← Quay lại trang sách

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Đầu năm 1950, sau tám tháng cầm đầu chính phủ, mặc dù bị rất nhiều chống đối gieo rắc chông gai, tôi có cảm tưởng là chưa đến nỗi bỏ mất thời gian vô ích. Cuộc đặt nền móng hành chánh Việt Nam rất tiến đạt, điều làm tôi quan tâm nhất chính là việc kiến tạo một đạo quân quốc gia. Cuộc thảo luận về quân sự sẽ họp vào ngày 2 tháng giêng tại Vũng Tàu, coi như là bước khởi đầu.

Cho đến năm 1948, tại Việt Nam mới chỉ có một số cơ cấu quân sự địa phương, không được tập trung, loại địa phương quân của các viên tỉnh trưởng. Toàn thể quân số không hơn 20 ngàn người, và giá trị cũng chênh lệch vô cùng. Sau thỏa ưởc ở vịnh Hạ Long, chính phủ lâm thời đã đặt được sự thỏa thuận để ấn định quân số tương đối, sự hình thành một đạo quân Việt Nam. Nhiệm vụ của đạo quân này là phối hợp với lực lượng quân đội Pháp, tái lập lại an ninh và bảo vệ lãnh thổ.

Chương trình dự định là sẽ có hai loại quân: một loại cố định, đóng tại chỗ tương đương với lính bảo an với quân số khoảng 20 ngàn người, và một loại cơ động khoảng 16 ngàn người, chia ra làm ba lữ đoàn. Từ đó, sẽ lập ra một đạo quân tự trị, và song song với nền hành chánh trung ương để cùng được thành lập.

Vào tháng 6 năm 1949, ít ngày sau cuộc trở về của tôi, quân lực Việt Nam lúc ấy đã có khoảng 23.000 người, trong đó có hai lữ đoàn quân chính qui - mà hai đại đội đã nhảy dù xuống giáo khu Phát Diệm vào mùa thu - thêm vào đấy 18.000 quân trừ bị tạm thời nữa. Thỏa ước mùng 8 tháng 3 đã đặt căn bản cho một qui chế thực sự của đạo quân quốc già, mà những thỏa hiệp hay những giao kết sau này, chì là sự giải thích hay áp dụng tùy theo trường hợp mà thôi.

Qui chế ấy nói rõ về tính chất của quân lực Quốc gia Việt Nam: Sự hình thành là do người Pháp giúp đỡ, trong thời có chiến tranh, nó phải phụ thuộc vào một viên tướng Pháp, sự cấu tạo một Uỷ ban quân sự hỗn hợp vĩnh viễn, và cuối cùng sự bảo đảm căn cứ và dồn trú cho lực lượng quân đội của Liên hiệp Pháp sau khi hòa bình được vãn hồi.

Thỏa hiệp quân sự được ký ngày 30 tháng chạp năm 1949 với ông Pignon, giải thích các nguyên tắc ấy. Ngoài ra, sự thỏa hiệp cũng nhấn mạnh về phần của Việt Nam trong việc duy trì đạo quân ấy với sự góp phần của nước Pháp: cung cấp dụng cụ và trang bị, cung cấp sĩ quan, hạ sĩ quan Pháp và huấn luyện các cấp chỉ huy Việt Nam.

Trong hoàn cảnh hiện tại, một điều khoản đặc biệt được dành cho bộ Tư lệnh Pháp để sử dụng lực lượng quân sự Việt Nam, và sự kiến tạo một Uỷ ban Tối cao nhằm vào đường lối chung để tái lập trật tự. Vẽ quân số điểm chính là tăng quân số lên thành 50.000 người, trong đó có tám tiểu đoàn đặt dưới quyền sử dụng của chính phủ trung ương.

Hội nghị ngày mùng 2 tháng giêng đặt nguyên tắc tăng cường quân số này cho năm tới là 30 ngàn quân chính qui, gồm 12 tiểu đoàn và 35 ngàn quân trừ bị. Nó cũng dự trù thành lập Hải quân quốc gia Việt Nam, dưới hình thức các giang đỉnh, và dự trù được sự hỗ trợ của Hoa Kỳ sau này.

