← Quay lại trang sách

PHẦN BỐN - LÀM QUỐC TRƯỞNG 1949-1955 Nước Việt Nam cuối cùng thì thống nhất

Tôi quyết định, vì lý do nhã nhặn, chưa nên vội và đến ngay Sài Gòn. Vì vậy, tôi chọn Đà Lạt thuộc Trung phần Việt Nam, để hạ cánh.

Chúng tôi tạm nghỉ ở Chypre, ở đó tôi được viên Thống đốc người Anh tiếp đón, sau tôi qua Beyrouth, Karachi, Bombay, Ceylan, Singapour, và tôi nghỉ ở biệt điện của viên Cao ủy Anh là Ngài Malcolm Mac Donald. Tướng Xuân, thủ tướng chính phủ lâm thời miền Nam đến đây đón tôi. Chúng tôi cùng đi chung trên một chiếc máy bay tư, do tự tôi thuê lấy.

Đây là lần đầu tiên, tôi bay trên lãnh thổ miền Nam và tôi bảo Bác sĩ Đôn:

- Từ gần một thế kỷ nay, Hoàng đế chưa bao giờ được quyền đặt chân đến đất này. Hôm nay, tất cả đất này là của ta… nhưng cẩn thận, có thể còn nhiều bẫy sập!

Khi máy bay hạ cánh xuống Đà Lạt, ông Pignon đã đón tôi ở đây, cùng vài các nhân viên Nội các. Phan Văn Giáo đứng đợi tôi ở chân thang máy bay, ông ta trình tôi một chiếc khay, trên đó có tấm điện tín. Tôi cầm lấy và trao cho Nguyễn Mạnh Đôn và bảo:

- Đây chắc chắn là cái bẫy đầu tiên đó.

Trong buổi nghênh đón nhỏ bé này, tất cả các bộ mặt đều rạng rỡ, nhưng linh cảm của tôi quả đã không lầm.

Vừa tới căn biệt điện cũ của tôi trên đỉnh Liên Khang ở Đà Lạt, tôi biết được nội dung của bức điện tín. Đây là một thỉnh nguyện thư xin được yết kiến của các đại biểu Quốc hội địa phương Nam Việt Nam. Tôi ra lệnh cho Đôn phải triệu tập họ ngay.

Đến đúng hôm được vời, họ đến cả. Đôn vừa giữ vai bí thư vừa là trưởng ban nghi lễ, đưa họ vào trong phòng đợi. Sau đó, Đôn đến mời tôi vào. Khi tôi đến, tôi lấy làm ngạc nhiên, không thấy một đại biểu Pháp nào của Quốc hội có mặt. Một chi tiết khác làm tôi lưu ý, đó là mọi người đều mang một chiếc cặp. Tôi mời họ ngồi và bảo:

- Thưa quí vị trước hết nhân danh dân tộc Việt Nam, tôi xin cám ơn quí vị đã tỏ lòng ái quốc mà quí vị đã làm, và đã giúp cho nước nhà trở lại nền thống nhất, từng bị mất đi sau 85 năm.

Thế là một đại diện liền đứng lên, gãi cổ và thưa:

- Thưa Hoàng thượng, các đại biểu của Quốc hội địa phương chỉ làm nhiệm vụ của mình. Họ lấy làm hãnh diện được tung hô Hoàng đế khi trở về đất tổ, nhưng tâu trình Hoàng thượng, tôi muốn nhân danh các đồng nghiệp tôi, cũng như nhân danh cá nhân tôi, để xin Hoàng thượng chấp nhận cho một khẩn cầu.

