Tiến tới một giải pháp
Hai ngày sau, tôi được biết qua tin các báo là ông Bollaert không xin tái nhiệm nữa. Và ngày 21 tháng 10 năm 1948, chính phủ Pháp cử ông Léon Pignon làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương. Tôi từng biết danh tiếng của ông ta, từng là cố vấn chính trị của Jean Sainteny, rồi của Đô đốc Thierry D’Argenlieu, trước khi làm Thượng sứ Pháp ở Cam Bốt. Vốn là người thuộc ngành cai trị thuộc địa, ông ta được tiếng là rất thành thạo các vấn đề và hoàn cảnh ở Việt Nam.
Hoàn toàn bình phục, tôi trở về Cannes. Tại đây, vị tân Cao ủy Đông Đương đến xin gặp tôi.
Khác xa vài người tiền nhiệm của ông ta, sự nhã nhặn và lịch sự của ông giúp chúng tôi dễ dàng trong cuộc tiếp xúc đầu tiên. Phải chăng đây là bước đầu cho sự thông cảm lớn hơn xưa? Ông Pignon trình bày một cách giản dị và khiêm tốn nhận định của ông về Việt Nam, tình huống mà ông ta phải đảm đương công tác, còn trách nhiệm lớn lao nằm trong tay viên Bộ trưởng bộ Pháp quốc Hải ngoại là ông Coste Floret.
- Thưa Hoàng thượng, tôi mong rằng sự tín nhiệm được văn hồi giữa Hoàng thượng và chính phủ Pháp, đó là một điều kiện cần thiết, nếu chúng ta muốn tiến mãi lên nữa.
- Hơn ai hết, thưa Ngài Cao ủy, tôi là người mong muốn nhiều nhất về sự tín nhiệm hỗ tương đó, nhưng cho đến nay, tôi chưa được đền đáp xứng đáng, điều mà tôi đã dành cho nước Pháp.
- Thưa Hoàng thượng, điều kiện thứ hai cũng vô cùng quan trọng, đó là sự trở về Việt Nam cửa Hoàng thượng. Đây là chiếc chìa khóa mà chỉ có nó mới mở được của Ngài cho sự tái lập hòa bình mà thôi.
Tự dưng tôi đã cảm thấy không có gì thay đổi. Thừa hành nghiêm chính chính sách của chính phủ, ông Pignon cũng dùng chung một luận điệu của vị tiền nhiệm của ông ta. Ông ta cũng nôn nóng như người cũ vậy. Thế là tôi không nén được một phút bực mình:
- Thưa Ngài Cao ủy, tôi đã nhiều lần xác nhận vị trí của tôi với ông Bollaert rồi. Đó là với chính phủ của Tướng Xuân, mà quí vị có thể theo đuổi cuộc đàm phán…
Thật vậy, vì nước Pháp chẳng chịu thí cho một chút nhượng bộ nào, viên Thủ tướng sẽ không có thực quyền. Thiếu phương tiện tài chánh, không quân đội, không cảnh sát, ông ta sẽ bị lệ thuộc vào nền cai trị của Pháp, lúc ấy vẫn tiếp tục quản trị các công việc của Việt Nam.
Vậy thì chẳng ai còn phải ngạc nhiên, nếu vị trí của Việt Minh có củng cố lại được, dù có bị chúng tôi làm cho lung lay đến tận gốc rễ. Bộ máy tuyên truyền của Việt Minh tha hồ mà rêu rao Xuân là bù nhìn của Pháp. Người ta cũng chẳng còn ngạc nhiên hơn nữa, nếu vì chán nản và tuyệt vọng, mà nhiều đầu óc đã bắt đầu hoài nghi của những ai từng tin vào nước Pháp, dù đã được tôi bảo đảm đến mấy cũng mặc. Sau khi giải thích tất cả những chi tiết ấy cho viên tân Cao ủy, tôi nhấn mạnh:
- Thưa Ngài Cao ủy, hẳn Ngài thừa biết, trước những lý do đó, tôi không thể trở về Việt Nam được. Về cũng chẳng ích gì. Xin hãy ngưng ngay sự bảo hộ trá hình kia, và trả lại cho chúng tôi nền độc lập thực sự. Hãy trả lại cho chúng tôi đất Nam kỳ để cụ thể hóa nền thống nhất của đất nướe Việt Nam chúng tôi. Nước Pháp đã lầm lẫn là giữ tay này lại, mà tưởng là đã cho bằng tay kia. Nước Pháp đã lầm, và, chính là nhân dân nước Việt Nam phải chịu hậu quả của sự lầm lẫn ấy, hay hơn nữa, của sự phạm lỗi ấy.
