trong phe quốc gia, vì họ đang tìm cách tranh giành ảnh hưởng đối với Việt Minh, nên họ đã không thể theo sau cộng sản để đi vào con đường bạo động này. Vì vậy, rất nhiều người Việt Nam đã đổ xô cả đến Hong Kong mỗi ngày một nhiều.
Thế là, qua Yole báo, tôi được biết có Phan Văn Giáo tới. Ông ta xin gặp tôi. Tôi tiếp ở khách sạn nơi tôi trú ngụ. Người này tôi biết từ Huế, đó là một dược sĩ, vốn là tay quần vợt có hạng ở Huế, ông ta thuộc về nhóm của Ngô Đình Diệm, khi ông này giữ chức thượng thư bộ Lại trước năm 1933.
Tôi tiếp ông ta một cách lạnh nhạt:
- Anh sang đây làm gì? Anh muốn gì? Anh muốn giữ chức gì? Có phải định làm mật thám cho người Pháp không?
- Thưa Hoàng thượng, không - ông ta đáp - Tôi đến đây để phục vụ Ngài. Tôi xin hoàn toàn tự đặt dưới sự sai khiến của Ngài, làm kẻ hầu hạ cũng được, nếu Ngài bằng lòng.
- Được, tôi đáp. Anh có thể ở luôn đây ngay tự bây giờ.
Ông ta kể cho tôi nghe, những điều mà ông ta biết về ngày 19 tháng chạp, và những ngày kế tiếp. Tất cả các tỉnh miền Bắc đều bị những tổ chức tự vệ lao vào các người Pháp, thật kinh khủng. Nhưng không phải chỉ có người Pháp là nạn nhân, mà còn cả đông người Việt cũng bị tàn sát, vì họ đã tỏ ra không mấy hoan nghênh Việt Minh. Vụ khủng bố này đã xảy ra cả tháng trước, ở Hải Phòng. Do một sự bất đồng ý kiến về kiểm soát thương chính, súng đã nổ. Cuộc đụng chạm đã lan tràn mau chóng, gây chết chóc cho cả ngàn tự vệ quân và binh sĩ Pháp. Để trả thù, bọn Pháp dùng trọng pháo, và nhờ ưu thế về võ khí, quân Pháp chiếm hết thành phố, làm dân chúng bỏ đi hết.
Chính phủ Việt Nam phản đối. Người Pháp càng cứng rắn và ra những điều kiện không thể chấp nhận được. Cuối cùng, ngày 19 tháng chạp đã nổ tung. Các trại quân Pháp rõ ràng đã được báo trước, phản ứng rất mau lẹ, và kiểm soát dần dần toàn thể thú đô. Nhưng đối với các tỉnh lớn khác ở Bắc kỳ, nửa tháng sau, vẫn còn đánh chiếm từng khu phố.
Tôi thật khó mà tin được sự nổ súng lại mãnh liệt đến độ ấy, thế nhưng nghe lời kêu gọi của Hồ Chí Minh vẫn tung ra hằng ngày, thì quả không còn phải ngờ gì cả.
Sự chuẩn bị trước đã rõ rệt. Nguyễn Đệ, cố vấn kinh tế của chính phủ, đến Hong Kong sau Giáo vài ngày cũng kể cho tôi nghe là ông ta được chủ tịch gọi đến vào trước ngày 19 tháng chạp, và cấp cho một chiếu khán, hầu có thể nhờ dân quân và tự vệ che chở hay giúp đỡ. Như vậy thì trách nhiệm của chủ tịch không còn phải ngờ. Trước đây, tôi đã tưởng Giáp phải chịu trách nhiệm ấy, nhưng tất cả các yếu tố đều phù hợp, chính Hồ Chí Minh đã chọn chiến tranh. Vì biết trước tôi cương quyết chống bạo động với bất cứ giá nào, ông ta đã tìm cách đẩy tôi ra xa.
Giáo đã sống ở Sài Gòn trong nhiều tháng trước đây, cho biết các tiến trình hoạt động ở Nam kỳ. Tại đây, sự tuyệt vọng còn lớn lao hơn nữa. Qui chế dành cho xứ này, thật sự cũng chẳng đem đến độc lập gì. Ý thức được rằng mình đã bị lừa, viên bác sĩ đau khổ Thinh, chẳng có một tí quyền gì, cũng chẳng một mảy may uy tín nào, đã tự tử ngày 10 tháng chạp.
Sau vài ngày sống ở Hong Kong, Giáo bảo cho tôi biết phải trở về Sài Gòn, để thu xếp việc nhà, và sẽ nhân dịp này để tìm kiếm tin tức về gia đình tôi nữa.