Theo dự tính của tôi, một thời hạn tám năm là đủ, để chúng tôi có thể hoàn toàn thay thế được quân đội Pháp bằng quân lực của Việt Nam. Tôi đã dự trù sự thành đạt này vào khoảng năm 1958. Nhưng trong lãnh vực ấy, công việc đối với tôi như đã đi đúng đường hướng, và tôi nghĩ rằng đã đến lúc tôi có thể rời bỏ nhiệm vụ lãnh đạo chính phủ, để dành thời giờ làm nhiệm vụ lãnh đạo quốc gia, một cách dễ dàng hơn. Việc đảm trách cả hai nhiệm vụ này chỉ là sự cần thiết để tái lập quyền hành cho chính phủ. Ngày nay thì công việc đã được hoàn tất. Vì vậy, ngày mùng 5 tháng giêng, tôi ban bố một thông cáo trong đó, tôi nhắc lại nhiệm vụ của tôi là đặt cơ cấu cho quốc gia và cho nền cai trị của quốc gia Việt Nam, rằng nước Pháp qua vị đại diện là ông Pignon đã trao trả Việt Nam tất cả mọi quyền hành, tôi báo tin sự rời bỏ chức vụ lãnh đạo chính phủ của tôi, và do thế bãi bỏ toàn thể nội các ấy.

Ngày hôm sau, với cương vị Quốc trưởng, tôi đề cử ông Nguyễn Phan Long lập tân chính phủ. Nguyễn Phan Long, bộ trưởng Bộ Ngoại giao trong chính phủ của tôi đã đặc biệt thành công trong công tác của ông ta, vì đã đạt kết quả đưa nước Việt Nam vào Uỷ ban Kinh tế của Liên hiệp quốc ở Á châu và Viễn Đông, để có thể tiến thêm bước nữa mà vào thẳng Liên hiệp Quốc (ONU).

Cũng ngày hôm ấy, tôi cử 12 đại biểu cho Việt Nam vào Quốc hội Liên hiệp Pháp, trong số đó có Phạm Văn Bính coi như là Trưởng phái đoàn.

Tất cả mọi hoạt động đó, nếu không được dư luận Pháp chú trọng đến nhiều thì ngược lại, đã gặt hái được nhiều kết quả trong dư luận quốc tế. Ngày 11 tháng giêng, tờ báo Times viết như sau:

“Sau khi Hoàng đế Bảo Đại trở về Việt Nam, những nhà ái quốc có lập trường quốc gia vốn e ngại Ngài vẫn chỉ là một thứ bù nhìn trong tay Pháp, nên không mấy sốt sắng để tôn phò Hoàng đế, mặc dù họ rất thù hận đối với chế độ đàn áp của Hồ Chí Minh, và đảng Việt Minh thiên Cộng sản. Thái độ ấy nay thay đổi hẳn. Dân chúng Việt Nam nhận thấy rằng các vị trí then chốn trong chính phủ Bảo Đại đều do các đồng bào mình đảm trách, rằng Vua Bảo Đại thật sự là chủ nhân ông đất nước, và quân đội Việt Nam dù được lực lượng quân sự Pháp yểm trợ, vẫn cầm đầu cuộc chiến chống lại chiến tranh du kích của Hồ Chí Minh.

“Vua Bảo Đại đang từ từ liên kết được mọi người. Ngài đã mở rộng ảnh hưởng đến những vùng trù phú lúa gạo ở Nam kỳ; ngay tại miền Bắc mà Việt Minh mạnh nhất, Ngài bắt đầu tạo được ảnh hưởng của mình. Điều này một phần là do Ngài được Pháp dần dần nhượng bộ nhiêu để thỏa mãn các nguyện vọng quốc gia của toàn thể dân chúng Việt Nam. Chính phủ của Ngài đã có quyền gửi đại diện ngoại giao riêng biệt ra các nước ngoài, và trong nước thì chủ quyền quốc gia được hoàn toàn, ngoại trừ một số đặc ân dành cho quân đội Pháp. Ngay chính Hoàng đế cũng đã từ bỏ nhiệm vụ Thủ tưởng, và bắt đầu làm việc trong một nội các theo kiểu của Pháp...”