Ông Pignon không nói gì. Tôi giữ ông ta lại dùng cơm sáng. Sau bữa ăn, tôi cố gắng đặt ông ta vào chỗ chia xẻ nỗi bi thảm của dân tộc tôi và những nguyện vọng của họ. Ông ta chỉ nói về những biến cố mà ông ta đã trải qua từ 1945 đến 1946 ở Hà Nội. Lợi dụng kẽ hở này, tôi bảo ông ta:
- Thưa Ngài Cao ủy, hẳn Ngài chưa quên là tôi vẫn được Việt Minh giả trá, mập mờ, đặt tôi vào vị trí cố vấn tối cao của họ…
Tôi nhắc lại cho ông ta là về thời ấy, tôi đã trao quyền cho Uỷ ban Cách mạng, và đứng vào hàng ngũ của họ, chính là để góp phần kiến tạo nền thống nhất và độc lập của Việt Nam, và để tránh cho dân tộc tôi nội chiến tương tàn. Việt Minh vì lý do làm tay sai cho cộng sản - mà lúc ấy chúng tôi chưa tường - đã phản bội hy vọng của chúng tôi. Nhưng, khi mà tôi từ bỏ chúng, thì nước Pháp lại đi điều đình với chúng. Vậy thì chính nước Pháp đã củng cố vị trí cho Hồ Chí Minh, cho đến ngày mà quí quốc hiểu thấu được những yêu sách của họ. Hơn nữa, nếu chính phủ Pháp có đoạn giao với “bác Hồ,” chính là bởi lý do sự đòi hỏi về độc lập và thống nhất của họ nhiều hơn là vì lý do họ là cộng sản quốc tế. Không còn giải pháp nào khác, nước Pháp đành phải quay sang tôi, hy vọng rằng tôi sẽ dễ dàng thỏa hiệp hơn họ, nhưng nước Pháp lại vấp phải sự đội hỏi của tôi y như của họ vậy.
Quả nhiên, người Pháp đã không hiểu biết tí gì về những sự kiện đã xảy ra ở Viễn Đông trong hai năm gần đây. Tất nhiên là chiến tranh rất tai hại và quá tốn kém cho một nước vừa ốm lại sức, nhất là cũng sợ ảnh hưởng của một viễn ảnh thắng trận rất có thể thành tựu của phe cộng sản ở Tàu, một cuộc thắng có thể gần như chắc chắn. Bởi vậy, tôi hiểu nước Pháp rất nôn nóng đạt kết quả, và ý đồ hòa bình của họ. Nhưng chính là ở người Pháp phải thủ tiêu quyền sở hữu của Việt Minh, và như vậy chỉ có một cách: trao cho tôi cái mà họ không muốn trao cho Việt Minh. Vì thế, tôi kết luận:
- Quí ông hãy nhấc cái mặt nạ cộng sản Việt Nam, giả trá là người quốc gia, mà họ đã thành công trong khi lừa bịp dân chúng và để chứng minh công khai trước dư luận quốc tế. Như vậy, thiếu căn bản ấy, Việt Minh sẽ không còn lý do tiếp tục chiến đấu, họ sẽ chỉ là một đảng phái như mọi đảng phái khác. Vì xin Ngài tin rằng thưa Ngài Cao ủy, chính tôi cũng rất mong muốn hòa bình.
Vài ngày sau, ông Pignon đi Sài Gòn. Tôi đi Paris, và gặp ông Coste Floret và Bác sĩ Henri Queuille, tân Thủ tướng Nội các. Ông này tiếp tôi rất niềm nở, và ông ta gần như hoàn toàn không biết gì về Đông Dương. Đó là hình ảnh gần như toàn diện của người Pháp trung lưu, hơi lè phè bệ vệ ít nhiều, có hàng ria mép tiêu muối. Ông nghe tôi nói với đầy thiện cảm. Trước mặt ông, tôi lại nhắc lại những dữ kiện mà tôi đã đàm thoại với ông Cao ủy.
Khi tôi nói đến sự cần phải loại trừ chủ quyền của Việt Minh, ông có vẻ đồng tình, và bảo tôi:
- Hoàng thượng rất có lý, nhưng cần phải chú trọng đến hiện tình chính trị ở Pháp, và chính chỗ đó mới là điều rắc rối. Chúng tôi sắp mở một hội nghị bàn cãi về Đông Đương ở trước Hội đồng. Tôi không dám chắc là đạt được đa số, vì tôi vừa bị phe cộng sản chống đối, khi không chịu nghe gì nếu không nói đến Hồ Chí Minh, lại vừa bị phe De Gaulle kịch liệt bỏ ngoài tai khi đem sát nhập xứ Nam kỳ vào Việt Nam, bởi họ đã coi như bỏ rơi một phần đất đai của Pháp.
Một ý nghĩ bỗng nảy ra trong óc tôi, tôi liền cắt lời ông ta:
- Thưa Ngài Thủ tưởng, nếu tôi lấy được phiếu của đảng Cộng hòa Dân chủ cho Ngài thì Ngài có đền đáp lại cho tôi sự trở về của Nam kỳ cho nước tôi?
Bác sĩ Henri Queuille hơi thoáng một nét cười láu lỉnh:
- Hoàng thượng vẫn có thể thử xem… Tôi không dám hứa hẹn gì với Ngài, vì sự đó không giải quyết riêng được vấn đề của Hiến pháp… Chúng ta sẽ liệu xem sao…
Tôi lại đến gặp Tướng Guillain de Benouville, nghị sĩ thuộc đảng De Gaulle mà tôi đã từng có dịp gặp gỡ, và trình bày ý kiến với ông ta. Ông ta khuyên tôi nên nói với một nghị sĩ khác, cũng ở đảng De Gaulle, là ông Terrenoire, được coi là tai mắt của De Gaulle.