Trong khi ông ta đi vắng, tôi được cơ quan công an Hong Kong mời tới trụ sở. Được viên chánh mật vụ tiếp, tôi hỏi ông ta lý đo về sự mời này. Ông ta đáp:
- Kể từ ngày mà Ngài tới Hong Kong về tháng mười vừa qua, Ngài đã trú ngụ ở nhiều khách sạn. Chúng tôi đã biết rõ tông tích của Ngài ngay tự hôm đầu rồi…
Hơi ngạc nhiên, tôi hỏi ông ta định đưa đến đâu. Ông ta lễ độ giải thích:
- Chúng tôi nhận được lệnh phải giữ an ninh cho Ngài. Ngài không có thể thay đổi nay khách sạn này, mai khách sạn khác. Vì vậy, chúng tôi sẽ dành cho Ngài một ngôi biệt thự, việc đó giúp chúng tôi những biện pháp bảo vệ dễ dàng, và chúng tôi xin Ngài nên báo cho chúng tôi biết, những khi di chuyển. Hai thám tử vận thường phục được đặt dưới quyền sai khiến của Ngài.
Đó là sự nhã nhặn của người Anh. Tôi nhận lời, và ngụ tại một ngôi biệt thự xinh xắn ở mũi Republic Bay, trong đảo Victoria.
Từ khi tôi đến ngụ ở Republic Bay, căn biệt thự này trở thành cục nam châm thu hút mọi người. Khách khứa dập dìu, thật đông như hội. Tôi không để bị che mắt bởi cái ảo ảnh của thanh thế bất ngờ này. Như trước đây, Thierry D’Argenlieu đã nói là giải pháp Hồ Chí Minh đã thất bại. Nay gió đã đổi chiều. Trong số khách thăm viếng này, người thì đến để theo phò, người thì đến để thăm dò đường lối cho Pháp hay cho nước khác. Bác sĩ Phan Huy Đán, Luật sư Đinh Xuân Quảng, cả hai đều thuộc phe xã hội, thêm Việt Nam Quốc Dân Đảng Trần Văn Tuyên, đều từ Quảng Châu sang. Người em họ trung thành với tôi, Vĩnh Cẩn cùng người em khác trẻ hơn, là tay đá banh nổi tiếng Vĩnh Tường, và Phan Văn Giáo tạo thành cái nhân vĩnh viễn thân cận. Rồi đến quí vị khác khá danh tiếng như Bác sĩ Lê Văn Hoạch, thuộc nhóm Cao Đài, cựu phó phủ tưứng Nam bộ, Phạm Văn Bính, Ngô Đình Diệm trước tôi tưởng là tai mắt của Mỹ, Phạm Công Tắc, giáo chủ Tây Ninh, Lê Văn Soái, tướng Hòa Hảo, v,v… Tất cả các nhân vật đó đều đưa ra ý kiến và đồng nhất về chính trị, nhấn mạnh là tôi phải trở về, để đem lại hòa bình cho đất nước.
Phan Văn Giáo nói:
- Nếu Hoàng thượng trở về là đáp ứng đúng với nguyện vọng của toàn dân, vì ai cũng mong có hòa bình. Dân chúng cũng lại biết rằng, chính Hoàng thượng cũng muốn có hòa bình. Còn người Pháp, thì họ sẽ rất sung sướng đã gặp được người có thể tiếp tục cuộc đàm phán.
- Đồng ý là dân chúng muốn hòa bình rồi, nhưng dân chúng còn muốn hơn hết, là phải có độc lập nữa. Dân chúng có thừa khả năng để hy sinh vô độ cho nền độc lập ấy. Người Pháp phải ý thức cái nguyện vọng ấy, mà nay chưa có, và thái độ của họ trong thời gian gần đây, làm cho ta ngờ thiện chí của họ…
Bây giờ, số lãnh tụ quốc gia lưu vong ở Quảng Châu ngày càng nhiều. Hoàn cảnh vật chất của họ trở thành khó khăn, họ chạy đến tôi. Tôi báo với Yole, ông này đưa tôi gặp lãnh tụ Pháp là ông Joubert. Joubert bảo để xét vấn đề. Thật vậy, ít lâu sau, Yole từ Sài Gòn sang vì vẫn đem tin tức hằng tháng đến cho tôi, đã đưa cho tôi 5.000 đô la Hong Kong. Tôi không hỏi nguyên do tiền ở đâu, nhưng tôi biết chắc do quỹ này của Đô đốc phát ra. Tôi liền cho phân phát cho các anh em quốc gia này, họ cũng chẳng biết là ai đã viện trợ cho họ nữa. Tôi thấy khá lý thú là chính phủ Pháp lại cứu trợ cho các nhà ái quốc Việt Nam. Từ đó, thường thường Yole bổ sung ngân khoản cho tôi. Tất nhiên, các vị hưởng thụ đều cho rằng tôi là ân nhân của họ. Thỉnh thoảng, Yole chậm đem tiền đến, và trước sự kiệt quệ của tôi, các huynh đệ quốc gia này liền đá hậu tôi một phát, bằng cách đăng vài bài báo trên mấy tờ báo địa phương. Tới khi tôi đã thỏa mãn được họ rồi, thì mọi sự lại trở lại trật tự tốt đẹp. Nhờ có tiền ngoại tệ ấy, thêm một vài sự rỉ tai khéo léo, tôi có được khả năng biết giá cả đồng bạc lên xuống ở Hong Kong.