Lúc ấy, ông ta mới lôi trong cặp ra một mớ giấy, và bắt đầu đọc:

- Trong 85 năm, người miền Nam nhờ sống dưới chính thể Pháp nên đã biết được một hình thức của nền dân chủ. Vì vậy, ngày hôm nay, họ yêu cầu Hoàng đế vui lòng lưu ý tới chỗ đó, để ban cho họ một qui chế riêng…

Tôi như không tin ở tai minh nữa, Chẳng rõ có đúng như vậy không? Nhưng mà tôi đang ở đâu đây? Ở cạnh các sắc dân miền núi?… Trong khi viên đại biểu này ngưng lại để thở, tôi cắt lời:

- Thưa quí vị, tôi sẽ nghiên cứu tất cả các thỉnh nguyện của quí vị. Trong 15 hôm nữa, tôi sẽ tới Sài Gòn, và lúc ấy chúng ta có đủ thì giờ để xem xét và bàn bạc. Nhưng trước hết, tôi muốn hỏi quí vị, chỉ cần trả lời bằng hai chữ Có hay Không đối với câu hỏi của tôi thôi. Quí vị vừa hỏi tôi rằng, xin dành cho quí vị một qui chế riêng biệt. Như vậy thì tôi phải coi quí vị như thế nào: như là đại diện của một sắc dân thiểu số, hay là như người Việt Nam sống trong một nước Việt Nam thống nhất đây?

Tất cả đều đồng thanh trả lời:

- Nhưng chúng tôi đều là người Việt Nam cả…

- Vậy thì thưa quí vị, không còn vấn đề giữa chúng ta nữa. Chúng ta sẽ gặp lại nhau ở Sài Gòn trong ít lâu nữa, và chúng ta sẽ cùng nhau ăn mừng cuộc thành công lịch sử này.

Tôi đứng lên để tỏ sự tiếp kiến đã chấm dứt, và mời họ sang một phòng khác để uống một ly champagne.

Khi trở về nước, tôi đã đoán là sẽ phải đương đầu với một nhóm dân biểu, nếu không phải là lập pháp thì ít ra cũng là lập hiến, nhưng quả tôi không ngờ lại gặp phải loại động tác này.

Như thế, sao lại không có thể có loại yêu cầu tương tự, về phía nhân dân miền Bắc hay miền Trung? Gần phải đánh tan ngay những hoạt động tương tự, vì làm sao mà cai trị được với những sự chỉ trích, yêu sách liên miên của những nhóm đại biểu như vậy?

Bây giờ, tôi mới hiểu sự vắng mặt của các đại biểu Pháp, và cái thỉnh nguyện thư trình tôi kia - nếu tôi không lầm - chính là một chứng cớ cho thấy bọn đầu não thực dân, vẫn chưa chịu hạ cờ. Có lẽ, họ biết sau khi bọn mật vụ đi nghe ngóng các nơi trở về, báo cho biết là đã có cái gì thay đổi ở Việt Nam rồi. Tôi cũng biết rằng, chẳng phải dễ dàng, một khi bắt tay vào việc. Cuộc chiến đấu mà tôi đã đương đầu được ở bên ngoài, nay lại phải bắt đầu ở đây, với những con người khác, và trong những hình thức khác.

Khi tôi còn ở Hong Kong, tôi đã mời hoạt động cùng với tôi, một số đông nhân vật người Nam như Xuân, Trần Văn Hữu, Lê Văn Hoạch, Phạm Công Tắc, và nhiều người khác nữa. Tôi đã hứa hẹn với họ những vị trí để tùy họ lựa chọn, chỉ cần họ nắm vững được công tác do sự giao dịch với các đồng bào Việt Nam khác, cần phải để họ thích hợp với hoàn cảnh. Là Hoàng đế, miền Nam Việt Nam, từ trước vẫn bị ngăn cách đối với tôi. Nay tôi cần phải thành đạt sự hội nhập này. Như vậy, tôi biết nhiệm vụ của tôi chỉ là chuyển tiếp: thu hồi xứ Nam kỳ, xây dựng một nền hành chánh Việt Nam, kiến tạo một quân đội Việt Nam xứng đáng với danh từ ấy. Tôi hiểu rõ phạm vi sứ mạng của tôi, không thể vượt qua ba mục tiêu ấy.