Lập tức tôi đi Cannes và mời ông Terrenoire. Ông ta liền tới ngay. Hình thức thì ông ta cũng chẳng biết gì về Đông Dương y như vị Thủ tướng này vậy. Ông ta không chối điều đó, nhưng khi tôi nhắc lại những lý lẽ mà tôi vừa nói trên lần nữa thì ông ta nghe, ông ta nhìn tôi, với đôi mắt sáng quắc sau chiếc mục kính dầy cộm và đáp rằng:
- Thưa Hoàng thượng, Ngài nói rất hợp lý, và tôi chịu là đúng, nhưng tôi còn phải gặp Đại tướng, chỉ Đại tướng mới có quyền quyết định.
Và ông đã đi Paris ngay.
Hai hôm sau, tôi cũng lên Paris. Ông Terrenoire về đến Colombey (nơi ở của Tướng De Gaulle). Nhìn vẻ mặt ông ta, tôi biết là sự vận động của ông đã thất bại. Ông ta xác nhận với tôi:
- Đại tướng không chịu. Không thể bỏ một phần đất của lãnh thổ quốc gia Pháp. Xứ Nam kỳ là đất thuộc địa từ 1884, đây là đất Pháp. Đấy chính là điểm quan trọng nhất mà Đại tướng tỏ ra rất cứng rắn, không gì lay chuyển được.
Thật sự, tôi rất băn khoăn mà không muốn tỏ cho người đối thoại biết, nên giả trá làm như câu trả lời này không phải là nhất định, tôi bắt dầu tấn công. Một lần nữa tôi lên án bản Dự thảo về Thể chế, phụ đính vào bản Tuyên bố chung, nhấn mạnh đến chỗ mâu thuẫn giữa hai bản này. Rất bình tĩnh, tôi đặt trách nhiệm vào nước Pháp, trình bày giải pháp của tôi, kêu gọi tái lập hòa bĩnh, và tôi kết luận một cách mạnh mẽ thẳng thừng:
- Bất cứ một nền chính trị nào của Pháp cũng đều là sự điên cuồng, mất hướng. Quí ông tự nhận trước mắt thế giới là một nước Pháp mới, nước Pháp quảng đại của chiến thắng giải phóng. Quí ông không thể nào phạm vào điều điên rồ như thế này được. Quí ông sẽ hốì hận đau khổ, vì rồi đây điều mà quí ông không muốn tặng một cách vui vẻ và thân thiện thì quí ông sẽ bị giật mất trong máu và nước mắt.
Trong một bữa tiệc ở đại lộ Saint Germain, tôi lại gặp lại Tướng Benouville và rất đông đồng chí đảng De Gaulle của ông ta, trong đó có Gaston Palewki, Provost de Lauray…
Nhắc lại cảm tưởng mà tôi từng cảm thấy khi gặp Terrenoire ở Colombey về, họ bảo tôi rằng:
- Xin Hoàng thượng đừng hấp tấp. Hãy kiên nhẫn một chút. Đại tướng De Gaulle lại sắp trở lại chính quyền nay mai. Trong sự hỗn độn hiện nay, đây là cứu tinh độc nhất của nước Pháp. Khi De Gaulle lên, thì tất cả đều thay đổi hết, chúng ta sẽ biết…
Một tuần lễ sau, ông Terrenoire đến gặp tôi. Với giọng nói lạnh lùng, bất cẩn, ông ta bảo tôi:
- Thưa Hoàng thượng, đảng Cộng hòa Nhân dân RPF (của De Gaulle) sẵn sàng bỏ phiếu cho Thủ tướng Queuille. Hoàng thượng có thể xác nhận sự đồng ý của chúng tôi, nhưng chúng tôi ước mong Thủ tướng sẽ tìm được giải pháp tốt đẹp cho Việt Nam…
Tôi kín đáo báo cho ông Queuille biết, rồi không đợi trả lời, tôi đi Cannes ngay. Quốc hội Pháp họp. Nhờ số phiếu của đảng RPF, chính phủ Queuille đạt đa số. Sự kiên trì về chính trị chỉ là một vấn đề thức thời.
Tôi không đợi được lâu hậu quả của các diễn tiến về sau. Và đây một quí khách đến Thorenc tìm tôi. Đó là Bửu Lộc đến đưa cho tôi giấy mời của điện Elysée mời, dự bữa tiệc ở lâu đài Rambouillet. Ông ta đã lợi dụng cơ hội để nghe dư luận ở kinh thành Paris. Đại sứ Mỹ ở Paris, ông Jefferson Caffery, đã báo cho chính phủ Pháp biết là Hoa Thịnh Đốn rất có thiện cảm với chính phủ Pháp, đã tỏ ra cởi mở về chính sách đối với Việt Nam. Tôi chấp nối việc này với điều tôi từng nói chuyện với ông William Bullitt ở khách sạn Richmond ở Genève, hồi tháng chín, lúc ấy tôi đang nghỉ mấy ngày ở Gstaad cùng với Hoàng hậu và các con của chúng tôi. Viên cựu Đại sứ Mỹ này, tôi từng biết ở Hong Kong, đã khuyên tôi nên điều đình với những điều khoản hợp lý, và cam đoan với tôi là Hoa Kỳ sẵn sàng yểm trợ, một khi lên nắm chính quyền. Từng biết ông William Bullitt vốn thuộc đảng Cộng hòa, mà tôi đang ở thế đối nghịch, tôi không mấy chú ý đến sự gợi ý này của ông ta.