Thêm vào đấy là sự ra đi của Đô đốc Thierry D’Argenlieu (5). Là một nhân vật chống cộng triệt để, thế mà ông ta phải làm đại diện cho một chính phủ thiên tả, do chính phủ này có nhiều đảng viên cộng sản tham dự và nâng đỡ. Chắc chắn, vì thế ông mất đường hướng chính trị, kể từ ngày mà Đại tướng De Gaulle rời bỏ chính quyền.
Tất nhiên, đường hướng mà nước Pháp theo đuổi, hay đúng hơn, những hành động do các cơ quan phát ra hàng ngày, phần lớn đều do ảnh hưởng của nội bộ chính trị nước Pháp nhiều hơn là do thực tế của vấn đề Việt Nam. Khổ một nỗi, hoàn cảnh này lại kéo dài rất lầu, quá lâu…
Trung tuần tháng giêng năm 1947, một nhân viên thuộc cơ quan cai trị Đông Dương tên gọi Cousseau được bổ đến tòa Tổng lãnh sự Pháp ở Hong Kong. Ông này thuộc nhóm của Sainteny và nói tiếng Việt Nam rất sõi. Ông ta rất thông thạo văn hóa Việt Nam, đến độ có thể thấu triệt được tinh thần của các nhà nho ở nước tôi. Không lâu lắm, tôi hiểu ngay, ông ta đổi đến Hong Kong chẳng phải là do một sự thuyên chuyên nhân sự tầm thường nào…
Cuộc nổ súng ngày 19 tháng chạp đã đẩy Việt Minh vào cuộc chiến du kích. Đây là một lỗi lầm rất lớn lao. Nhưng trách nhiệm về ai đây?
Giáp chắc chắn đã dự vào sự chuẩn bị, nhưng có lẽ đến phút cuối cùng, ông ta đã hủy bỏ lệnh tấn công, vì quân đội chính qui không tham dự. Phải chăng chính là Hồ Chí Minh để thỏa mãn tự ái bị thương sau hội nghị Fontainebleau, nên đã đẩy cả nước vào con đường đẫm máu này? Thế nhưng tại sao lại có những sự lạm dụng như đã xảy ra ở Huế, là tàn phá tất cả các cầu cống, và các công trình kiến thiết của hoàng cung? Và sau rốt, tại sao các cơ quan dân sự ở Sài Gòn lại không phải san sẻ trách nhiệm này, khi tự đặt lên thành một chính phủ lâm thời Nam bộ, nó vốn là một hình thức khiêu khích?
Dù sao nữa, khiêu khích hay không, sự cố ý gây chiến tranh đã không thể chối cãi.
Giờ đây, sự thất bại đã đem lại một hậu quả nặng nề cho Việt Minh, và uy tín của họ đã bị sứt mẻ, và đường lối sai lầm của họ, đã được chính nhân dân nhận thức lấy. Tại sao, họ lại gây ra hành động tai hại này, làm đổ máu bao cố gắng chính trị lèo lái khó khăn, để đưa cả nước vào mệt cuộc chiến dài, rất dài này?
Cái gì sẽ xảy ra cho Việt Nam nếu không có vụ nổ súng ngày 19 tháng chạp năm 1946?
Chú thích
(4) Xin xem bản phụ đính. Mặc dù sự vô tín nhiệm của người Pháp, chủ tịch vẫn đi Pháp vào ngày 31 tháng 5. Chủ tịch rất kỳ vọng ở cuộc gặp gỡ với chính phủ Pháp, thế nhưng khi cụ đến nơi, thì Pháp lại không có chính phủ. Điều quan trọng nhất, là ngày hôm sau ngày cụ sang Pháp, tức ngày 1 tháng 6, người Pháp đặt ra một chính phủ lâm thời của xứ Nam kỳ tự trị, do Bác sĩ Thinh cầm đầu. Đây là chứng cớ của sự gian ngoan của Pháp.
(5) Đô đốc Thierry D’Argenlieu được bổ làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương ngày 17 tháng 8 năm 1945. Ông rời bỏ nhiệm sở ngày 24 tháng 2 năm 1947. Như vậy, Hoàng đế Bảo Đại không có dịp gặp ông.