Tân nội các được thành lập ngày 19 và 22 tháng giêng, Nguyễn Phan Long trình tôi nội các này để xin được duyệt y. (12)

Ngày hôm sau, tôi đi bằng máy bay ra miền Bắc để thăm các sắc dân thiểu số của vùng Hoàng triều cương thổ. Đầu tiên, đến Lạng Sơn là nơi cửa ngõ của Việt Nam với Trung Hoa. Sau đến vùng thượng du ở Lai Châu. Tôi được viên Quan lang Đèo Văn Long, kiêm nhiệm chức chủ tịch Liên hiệp các sắc dân Thái Mèo đón tiếp. Ông này vốn là truyền nhân của Sơn vương Đèo Văn Trì, về thế kỷ trước, từng làm run sợ dân chúng hiền hòa Lào. Long có ảnh hưởng rộng lớn chẳng những đối với người Thái trắng ở Lai Châu, và còn cả với người Thái đen ở Sơn La. Đây là một khu vực rộng lớn gồm toàn núi và rừng trong đó còn có người Yao và Mèo, chiếm đóng hoàn toàn vùng tây bắc thượng du miền Bắc.

Sự thăm viếng của tôi đối với các sắc dân này, theo truyền thống hiếu khách cổ xưa, tạo nên những ngày hội hè để chào đón, với nhiều thú vui của dân gian. Lai Châu mang hình thái tươi vui của ngày hội. Rượu ủ lâu năm từng vò tuôn ra như nước chảy, và các thiếu nữ Thái diêm dúa trong những chiếc váy bằng lãnh đen, áo sơ-mi cổ viền trắng, có các đồng trang sức bằng bạc. Họ múa xòe và chỉ ngưng lại để nhấm mứt gừng, rồi lại múa nữa liên miên.

Sự đón tiếp vừa long trọng vừa mộc mạc đó, làm cho tôi rất ấm lòng và tin tưởng. Hơn nữa, Đèo Văn Long và người em là Đèo Văn Muôn, hứa với tôi sẽ thành lập nhiều tiểu đoàn Thái để tạo nòng cốt cho đạo quân mới sơ sinh của tôi. Như vậy, vào giờ phút mà những sự xâm nhập qua biên giới miền Bắc là đầu đề chính để chúng tôi lo ngại thì sự trấn đóng của các đạo quân Nùng khét tiếng của Vòng A San ở địa đầu miền Động Bắc, và đạo quân người Thái trung thành ở miền Tây Bắc này, tạo cho tôi những cơ cấu khá yên tâm. Tôi trở về Đà Lạt rất hài lòng.

Tại Paris, đây là lần đầu tiên, đại diện của chúng tôi can thiệp vào Quốc hội của Liên hiệp Pháp, đang thảo luận về dự án đạo luật nhằm duyệt y các hiệp ước ký kết giữa các quốc gia liên kết của Việt Nam, Cam Bốt và Ai Lao cùng nước Pháp. Sự duyệt y này sẽ do Nghị viện Pháp biểu quyết vào ngày 26 tháng giêng năm 1950, trong đó, ông Devinat phát ngôn viên của Hội đồng Lãnh thổ Hải ngoại tuyên bố như sau:

- Những tiến bộ đã không thể chối cãi. Vua Bảo Đại đã có thể di chuyển rất bình an trong những tỉnh lớn của nước ông. Sự trở về với tân chính phủ mỗi ngày mỗi nhiều, trong sáu tháng gần đây, đặc biệt đối với miền Bắc, ở vùng Bạch Mai, Lào Kay, và Lạng Sơn, ở miền Nam trong các tổ chức Cao Đài và Hòa Hảo.