Sau khi cùng Hoàng hậu đến thăm xã giao Tổng thống Pháp ở điện Elysée tôi đến điện Rambouillet. Sau bữa ăn, chúng tôi sang phòng khách để gặp Tổng thống Auriol, có Thủ tướng Queuille, các Thủ tướng Andre Marie và Ramadier, ông Coste Floret và chính tôi nữa.
Câu chuyện kéo dài, bỗng bất thần, Tổng thống Auriol quay sang nhìn tôi, và với giọng khô khan, ông nói:
- Thưa Hoàng thượng, Ngài rất cởi mở. Nhiều người vì tham vọng cá nhân, chỉ làm cho rắc rối mà thôi…
- Thưa Ngài Tổng thống, Ngài định nói ai vậy?
- Thưa Hoàng thượng, chức vụ của Tổng thống không cho tôi mấy sáng kiến độc lập lớn lao, ngược lại, nó đem đến cho tôi rất nhiều tin tức chính xác. Vì vậy, trong một bữa tiệc gần đây, Ngài đã tỏ bày cảm tưởng của Ngài với một số thực khách vốn không mấy cảm tình với các thân hữu chính trị của chúng tôi, và do thế, họ đã viết một bài bảo không mấy có lợi cho chính phủ…
Quả thật, trước khi tôi gặp các nghị sĩ thuộc đảng De Gaulle, ông Gaston Palewki đã viết một bài đả kích mạnh mẽ chính sách của Pháp về Việt Nam, và ông ta kết luận rằng, sự đó chỉ có thể đưa tới sự tan vỡ hoàn toàn giữa Pháp và Việt Nam.
Tôi nhìn vị Tổng thống và cân nhắc từng chữ:
- Thưa Ngài Tông thống, tôi không bao giờ cần phải tỏ bày tâm sự với bất cứ ai. Lập trường của tôi, ai cũng biết cả rồi. Tôi đã từng nhắc lại nhiều lần cho các vị đại diện cao cấp của Pháp ở Đông Dương. Hẳn Tổng thông đã biết. Nó vốn gồm có hai chữ: Độc lập và Thống nhất của Việt Nam.
- Xin Hoàng thượng đừng để bọn đảng viên De Gaulle gây ảnh hưởng. Trái với điều họ tưởng, chính phủ bao giờ cũng đủ quyền lực để giữ lời hứa cho nước Pháp. Và trên cả chính phủ, chính tôi là người giữ điều hứa hẹn đó…
- Thưa Tổng thống, xin Tổng thống yên trí. Nước Việt Nam một khi hòa bình được vãn hồi, cùng với độc lập và thống nhất, chỉ còn có một quan tâm, đó là sự hợp tác và liên kết với nước Pháp.
Từ nãy vẫn giữ yên lặng, Thủ tướng Ramadier, giữa hai khói thuốc, liền mở ra một câu chua chát:
- Và như vậy, thì chỉ còn chờ Hoàng thượng trở về Việt Nam để thi hành nhiệm vụ của mình.
Để chấm dứt không khí lạnh nhạt sau câu nói gần như vô duyên đó, tôi đứng lên và lấy một nụ cười rất tươi, tôi thốt mấy lời cáo biệt:
- Hẳn quí Ngài đã thấy không có sự gì thay đổi, vì Ngài Thủ tướng Ramadier mời tôi trở về nhậm chức như ông đã bảo cho một nhân viên không mấy sốt sắng - vẫn cười tươi hơn, tôi nói tiếp - Tôi sẽ trở về Việt Nam khi nào mà tôi cho là đúng lúc nhất, dù sao nữa không bao giờ trước khi nước Pháp đã trả lại nền thống nhất cho nước tôi.
Sự đối phó gay cẩn này chứng tỏ cho tôi biết chính phủ Pháp đang đi vào ngõ cụt. Vị trí của tôi đã khá vững vàng nữa, nhưng tôi cần phải cảnh giác mọi biến chuyển tại chỗ. Nếu thời gian có lợi cho tôi đối phó được với những tranh luận chính trị ở Pháp, thì lại không phải vậy tại Việt Nam. Vì chính phủ Xuân không thể hoạt động gì được, thì tình thế lợi cho Việt Minh càng lớn. Họ cảm thấy thời gian đang tới để có thể dựa vào Tàu, lúc ấy đã rơi trọn vào tay bọn cộng sản rồi, để có thể đương đầu mạnh mẽ.
Mình cần phải vượt trước họ.
Sau vài tuần lễ, khi nhậm chức ở Đông Dương, ông Pignon đến thăm tôi vào một ngày tháng chạp năm 1948. Ông ta biết là tôi không muốn nghe gì, khi vấn đề cụ thể đối với độc lập và thống nhất chưa được giải quyết, nên bảo tôi ngay:
- Thưa Hoàng thượng, tôi xin Ngài hãy coi như tất cả mọi điều xảy ra ở vịnh Hạ Long đều bị vượt qua. Nay cần phải đặt lại căn bản mới để đi thẳng đến sự kiến tạo nước Tân Việt Nam.