Quả nhiên, tôi đã đến sớm. Bởi vì từ 1946 đến 1949, đó là sự trống rỗng chính trị toàn diện. Nếu tôi chưa xuất hiện, con người vốn sợ sự trống rỗng, thì nước Việt Nam sẽ đi về đâu? Tôi rất lo âu thấy lấp ló ở biên thùy phía Bắc quân đội của Mao Trạch Đông. Đúng như vậy, khi tôi bắt tay vào việc mới chưa tới bốn năm khi kết thúc Đệ Nhị Thế Chiến. Nước Pháp kiệt quệ đến rỗng tuếch. Âu châu bị băng hoại. Chỉ còn có Mỹ là có thể giúp đỡ tôi sự cần thiết để khởi đầu, và hy vọng thành công. Nhưng tất cả sự đó cũng chỉ là nhỏ giọt.

Tin chắc về tầm vóc của công tác ấy, tôi cố gắng chiến đấu, được phần nào hay phần ấy cho đất nước tôi.

Trong tinh thần ấy, để có thể thực hiện được ba mục tiêu trên, tôi ra một sắc lệnh tự đảm nhiệm làm Quốc trưởng “cho đến lúc mà hòa bình đã vãn hồi, dân chúng trong sự khôn ngoan sáng suốt, tự quyết định được chế độ mà họ mong muốn”.

Để có thể có tư thế trước bình diện quốc tế, một thông điệp nhán mạnh rằng chức vụ của tôi được gọi là “Hoàng đế, Quốc trưởng”. Vị trí này cũng có giá trị cho đến lúc mà đất nước có được một quốc hội lập hiến.

Sắc lệnh thứ hai lập ra cơ cấu hành chánh do ba tỉnh lớn: Bắc Việt, Trung Việt và Nam Việt.

Hai văn kiện này sẽ là căn bản của tổ chức hành chánh trên toàn quốc. Ngoài ra còn lập ra một khu vực gọi là “Hoàng triều cương thổ” dành cho các sắc dân miền núi. Xưa kia, đất này không được coi là đất của Hoàng triều… Vì vậy, các dân tộc sống lâu đời trên đất ấy, vẫn bị gạt ra ngoài, thì từ nay được sát nhập hẳn vào quyền hạn của Quốc trưởng và được che chở bởi Quốc trưởng. Vị trí này đã do ông Léon Pignon gợi ý cho tôi, trong một cuộc gặp gỡ ở Paris, nhằm để hoàn tất sự thống nhất dân chúng của nước Việt Nam.

Tôi rất chú trọng đến quyết định cuối cùng này, bởi vì tôi đặt niềm tin cho công tác của tôi vào sự trung thành của các sắc dân này, mà tôi từng hài lòng về sự thẳng thắn và niềm tôn kính của họ đối với cá nhân tôi, trong những dịp đi nhàn tản lẻ loi trước khi xảy ra chiến tranh.

Vì vậy, tôi quyết định dành cho họ cuộc thăm viếng chính thức đầu tiên, khi cầm quyền Quốc trưởng. Ngày 30 tháng 5, cùng với Cao ủy Pháp, tôi đến dự lễ tể chức ở Ban Mê Thuột, giữa vùng sơn cước, để nhận tượng trưng đất Hoàng triều cương thổ, và nhận lễ tuyên thệ của các vị tù trưởng các dân tộc vùng cao nguyên miền Nam. Trong dịp kinh lý này, ông Pignon đã cho tôi biết sự khó khăn xảy ra giữa ông ta và Tướng Blaizot, Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương. Thực tế, có hai quan điểm đối nghịch nhau: của ông Cao ủy, thì muốn dành cho nỗ lực quân sự vào các tỉnh miền Nam hầu hoàn tất cuộc bình trị rồi lan dần ra như vết dầu loang cho toàn lãnh thổ quốc gia; của Tướng Blaizot, vì bị ám ảnh bởi sức tiến của quân đội Cộng sản Tàu đến sát ngõ biên giới miền Bắc, sẽ không ngần ngại hỗ trợ mạnh mẽ cho lực lượng Việt Minh, nên mong muốn dốc toàn lực binh bị cho miền Bắc. Sự dị biệt về quan điểm đó đã gây nên những va chạm giữa hai người mỗi ngày mỗi nhiều. Nó trở nên trầm trọng, do từ một nguyên nhân cá biệt mà ra. Số là năm 1945, Tướng Blaizot là Tư lệnh đoàn quân viễn chinh Pháp đang thành hình ở Ceylan. Dưới quyền ông ta có một nhân viên thuộc bộ Pháp quốc Hải ngoại, ông Léon Pignon. Ngày nay, vị trí lại quật ngược. Ông Léon Pignon là Cao ủy Pháp ở Đông Dương trở thành thượng cấp của vị Tổng tư lệnh, Tướng Blaizot.