(Cần đặc biệt lưu ý là những diễn biến tháng mười vừa qua đã cho thấy sự qui hồi của 200.000 giáo dân Phát Diệm, ở về phía đông nam Hà Nội. Chính lãnh tụ của họ, Đức Cha Lê Hữu Từ lần này đã phải cầu cứu đến sự che chở của Vua Bảo Đại. Và cũng chính một đơn vị lính dù Việt Nam đã được ủy nhiệm nhảy xuống giải phóng và che chở cho tập thể quan trọng dân chúng này. Sự trở về đó đã tạo cho chính phủ Việt Nam một ảnh hưởng tâm lý rộng lớn. Nó thúc đẩy lớp giảo dân đoạn tuyệt hẳn với Việt Minh)

“… Như thế, những cam kết của Vua Bảo Đại đã được thực hiện. Những nỗi e ngại có thể ngờ từ lúc đầu về sự nhu nhược của nhà Vua đã được giải tỏa. Chính phủ của ông đã được thành lập. Những điều khoản cần thi hành trên các hiệp ưdc đều được ký kết. Quyền hành trước kia ở trong tay Pháp thì nay đã trao trả lại cho nhà Vua. Ông đã có thực lực trong tay, và chứng tỏ đã biết sử dụng thực lực ấy.

“Tân chế độ đã tăng trưởng được uy tín, và bành trướng được quyền hành một ngày một mạnh, để có thể tự mình, với đạo quân quốc gia của mình, đảm trách được nhiệm vụ khó khăn là vãn hồi được trật tự trên đất nước. Thêm vào đấy nữa, đó là cảm tưởng của những quan sát viên quốc tế, mang từ Đông Dương về, vốn từ lâu vẫn nghi ngờ về sự khoe khoang nội lực của chúng ta lẫn của nhà Vua.

Lấy ngay lời lẽ mà Chủ tịch Liên hiệp Pháp, viết trong bức thư đề ngày 27 tháng 7 là Hòa bình nằm trong tay dân chúng Việt Nam, và chỉ nằm trong tay họ, nước tân Việt Nam chỉ còn chờ sự duyệt y của các hiệp định, để mang về cho dân chúng do Hoàng đế Bảo Đại lãnh đạo, chứng tích của sự trưởng thành của đất nước”.

Trong dịp tranh luận ở Nghị viện, tân bộ trưởng bộ Pháp quốc Hải ngoại, ông Jean Letourneau không ngớt can thiệp nhiều lần. Trả lời các nghị sĩ, ông đã chứng tỏ rằng việc lựa chọn Hoàng đế Bảo Đại làm người trung gian đàm phán đã gạt ra ngoài mọi điều đình với Việt Minh. “Quyền năng của Hoàng đế do thiên mạng, và đo uy tín của hoàng triều mà có được. Uy quyền mà ông đảm trách hàng ngày càng vút lên cao trong những tháng gần đây, nền cai trị của ông càng thêm hữu hiệu và hơn nữa, những cam kết của ông, đã tiến đạt đến chỗ, có thể mở được một cuộc trưng cầu dân ý, một khi hòa bình được vãn hồi, để đưa đến một nền dân chủ cho đất nước”.

Một nghị sĩ đã nói đến những khó khăn mà gần đây, nước Việt Nam đã được Trung Hoa công nhận. Ông Letourneau trả lời: Vấn đề ngoại giao giữa Tàu và Việt Nam, chỉ có thể thực hiện được, do sự chấp nhận chung của Việt Nam và Pháp sau cuộc họp bàn của Hội đồng Tối cao Liên hiệp Pháp. Mặt khác, các lãnh sự quán Trung Hoa hiện nay đang có mặt ở Việt Nam tạo những dữ kiện có lợi cho chủ quyền nội bộ Việt Nam, và là yếu tố quan trọng cuối cùng để chính phủ Việt Nam được Mao Trạch Đông công nhận.