- Tôi rất đồng ý với Ngài Cao ủy, để trang bị cho nước Việt Nam một qui chế giúp cho nó có thể tự bảo vệ lấy nền độc lập và thống nhất của mình.
Trong thâm tâm, hẳn ông Pignon cũng ý thức được rõ ràng, cần phải xúc tiến nhanh chóng, nên muốn mong dựa được vào tôi để đẩy mạnh lên. Vì ông cảm thấy rõ rằng sự thay đổi này sẽ được hỗ trợ bằng một yếu tố mới. Ổng ta yêu cầu tôi tiếp xúc lại với Thủ tướng Queuille.
Vì vậy, sau khi ăn tết với gia đình ở Thorenc, tôi đến Paris và gặp Thủ tướng chính phủ. Tôi nhã nhặn nhắc lại lời hứa hẹn của ông và sự giúp đỡ mà tôi đã giúp ông trước kia, để cho ông hiểu rằng nước Pháp chỉ cần xác nhận nền độc lập và thống nhất của Việt Nam, với sự bảo đảm của Tổng thống Pháp là chúng tôi có thể xúc tiến ngay công việc được. Ông Queuille lúc nào cũng nhã nhặn không tỏ gì là phản đối cả. Chắc chắn là ông Pignon đã sửa soạn trước.
Vào trung tuần tháng giêng năm 1949, cuộc đàm phán bắt đầu. Rất nhanh chóng nó thành hai hình rõ rệt. Sự đe dọa của Cộng sản Tàu càng củng cố thêm cho nó, vì quân đội của Mao Trạch Đông đã tiến vào Bắc Kinh ngày 22 tháng giêng. Một hội đồng hỗn hợp được thành lập ngày 12 tháng 2 để nghiên cứu từng điểm một ghi trong bản thể chế ở vịnh Hạ Long.
Phái đoàn Pháp do ông Herzog làm trưởng phái đoàn, gồm có quí ông Marolles, De Pereya, De Raymond, Risterruci, Thiếu tá Ploix, sau đó thêm năm vị chuyên viên nữa là quí ông Gonon, về vấn đề tài chánh, Anziani, về kinh tế, Torre về kế hoạch, Dannaud về văn hóa, và Đại tá Brebisson về quân sự. Phái đoàn Việt Nam do Hoàng thân Bửu Lộc, luật sư ở Paris là nơi ông từng du học, là trưởng phái đoàn, gồm có ông Nguyễn Đắc Khê, luật sư, Bác sĩ Phan Huy Đán, và quí ông Phạm Văn Bính, Trương Công Cừu, Nguyễn Quốc Định và Đinh Xuân Quảng, Bác sĩ Nguyễn Mạnh Đôn. Thủ tướng Trần Văn Hữu đến Paris ngày 13, theo dõi cuộc đàm phán, đại diện cho Thủ tướng Xuân. Các nhà chuyên môn kết thúc các bản tường trình vào ngày 28 tháng 2, và ngày 8 tháng 3, vào buổi trưa, tất cả chúng tôi đều tập trung đủ mặt ở văn phòng Tổng thống Vincent Auriol ở điện Elysée để cùng ký kết. Trước buổi lễ ngắn ngủi này, về phía Pháp có Thủ tướng Queuille, ông Robert Lecourt, chương ẩn, ông Georges Bidault, bộ trưởng Bộ Ngoại giao, ông Paul Coste Floret, bộ trưởng bộ Pháp quốc Hải ngoại, Cao ủy Léon Pignon và ông Parodi. Bên cạnh tôi có Hoàng thân Vĩnh Cẩn, Hoàng thân Bửu Lộc, Thủ tướng Trần Văn Hữu và Bác sĩ Nguyễn Mạnh Đôn.
Tổng thống Vincent Auriol đọc một bài diễn văn ngắn nhưng rất cảm động để chúc tụng tất cả các nhà trí thức và chính trị Việt Nam đã đứng xung quanh tôi, đoàn kết, nhất trí. Tôi cũng đáp từ ngắn để tỏ lòng tri ân đối với nước Pháp đã trao trả nền độc lập và thống nhất cho Việt Nam.
- Từ nay, thỏa ước này sẽ thay thế tất cả các hiệp ước do tổ tiên tôi đã ký kết, và tôi nhấn mạnh, Tôi sẽ đặt chân lên đất nước tôi, sống chung với nhân dân nước tôi, đã có một lãnh thổ và biên giới lịch sử. Và tôi cam đoan đặc biệt bảo đảm cho quyền lợi vật chất và văn hóa Pháp”.
Chúng tôi ký các văn kiện và trao đổi lẫn cho nhau. Thỏa ước thật ra gồm ba bản tất cả.