Để tìm một giải pháp thích nghi cho vấn đề hai mặt đó, chính phủ Pháp liền cử sang công cán tại chỗ, vị Tham mưu trưởng Lục quân, là Tướng Revers. Ông này tới Sài Gòn ngày 16 tháng 5 năm 1949. Ông ta bắt đầu mở cuộc tìm hiểu, xuyên qua khắp nơi ở Đông Dương, và ngỏ ý muốn gặp tôi.

Tôi đã dành những ngày đầu tiên đầu tháng sáu để đi thị sát toàn thể vùng cao nguyên miền Trung và miền Nam, để tỏ lòng ưu ái đối với các sắc dân Mọi, mà tôi vẫn giữ được cảm tình như thời khó khăn cũ.

Chữ Mọi theo danh từ, có nghĩa là còn dã man, mà chúng tôi vẫn dùng để gọi các sắc dân thuộc chủng tộc Mã Lai và hải đảo (Malayo-Polynesien) ở Thái Bình Dương, sống trong các khu rừng núi và cao nguyên của rặng Trường Sơn. Họ là dân tộc đầu tiên chiếm đóng bán đảo Đông Dương, họ đã bị các sắc dân Khờ Me, Chàm, Trung Hoa và cuối cùng là Việt Nam đẩy lui mãi vào sâu trong rừng thẳm. Họ phải trú ẩn vào vùng núi non hiểm trở giữa biển Nam Hải về phía Đông, nước Cam Bốt và nước Lào về phía Tây, ở phía trên xứ Nam kỳ và cuối Bắc kỳ. Đó là xứ sở của rừng rú, của thâm sơn cùng cốc, và các cao nguyên trên đó có nhiều bộ lạc Mọi chia ra thành các nhóm lớn như người Rhade, người Djarai, người Bahna, người Sédang. Sống về nghề du mục và săn bắn từ nguyên thủy, chỉ có thời gần đây mới ở yên một chỗ để cầy cấy, và núi rừng đã ngăn cách họ sống biệt lập với thế giới bên ngoài.

Kẻ thù kinh niên của họ, là người Việt Nam da vàng, đến tự đồng bằng và từ miền bể. Bề ngoài thì khác xa hẳn người Việt Nam, người Mọi vốn cao lớn, khỏe mạnh, bắp thịt cứng rắn, màu da đồng giống như người thổ dân Mã Lai. Về thời ấy, chưa có đến 100 người Việt Nam trên khắp vùng Darlac, rộng quãng gấp ba lần một quận ở Pháp. Chưa bao giờ có sự pha giống giữa Mọi và người Việt Nam, và một vài cuộc nhân duyên nếu có, thì cũng khô cằn, không sanh con đẻ cái.

Riêng tôi, tôi được họ tôn sùng, vì Hoàng đế là vua của các vị thần che chở cho rừng núi và bình nguyên của họ.