Cuối phiên họp, ông Letourneau nhấn mạnh đến sự tương đồng, và những mối quan ngại của các nước Tậy phương, qua nhiều thế kỷ, đã thiết lập bang giao với nhiều nước ở vùng Đông Nam Á:

- Nước Hòa Lan vừa giải thích ở Hội nghị La Haye mối liên lạc mới của họ với các nước Nam Dương. Tại Hội nghị Colombo, các nước thuộc khối Hoàng gia Anh cũng được giải thích về mối bang giao này, như nước Ấn Độ hay Pakistan.., Vậy thì, sự chuẩn y các hiệp định ngoại giao của nước Pháp cũng được dựa theo hình thái của nước Hòa Lan và Anh quốc.

Rồi ông kết luận bản tường trình cửa ông như sau:

- Việc gia nhập cuối cùng mà chúng ta hy vọng ở các nước Đông Đương vào Liên hiệp quốc, sẽ là điểm chót của nền độc lập, để thỏa mãn tất cả mọi nước đều mang một mộng ước dân chủ như nhau. Nước Pháp để cho ba nước Liên kết ở Đông Nam Á tự đảm đương lấy trách nhiệm hoàn toàn của họ. Từ nay nó chỉ còn hiện diện để bảo vệ họ đối với những đe dọa bên ngoài. Nước Pháp chỉ còn ở đó, để giúp đỡ họ, bằng những cố vấn, hay bằng những kỹ thuật gia để giúp đỡ họ qua những điều vật chất và kinh tế, để tái thiết mọi điều đổ nát, để xây dựng một nền hòa bình nội bộ, và để phát triển mọi sự mở mang…

Các nước Liên kết mới của chúng ta này phải dành mọi nỗ lực để tổ chức trên bình diện quốc gia, một lực lượng cao lớn để có thể thoát sự nhờ vả vào chúng ta hầu kiến thiết đất nước. Để chấm dứt một lần vĩnh viễn, đối với những nghi ngờ bất công là chúng ta không có thực ý, hay lấy lại cái mà chúng ta đã cho, sự chuẩn y các hiệp định này có một giá trị không thể so sánh, trên toàn bán đảo Đông Dương cũng như toàn Liên hiệp Pháp ở hải ngoại. Cử chỉ ấy, vẫn được dư luận thế giới, từ nhiều năm qua chú trọng đến. Đã từ lâu, người ta vẫn muốn chấm dứt, nhanh chừng nào hay chừng ấy, là đáp ứng nguyện vọng của dân chúng Đông Dương. Nay cửa đã mở do hiệp định này, địa hạt ngoại giao cũng như vào tổ chức Liên hiệp quốc, để có thể được sự trợ giúp hỗ tương quốc tế.

Nhưng thật sự người ta đã bỏ phí đi mất bốn năm quí báu, và tất nhiên điều gì đã nói ra ở Paris dù thiện chí đến mấy vẫn không phải lúc nào cũng có những tiếng vang trung thực. Vì vậy, mặc dù có lời tuyên bố long trọng của Nghị viện, lẽ ra là một đạo quân hoàn toàn quốc gia Việt Nam, người ta vẫn nói là lai Việt Pháp và cũng không phải đây là điều mâu thuẫn đáng kể nhất, cho lời nói ở Paris khác với việc làm ở Sài Gòn, mà còn nhiều người Pháp, nghĩ rằng, mục đích cần thiết, dù hiệp ước có ký, vẫn là để đặt nước Pháp ở lại Đông Dương.