Bản đầu tiên là bức thư của Tổng thống Cộng hoà Pháp quốc, kiêm Chủ tịch Liên hiệp Pháp gửi Hoàng đế Bảo Đại. Dựa vào thỏa hiệp mùng 5 tháng 6 năm 1948, bản tài liệu này ấn định những điều khoản về nền thống nhất của Việt Nam, vấn đề ngoại giao, các vấn đề quân sự, chủ quyền nội bộ, vấn đề tư pháp, vấn đề văn hóa và giáo dục, vấn đề kinh tế và tài chính. (Xin xem phụ đính IV.)
Bản tài liệu thứ hai là bản xác nhận đối với những điều khoản của bản thứ nhất cho sự thỏa thuận của tôi, để xác nhận đúng y như bản thứ nhất, mà tôi gửi lại cho Tổng thống Cộng hòa Pháp quốc kiêm Chủ tịch Liên hiệp Pháp.
Bản tài liệu thứ ba, là bức thư của vị này, vẫn gửi cho tôi là Hoàng đế Bảo Đại để bổ túc, theo lờl yêu cầu của tôi, tất cả các điểm liên hệ đến nền thống nhất của Việt Nam, và các vấn đề ngoại giao, nhất là về việe trao đổi sứ thần. Tất nhiên, bản thỏa hiệp cũng chẳng có gì mới lạ. Do thỏa hiệp này, nước Pháp công nhận nền độc lập của Việt Nam, và sẵn sàng công nhận nền thống nhất của nó, nếu tất cả dân chúng đều quyết định. Nhưng nó có cái lợi to lớn là, không phải dựa vào bản tuyên bố chung ký ngày 5 tháng 6 năm 1948, để phải căn cứ vào bản thể chế vốn hạn chế tất cả mọi ảnh hưởng này nọ.
Từ đây, chính phủ Việt Nam được toàn quyền hành động của một nước độc lập. Nó tự đảm trách lấy tiền ngoại giao trong khuôn khổ khối Liên hiệp Pháp, nhưng được làm tròn sứ mệnh riêng tư của nước mình, có quân đội quốc gia, thẩm quyền tư pháp đối với toàn thể dân chúng, mà chỉ riêng có người Pháp mới được hưởng qui chế tư pháp hỗn hợp. Nó tự đảm trách về tài chánh. Không còn có vấn đề Liên bang Đông Dương nữa, chỉ có sự hòa đồng trên bình diện tiền tệ với hai nước Cam Bốt và Lào.
Chỉ còn một hạn chế duy nhất đang tồn tại, đó là ảnh hưởng của Liên hiệp Pháp, hay là ảnh hưởng do chiến tranh đang xảy ra trên đất nước.
Sau lễ ký kết đó, phái đoàn chúng tôi trở về khách sạn Plaza, ở đó tôi giữ lại một số tùy viên.
Từ đây trở đi, tôi đã thu hồi được đất Nam kỳ, tôi coi như nhiệm vụ của tôi về điều đình đã chấm dứt. Giai đoạn mới này, là nhiệm vụ của tôi để tái tạo nước Việt Nam. Thỏa hiệp mùng 8 tháng 3, có một cái lợi lớn lao là vẫn giữ được liên hệ với nước Pháp, nhưng các vấn đề chi tiết đối với tôi không cần biết tới. Nếu tôi chấp nhận vào Liên hiệp Pháp, sự đó không có gì là quan hệ nhiều. Đó chỉ là một nguyên lý xa vời… và của Pháp. Tại sao? Bảo rằng ở trong Liên hiệp Pháp, bởi vì các quốc gia này phải ở mức bình đẳng mới xứng đáng? Hơn nữa, giá dụ bét đi, tôi có thể là chư hầu của Quốc vương Pháp, nhưng chắc chắn không phải là chư hầu của Tổng thống Cộng hòa Pháp quốc. Sau nữa, thỏa hiệp này trước mắt tôi, chỉ là một giai đoạn để tiến tới độc lập hoàn toàn. Sự thành đạt về đôc lập như thế, đã xảy ra cho các nước lân cận ở Đông Nam Á như Phi Luât Tân, Miến Điện, Ấn Độ… làm tôi càng tin tưởng trong hy vọng. Tôi tin tưởng rằng thỏa ước mùng 8 tháng 3 phải là một yếu tố nhất định đưa đến vãn hồi hòa bình. Hỏi Việt Minh còn có thể đòi hỏi gì nữa khi tôi đã thành công, mà họ thì bị thảm bại ở các hội nghị Fontainebleau và Đà Lạt, vào năm 1946.
Vấn đề duy nhất và tức khắc hiện nay, là cần phải biết bằng cách nào, vấn đề giải quyết sự tái sát nhập của Nam kỳ. Mấy hôm sau, tôi hỏi Thủ tướng Queuille, ông ta đáp:
- Chính chúng tôi cũng chưa rõ. Hiến pháp của Pháp là nhất định: “Không ai có thể phạm vào sự sứt mẻ của lãnh thổ được...”
- Hiến pháp của nước Pháp không phải là vấn đề của nước tôi. Ngài cần phải tìm ngay một giải pháp. Chắc Ngài hiểu rằng, tôi chỉ trở về Việt Nam khi vấn đề này được vĩnh viễn giải quyết.