Tôi đã từng đi săn nhiều lần ở trong vùng này, chỉ có một người đưa đường. Tôi cũng đã tới vùng biên giới nước Ai Lao. Tôi đi vào quãng một tuần hay 15 ngày. Ban chiều, khi đến một bản nào, tôi trở thành “Thượng đế” và người Mọi đã coi tôi như vị Thần sống vậy.

Vùng đất này đã từng biết có những nhân vật, tự hào về màu da, như kẻ lãng tử này tự xưng là Vua mọi Sedang, với danh hiệu là Marie đệ nhất. Hay như viên quan cai trị Ban Mê Thuột tên gọi Sabathier, đến đây năm 1920 đã chặt cầu khi được tin có viên Khâm sứ tới… Các bô lão đã kể cho tôi nghe những chuyện lạ lùng ấy vào ban tối.

Người Mnong ở Bandon là những người chuyên về săn voi. Sau khi bắt được những con voi họ giao cho người Lào huấn luyện. Chính tại địa phương đó mà tôi lựa chọn các con thú dành cho kho bảo tàng bảo vệ thú rừng Ban Mê Thuột.

Cuộc chuẩn bị đi săn phải sửa soạn trước đó ba ngày trai giới, và cúng lễ thần săn bắn. Trong ba ngày ấy, người đi săn phải kiêng không được ăn đồ ăn kém tinh khiết, và phải trai giới về sinh lý. Nhưng đến hôm trước ngày săn, họ được uống rượu thả cửa đến say khướt thì thôi.

Buổi lễ đặc biệt nhất về tín ngưỡng của sắc dân miền núi này là lễ hiến sinh trâu. Lễ này bắt đầu vào lúc chập tối. Tất cả đàn ông đàn bà đều ngồi xung quanh cây cột buộc con trâu, cột này là cột cây tre lớn cao quãng 20 mét mà trên ngọn vẫn còn lá. Cột được sơn, vẽ và trang điểm thật đẹp, có đặt những vòng hoa, gió đưa hây hẩy. Đây là một hình thức thờ vật tể của bộ lạc này mà họ thờ cúng trong máu lửa. Một con trâu đen to lớn, sừng rất rộng, được trói chặt vào chân cột, đầu cúi xuống, tỏ vẻ bực bội và lấy chân cào đất. Lửa được châm ở bốn bên như đánh dấu tứ phương, rồi cháy rần rần, bốc cao ngọn tới trời xanh. Lửa không thiêu hết mọi vật, mà dâng ngọn đến cao xanh, chứng tỏ con người đang thần phục sẵn sàng tôn sùng Thượng đế.

Những người hành lễ mời tôi ngồi vào vị trí danh dự, ở giữa các bô lão. Đêm đã xuống thấp hoàn toàn. Cuộc nhảy nhót bắt đầu theo tiếng gồng, tiếng trống, tiếng chiêng, và tiếng vỗ tay của đàn bà và trẻ con. Tay cầm dáo nhọn, cánh tay đeo mộc, các người nam nhảy nhót theo điệu lẫm chiến, đâm con vật một cách đầy thù hận. Bởi vì con trâu đen này, một con vật thật hiền từ, chiều hôm đó đã là hiện thân của một ác thần, đã làm họ biết bao đau khổ. Đây là vật hy sinh hữu ích dâng cho Thần cứu trợ để cầu mong thần chiếu cố.

Bị trói chặt giữa bốn đóng lửa ở xung quanh, tượng trưng cho lời cầu nguyện, nó chết vào ban sáng, dưới chân vật tổ tế thần, nhằm cản trở sự xui xẻo đè nặng lên khắp bản, bởi vì tôi, Vua của các vị Thần, tôi đang ngồi ở giữa họ.

Một kẻ hành lễ đem đến dưới chân viên phù thủy một quả bầu rỗng và một con gà trống màu trắng. Ông già quì xuống, cắt tiết gà, mổ lấy tim và hứng lấy tiết vào trong quả bầu.