Dù sao nữa, thì sự việc cũng đã xảy ra, và tôi rất lấy làm hài lòng, khi được Anh quốc công nhận ngày 7 tháng 2 cùng với Hoa Kỳ, rồi ngày 2 tháng 3 do nước Xiêm và ngày 12 tháng 3, do Tòa Thánh Vatican. Về phía Việt Minh, họ được Trung Cộng của Mao Trạch Đông công nhận và sau đó ngày 31 tháng 1 được Nga Sô công nhận. Cộng sản quốc tế trên tất cả các nước, đứng chung vào một khối…

Dù sao nữa, họ cũng có phản ứng ở Pháp. Vài tháng sau, tôi được biết đầu tháng 3, cảnh sát Pháp nghe phong phanh một dự mưu của một nhóm cực tả. Chúng định bắt cóc Hoàng thái tử Bảo Long, và dùng làm con tin để đánh đổi tôi phải rút lui, nhường chỗ cho Hồ Chí Minh. Hoàng tử sau niên học đã ghi danh vào học trường Roches ở Masselac, trong miền cao nguyên Hautes Pyrénées lập tức được Tòa Đô chánh bảo vệ trước, sau được đưa vào một tu viện trong vùng.

Khi tôi được tin Tòa Thánh đã công nhận nền độc lập của Việt Nam, tôi được hai Giám mục Phát Diệm và Bùi Chu báo tin ngay bằng thơ. Rồi sau đó, hai Cha ra Hà Nội gặp tôi ngày 23 tháng 3. Tôi hiểu hoàn cảnh của hai vị lúc ấy. Việc nuôi một đạo quân tự vệ rất tốn kém đối với các ông… Vì vậy, mặc dù bị Nguyễn Hữu Trí, thủ hiến Bắc Việt, không mấy tán thành, do một đạo dụ, tôi cho phép hai ông được rộng quyền ít nhiều trong việc quản trị giáo khu, và thêm một trợ cấp mỗi tháng là 300.000 đồng nữa.

Quyết định này gặp phải phản ứng của nhóm Đại Việt, là nhóm cầm quyền ở Bắc Việt mà Nguyễn Hứu Trí là một lãnh tụ.

Phan Huy Quát, Lê Thăng và Nguyễn Tôn Hoàn đệ đơn từ nhiệm vào ngày 24 tháng 3. Việc trợ cấp cho các giáo khu gây một hậu quả khác nữa. Phạm Công Tắc, khi biết tin, cũng đến gặp tôi để yêu cầu một sự hỗ trợ cho quân đội Cao Đài. Vị Hộ pháp Cao Đài này chỉ xin được trông thấy một nhân vật của ông ta, được đặt vào vị trí bộ trưởng bộ Tài chánh, hay bộ trưởng bộ Quốc phòng. Theo ý kiến của ông ta, sự bổ nhiệm này tương đương với một sự hỗ trợ bằng hiện vật.

Tình hình miền Nam làm tôi rất quan ngại. Người ta nhận thấy một sự gia tăng của khủng bố. Trong tháng tư, viên chánh mật thám Bazin bị ám sát chết. Do một thân nhân của mình đang ở trong kháng chiến, Nguyễn Phan Long đã muốn tìm cách tiếp xúc với Nguyễn Bình là tướng trong chiến khu ớ miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, sự mong muốn tiếp xức này, đã chẳng đi đến đâu, mà ngược lại, lại đẩy viên tướng Việt Minh đến chỗ mạnh tay hơn.

Việc thẳng tay khủng bố ở Sài Gòn đã có một ảnh hưởng tai hại; dưới hình thức mù quáng, là một hành động vừa dễ dàng lại vừa đắt giá đối với Việt Minh.

Tôi cương quyết yêu cầu Cao ủy để chính tôi nắm quyền chỉ huy cảnh sát. Sau nhiều buổi thảo luận, hai ông Pignon và Perrier đồng ý chấp nhận lời yêu cầu này. Theo chỉ thị của tôi, Trần Văn Hữu liền bổ nhiệm Nguyễn Văn Tâm làm bộ trưởng An ninh. Ông này được tiếng là “Cọp xám Cai Lậy,” liền hoàn tất nhiệm vụ của mình bằng một công tác khả quan, và hệ thống khủng bố của địch bị tan rã lần lượt hết. Trong công tác ấy, vấn đề tình báo là yếu tố quan trọng bậc nhất.