Để dễ dàng cho mọi sự thảo luận, tôi bổ nhiệm Hoàng thân Bửu Lộc làm Đổng lý Văn phòng. Ông ta thuộc hoàng tộc, trong chi nhánh của người em vua Minh Mạng. Ông ta chọn nhân viên trong số những người đồng quan điểm với tôi ở các chức vụ đổng lý sự vụ, công cán ủy viên… Trong số này, có Luật sư Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Quốc Định, vốn là thạc sĩ Luật, các Bác sĩ Nguyễn Mạnh Đôn, và Đinh Xuân Quảng. Tất cả đều đã dự vào việc thiết lập ra thỏa ước mùng 8 tháng 3.
Ông Pignon cũng không chịu để mất thì giờ. Ông biết chính ông ta cũng cần phải xúc tiến nhanh chóng. Ông ta được Thủ tướng Queuille và ông Coste Floret cho phép toàn quyền dùng mọi thể thức cấp bách để áp dụng bản tài liệu thứ ba của thỏa ước.
Đầu tiên, Quốc hội Pháp bầu một đạo luật đặt ra một Quốc hội địa phương ở Nam Việt Nam. Quốc hội này có nhiệm vụ cho ý kiến về sự thay đểi qui chế cho Nam kỳ, trên nguyên tắc.
Ngày 10 tháng 4, Quốc hội địa phương này được bầu, nhưng vì hoàn cảnh chưa cho phép tổng bầu cử, nên chỉ có khoảng 2000 hào trưởng được gọi ra để bầu lẫn nhau mà thôi.
Quốc hội bầu ra này gồm có 50 đại biểu Pháp và Việt, để chia nhau quyết định thiên Việt trong việc thống nhất, hay thiên Pháp để vẫn giữ y nguyên căn bản Nam kỳ tự trị như trước. Vài hôm sau khi được bầu, Quốc hội này họp và bỏ phiếu đầu tiên. Kết quả vẫn mơ hồ: 25 phiếu sát nhập vào Việt Nam còn 25 phiếu giữ nguyên vị trí tự trị. Tôi đã từng nói rõ nhận định của tôi: Sự bỏ phiếu để tái sát nhập vào Việt Nam phải đủ rõ rệt, để không còn có điểm nghi ngờ nào đối với lòng dân Nam bộ.
Vì vậy, sau khi tôi vừa được tin kết quả của sự bỏ phiếu đầu tiên, tôi liền chỉ thị cho chiếc DC-4 mà chính phủ Pháp đã dành riêng cho tôi để trở về Việt Nam, đang đợi tôi ở phi trường Nice, phải trở lại ngay Paris, đồng thời tôi cũng hủy bỏ tất cả các sự sửa soạn hành trang để trở về.
Hoang mang tột độ, chính phủ cử ông Pignon về gấp Sài Gòn. Ngày 23 tháng 4, Quốc hội địa phường họp lại, thì số phiếu đạt được là 45 phiếu thuận và 5 phiếu chống, đối với việc sát nhập. Hy vọng của tôi tràn trề. Nền thống nhất đất nước đã được phục hồi. Trung thành với lời hứa hẹn của tôi, không cần phải đợi Quốc hội Pháp chuẩn y, vì đang lúc nghỉ hè, ngày 24 tháng 4, tại Cannes, tôi mở một cuộc họp báo. Tôi nhắc lại ba giai đoạn của thủ tục mà chính phủ Pháp đặt ra để thi hành: Lập một Quốc hội địa phương ở miền Nam Việt Nam, bầu cử và hỏi ý kiến Quốc hội ấy, duyệt y ý chí của Quốc hội này, do Quốc hội Pháp quản chế qui chế mới đối với miền Nam Việt Nam, tôi nhấn mạnh đến tính chất hiến định của thủ tục này:
“… Điều thứ nhất đã hoàn toàn thực hiện. Điều đó rất quan hệ, vì nó mở ra một thể thức, và bởi vì nó hiến cho Quốc hội Pháp cơ hội để hiểu rõ hoàn cảnh về vấn đề của Việt Nam.
“Quyết định do Quốc hội Pháp đặt ra một Quốc hội địa phương ở Nam Việt Nam đã được ghi nhận trong nền chính trị của nước Pháp. Ngay vòng thứ nhất, bộ trưởng bộ Pháp quốc Hải ngoại, và nhiều diễn giả của khối đa số, vẫn nhấn mạnh một cách hữu lý đến chỗ liên tục của nền chính trị Pháp quốc ở Việt Nam, đến chỗ thống nhất ba kỳ. Sự liên tục về vị trí cửa các chính phủ Pháp vẫn nhất định, không thay đổi.
“Thật vậy, trong bản tuyên ngôn ngày 6 tháng 3 năm 1946, đã ghi rõ: về việc thống nhất ba kỳ, chính phủ Pháp cam đoan công nhận những quyết định của sự trưng cầu dân ý.
“Bài diễn văn của ông Bollaert ở Hà Đông cũng nhắc lại rằng: Chính phủ Pháp không dính líu gì vào việc thống nhất ba kỳ, vốn là nội bộ của nước Việt Nam. Chỉ có dân chúng địa phương mới liên hệ đến, và sự giải quyết là phần của họ.