Viên tù trưởng đưa cho tôi một chiếc cần bằng sậy và mời tôi hít rượu đựng trong hũ, đồng thời tôi ăn cùng với ông ta hai miếng gan heo nướng thành chả bằng một chiếc xiên, mà một đứa trẻ đưa cho ông ta. Thế là các bô lão đứng lên, và lần lượt choàng vào cổ tay trái tôi chiếc vòng đồng, nói lên sự phục tòng, giao hiếu mà mọi người dâng cho tôi, có khắc nhãn hiệu của họ, rồi cúi đầu, tung hô tôi là Thượng đế!

Khi tất cả đã trở về chỗ ngồi bên cạnh tôi, viên phù thủy liền cất cao giọng và hát:

- Hỡi Thần linh! Xin hãy công nhận Cha mà chúng tôi đã lựa chọn. Hãy chấp nhận Ngài và chúng tôi đã kính dâng buổi lễ này, cả hai bằng chiếc hủ rượu này có tiết của con gà trống bạch. Xin Thần của núi rừng che chở cho chúng tôi, xin Thần của sông nước che chở cho chúng tôi, xin Thần Đất dẫn dắt chúng tôi, xin Thần Săn bắn che chở và đứng về phía chúng tôi, xin Thần Gió thanh lọc sự giao kết của chúng tôi, xin Thần Lửa làm sự giao hảo sáng chói như chớp, sự đồng minh mạnh như sấm như bão, xin cho chúng tôi sự trường thọ vô cùng, xin cho tóc của chúng tôi bạc trắng phau trước khi đến với các Ngài. Hỡi Thần linh, Hỡi Thần linh, xin hãy chứng giám cho lời thề vĩ đại giữa hai chúng tôi, hỡi Thần linh, hỡi các bậc linh hồn, xin mời các Ngài hãy dự tiệc trước đã. Xin cho phép chúng tôi được hưởng thụ thịt của vật bị hy sinh này, và hưởng thụ huyết của con trâu này vào sáng ngày mai. Sống lâu, mạnh khỏe, hạnh phúc. Chúng tôi nguyện trung thành giữa chúng tôi cho đến đời con, đời cháu chúng tôi. Bởi đó là lời Thần dạy.

Sau lời khấn vái ấy, tôi cùng các bô lão vào nghỉ trong căn lều của viên phù thủy, mái lợp bằng da đan vào nhau, căn lều hoàn toàn bằng tre, ngoại trừ các cây cột và xà ngang đều bằng gỗ teck. Trong nhà có trang hoàng nhiều hình thù bằng gỗ khắc, các dấu hiệu về mặt trời, mặt trăng, hình bò cạp, cá, và bao giờ cũng là hình to lớn của thần rắn, và hình mặt trời gọi là Svastika. Ở chân cột có treo nhiều giá đựng binh khí, những bộ trống chiêng, những vò, hũ cổ, những chậu đồng. Chúng tôi uống rượu cần xung quanh lò lửa.

Ở giữa bọn người mộc mạc cổ xưa này, tôi cảm thấy an ninh vô cùng. Tình lưu luyến tôn kính của họ đối với cá nhân tôi không bao giờ phai lạt. Họ là người ưa chuộng tự do, rất hãnh diện và kiêu ngạo, lòng trung thành của họ là điều khuôn mẫu. Bị dồn ép vào sâu trong rừng núi, khuất hẳn với thế giới bên ngoài do tấm bình phong dày đặc của rừng, họ được hiểu biết, yêu mến kính trọng và che chở.

Chính vào dịp đàm phán ban đầu, trước khi ký thỏa hiệp mùng 8 tháng 3, tôi đã nêu lên vấn đề đất đai rừng núi và những sắc dân thiểu số, ông Léon Pignon đã gợi ý rằng đất đai này và các sắc dân này phải được đặt trong một qui chế riêng, đặt họ vào đất đai của Hoàng triều cương thổ. (Xin xem phụ đính V.)