Tất nhiên, là những tin tức đem đến cho viên chức chỉ huy tình báo Việt Nam vẫn dễ dàng hơn đối với nhân viên Pháp.

Ngày 24 tháng 4, nội các Nguyễn Phan Long bị suy yếu vì bốn bộ trưởng thuộc đảng Đại Việt, phải đệ đơn từ chức.

Tôi liền bổ Trần Văn Hữu, một nhân vật người Nam, phụ tá cũ của Tướng Xuân, lập tân nội các. Ông ta liền trình tôi vào ngày 6 tháng 5 nội các của ông ta (13).

Vào tháng 4, do dụ mang số 6, tôi đặt vào đầu tỉnh các viên tỉnh trưởng người Việt để thay thế các cựu công chức người Pháp. Tôi củng bổ nhiệm vào các vùng Cao nguyên, Hoàng triều cương thổ, những người có trách nhiệm thuộc các sắc dân thiểu số ở nơi đó. Như vậy, đã đặt ở vùng Đồng Nai thượng, vùng Lang Biang, Pleiku, Darlac, Kontum đối với miền Nam và miền Trung Việt Nam. Vùng Phong Thổ, Lạng Sơn, Hagiang, Lao Kay, Backan, Cao Bằng, Hòa Bình, Hải Ninh, Lai Châu và Mongcay ở miền Bắc Việt Nam, để giữ những nét độc đáo của những tỉnh ấy. (Xin xem phụ đính V)

Đối với ba tỉnh miền Cao nguyên miền Nam, tôi bổ nhiệm ba viên chức người Pháp, là ông Riener ở Pleiku, ông Doustin ở Kontum, và ông De Pontiche ở Darlac, Đại tá Didelot đại diện cho tôi bên cạnh họ.

Vào đầu tháng 6, để hoàn tất nội các, tôi bổ Nguyễn Đệ làm Chánh vằn phòng của tôi. Thế là giữa hai chúng tôi, đã có sự trở về để gặp lại nhau. Năm 1932, khi tôi về nước cầm quyền, thì Nguyễn Đệ là một thanh niên trẻ tuổi, tây học mà tôi muốn dùng để canh tân xứ sở. Nhưng người Công giáo rất trung tín này, vốn thân với Ngô Đình Diệm rất bực mình thấy thực dân Pháp quá bủn xỉn, nên đã từ chức cùng với họ Ngô. Từ đó, ông ta rất nổi tiếng trong mọi vấn đề mà ông đã đạt, với tinh thần liêm khiết tuyệt đối. Được người Nhật biết đến, ông ta không chịu hợp tác với Nhật nên vào thời ấy, đã cố gắng lẩn trốn để khỏi bị khủng bố. Cho đến tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh vời ông ta ra làm cố vấn kinh tế.

Từ đó, ông ta bắt tay vào việc. Khi ông từ Âu châu trở về, ông ta được Cao ủy Pignon, nhiệt liệt giới thiệu với tôi, chắc chắn là do ảnh hưởng của Vatican.

Tôi liền bổ nhiệm ông ta làm Chánh văn phòng dự khuyết, thay thế cho Bửu Lộc, giữ văn phòng của tôi ở Paris. Vì ông ta được sự giới thiệu của ông Pignon, tôi đâm cảnh giác: Phải chăng ông ta được đặt cạnh tôi để canh chừng tôi?

Sau đó ít lâu, tôi nhận thấy ông đảm trách công tác rất hoàn hảo, vì vậy, tôi gọi ông ta đến và nói cho biết vị trí rất khó khăn của tôi. Nhiều khi tôi phải dùng đến những biện pháp thật khó chịu, bất đắc dĩ vô cùng. Tuy nhiên, tôi phải là người “không ai được đụng chạm đến”. Như vậy, tôi cần phải có một người đóng vai hộ giá, để hứng chịu thay tôi mọi điều chỉ trích. Tôi liền hỏi ông ta:

- Nếu ông nhận đóng vai trò đáng ghét và bạc bẽo ấy, tôi sẵn sàng giữ ông ở lại chức vụ Chánh văn phòng này… Nếu không, ông có thể rút lui, và tôi đã nói hết lời.