“Và cuối cùng bản tuyên ngôn ở vịnh Hạ Long đã nhẩn mạnh rằng: Nước Pháp long trọng công nhận nền độc lập của Việt Nam, và sự thống nhất là thuộc toàn quyền của Việt Nam. Lời tuyên bố này đã được Quốc hội Pháp long trọng duyệt y.
“Giai đoạn thứ hai vừa hoàn tất, như quí ông đã được biết, theo quyết định của Quốc hội địa phương Nam Việt Nam, để thống nhất ba kỳ, nghĩa là sự sát nhập của Nam Việt Nam vào các phần đất khác của nước Việt Nam. Theo ý kiến tôi, quyết định này, đã theo một thể thức đã được định trước, là yếu tố quyết định. Phù hợp với nguyện vọng của chính phủ Pháp, và theo các nguyên tắc hoàn toàn dân chủ, để cho dân chúng liên hệ được tự mình đặt trong Liên hiệp Pháp. Dân chúng Nam Việt Nam đã ngỏ ý rồi, sự trở về Việt Nam của tôi đã có thể thực hiện, và tôi thấy không còn cần thiết để nấn ná gì nữa.
“Thật vậy, giai đoạn ba là giai đoạn, theo đúng hiến pháp của nước Pháp, Quốc hội Pháp phải chấp nhận quyết định của Quốc hội địa phương Nam Việt Nam, và không có gì thay đổi về căn bản của vấn đề: Không phải là tôi dám nói thế này để làm giảm giá trị của Quốc hội Pháp, khi ngờ vực rằng đây chỉ là một hình thức chính trị, bởi vì không có người Việt Nam nào, hay một người bạn của Pháp nào, đã dám cho rằng những lời cam kết rõ rệt và long trọng mà tôi vừa nhắc lại đây, của quốc gia cao thượng của quí ông, lại đi ngược lại với truyền thống cũng như với lý tưởng dân chủ, để hủy bỏ lời tuyên bố đã từng cam kết.
“Một quyết định hảo ý của Quốc hội mà tôi tin chắc sẽ đến, y như các thể thức quan trọng đã được thực hiện, nên tôi thấy không cần phải chần chờ, để trở về. Căn bản của tôi đã đạt được ở Pháp rồi, thì từ nay trở về của tôi cũng rất cần thiết. Nhiệm vụ đang đợi tôi rất rộng lớn và phức tạp, và rõ ràng là chỉ ở ngay trong nước tôi, và giữa các đồng bào của tôi, tôi mới có thể hiểu thấu được những nét chính, mà sự thống nhất đất nước tôi, mới giúp tôi được dễ dàng.
“Lý do chính mà tôi vừa nhận được từ chính phủ trung ương lâm thời Việt Nam do bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Khắc Vệ báo cho tôi biết, thì sự trở về của tôi là rất cần thiết.
“Tôi không muốn làm thất vọng, dù trong ít ngày, những nguyện vọng tha thiết của nhân dân tôi, từng đặt tín nhiệm nơi tôi, đang quằn quại trong đau khổ ở Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần phải nhắc lại rằng sự mau chóng của quyết định sau cùng của Quốc hội Pháp là điều kiện tiên quyết trong nhiệm vụ của tôi vậy. Nó chứng nhận mạnh mẽ sự tín nhiệm hỗ tương đã mở màn ra cuộc đàm phán. Chúng tôi nghĩ rằng, vào khoảng đầu tháng sáu tất cả đều đã được hoàn tất.
“Chính phủ Pháp đã hiểu thấu sự lo âu của tôi phải đem về cho đất nước, sự sung sướng cho nguyện vọng quốc gia đối với nền thống nhất lãnh thể. Một thái độ hiểu biết ấy đã là một sự giúp đỡ rồi. Sự giúp đỡ quí báu tường tự nữa là nước Pháp sẽ chứng tỏ bằng cách cho lần lượt thực hiện các điều khoản của thỏa ước mùng 8 tháng 3, vốn rất phong phú để thành tựu. Tôi rất sung sướng được ca tụng nhãn giới cao rộng và tinh thần dân chủ rất Pháp và rất nhân ái của Ngài Coste Floret, bộ trưởng bộ Pháp quốc Hải ngoại. Tôi cũng nói lên cảm tình nồng nhiệt đối với Ngài Léon Pignon, Cao ủy Pháp ở Đông Dương, mà dân chúng Việt Nam vô cùng khâm phục những đức tính cao cả. Tôi tin rằng với những nhà đại diện lỗi lạc ấy của nước Pháp, thỏa ước mùng 8 tháng 3 sẽ được thực thi trong một bầu không khí tín nhiệm và thân hữu.
“Đó chính là sự liên tục của một nền chính trị thân hữu, được đặt vào tay những nhà lãnh đạo siêu việt, để đem lại tình hữu nghị giữa hai nước chúng ta, và góp phần vào sự củng cố hòa bình và sự thịnh vượng cho toàn thể Liên hiệp Pháp”.
Tôi rời nước Pháp bằng chiếc DC-4 riêng của Tổng thống mà chính phủ Pháp dành cho tôi. Hoàng hậu và các con chúng tôi vẫn ở lại Cannes, để bọn trẻ tiếp tục học hành. Chì có Bác sĩ Nguyễn Mạnh Đôn và người em họ Vĩnh Cẩn theo tôi trở về.