Người Công giáo rất nghiêm chỉnh này, không thể nào chờ đợi lâu la để nghe lời đề nghị ấy. Trong gần cả thế kỷ, tổ tiên ông đã là những thần tử khuôn mẫu của các tiên đế của triều đại. Vậy thì ông phải tỏ cho tôi biết, ông là một cộng sự viên mà lòng trung thành không thể chối cãi được. Bất cứ ở đâu, ông cũng theo tôi như bóng theo hình, làm các nhiệm vụ rất tế nhị và nhiều khi khó khăn với một tinh thần và một tấm lòng xả kỷ, trong bất cứ trường hợp nào, và cũng với đầy đủ tư cách, nhiều khi làm cho ông có khuôn mặt nghiêm trang của kẻ dâng mình mang thập giá. Như vậy, giữa lúc mà chiến tranh đã lan rộng sang Lào và Cao Miên, gieo rắc chia rẽ và hận thù, thì Việt Nam đã bắt đầu phục hồi lại được thống nhất. Tôi đã kêu gọi các nhà trí thức, và một năm sau ngày trở về chấp chính, tôi đã có một cơ cấu thống nhất và dính liền. Từ nay tôi đã có thể chơi đủ ngón đờn dư luận: Với các gia đình Phật tử, tôi có Phạm Công Tắc, giáo chủ Cao Đài. Tôi lại có ba khuynh hướng của đạo Hòa Hảo với Tướng Trình Minh Thế, với Tướng Trần Văn Soái và viên phụ tá của ông là Ba Cụt, với nhóm Bình Xuyên của Bảy Viễn, đối với bên Công giáo, tôi có Đức Cha Lê Hữụ Từ và Nguyễn Đệ, đối với các sắc dân thiểu số tôi dùng các đặc ân của Hoàng triều cương thổ.

Chú thích:

(12) Ngoài chức vụ Thủ tướng, Nguyễn Phan Long còn kiêm nhiệm cả bộ Ngoại giao và bộ Nội vụ

- Nguyễn Khắc Vệ, bộ trưởng bộ Tư pháp

- Phan Huy Quát, bộ trưởng bộ Quốc phòng

- Dương Tấn Tài, bộ trưởng bộ Tài chánh

- Vương Quang Nhường, bộ trưởng bộ Quốc gia Giáo đục

- Lê Quang Huy, bộ trưởng Công chảnh & Giao thông Vận tải.

Nhiêu quốc vụ khanh như:

- Đinh Xuân Quảng, bộ trưởng Phủ Thủ tướng

- Lê Thăng, cạnh bộ Canh nông

- Võ Huy Thường, cạnh bộ Y tế

- Hoàng Cung, cạnh bộ Thương mại

- Lê Văn Hảo, cạnh bộ Xã hội

- Nguyễn Tôn Hoàn, cạnh bộ Thanh niên.

(13) Nội các Trần Văn Hữu gồm có:

- Trần Văn Hữu, thủ tướng, kiêm bộ trưởng Quốc phòng và Ngoại giao

- Nguyễn Khắc Vệ: bộ trưởng bộ Tư pháp

- Dương Tấn Tài: bộ trưởng bộ Tài chánh

- Trần Quang Vinh: bộ trưởng bộ Nội vụ

- Vương Quang Nhường: bộ trưởng bộ Quốc gia Giáo dục

- Lê Quang Huy: bộ trưởng bộ Giao thông Công chính

- Hoàng Cung: bộ trưởng bộ Kinh tế và Kế hoạch

- Đặng Hữu Chí: bộ trưởng bộ Y tế và Xã hội

- Trần Văn Tuyên, tổng thư ký cạnh bộ Ngoại giao

- Đinh Xuân Quảng: tổng thư ký về Công vụ

- Nguyễn Tôn Hoàn, tổng thư ký về Thanh niên và Thể thao.