← Quay lại trang sách

Hội nghị Paris

Ngày 20 tháng 6 năm 1950, tôi đi Pháp, bởi ở đó có một Hội nghị Paris. Tôi đến phi trường Nice để đi Cannes, thăm gia đình. Tại đây tôi được hai tin nóng hổi: Chiến tranh Triều Tiên, và sự đổ vỡ của chính phủ Georges Bidault. Tin thứ nhất rất quan trọng bởi hậu quả của nó có thể có ảnh hưởng đến khắp cả Viễn Đông. Cốn tin thứ hai, thì chẳng có gì để cho tôi quan tâm, bởi sự bấp bênh của chính phủ Pháp vẫn là thứ thường xuyên kể từ năm 1945, vì lý do tất yếu của sự yếu kém của nước Pháp.

Hội nghị Paris khai mạc từ 29 tháng 6, trong khi Pháp không có chính phủ. Cần phải đợi đến ngày 11 tháng 7, để chính phủ mới Pleven của Pháp được thành lập, hầu tìm thấy qua ông Jean Letourneau, trở thành tân Bộ trưởng các nước Liên kết, một nhân vật chính thức có thẩm quyền về vấn đề này. Thủ tướng Trần Văn Hữu theo tôi sang Pháp giữ vai trò đại diện cho Việt Nam ở Hội nghị.

Ở Paris, Hội nghị liên quốc gia, đã tập trung các đại diện của Việt Nam, của Cam Bốt, của Lào và của Pháp. Hội nghị nhằm giải quyết các vấn đề quan thuế, ngoại thương, các vấn đề trang bị, và du nhập của ba nước Đông Dương, đồng thời vấn đề đi lại trên sông Cửu Long và trong tương lai, cả qui chế về cảng Sài Gòn.

Lúc đầu, dự định tối đa là một tháng, hội nghị kéo dài với rất nhiều rắc rối và kết thúc vào ngày 27 tháng 11, sau năm tháng đấu khẩu và nói chuyện cà kê dê ngỗng.

Cựu Toàn quyền Đông Pháp Albert Sarraut đến với tư cách trưởng phái đoàn Pháp, được bầu làm chủ tịch hội nghị. Đối với tôi, tôi đã cố gắng né tránh để đứng ngoài hội nghị.

Ngày 30 tháng 7, tôi bổ nhiệm Bửu Lộc làm Cao ủy của Việt Nam ở Pháp. Rồi trước khi về Cannes để nghỉ ngơi ít ngày, tôi đến thăm Tổng thống Vincent Auriol. Nhiều tiếng vang, và do nhiều nguồn tin đã báo cho tôi biết, trước đây mặc dù với biết bao cố gắng tại chỗ của tôi, Tổng thống đã nhiều lần tức giận về thái độ của tôi. Tổng thống đã gợi ý với nhiều người là cần phải gạt tôi ra, để thành lập dễ dàng một chính phủ lâm thời dân chủ cộng hòa, hầu có thể nói chuyện với Hồ Chí Minh và đưa ra những đề nghị hòa bình với ông ta.

Tuy nhiên, khi tiếp tôi, Tổng thống Auriol vẫn giữ thái độ niềm nở cố hữu, và không tỏ gì là có sự thay đổi thái độ đối với tôi.

Tổng thống đã nhắc đến một bài báo của ông Maurice Duverger, nói về Đông Dương, viết trên tờ Le Monde vào đầu tháng 7, bài báo mà Tổng thống cho rằng có tính chất đầy tội ác, đã xác nhận là nước Pháp đã quyết định dành một nỗ lực lớn lao, rồi nói cho tôi biết cảm tưởng của ông đối với nước Tàu của Mao Trạch Đông và nhấn mạnh đến yếu tố mới mẻ do chiến tranh Triều Tiên gây nên. Tổng thống kết luận tình bằng hữu và chúc cho hội nghị Paris - tôi luôn tự hỏi lý do nào mà lại đặt hội nghị ở tỉnh này - chóng kết thúc vào đạt kết quả cụ thể.

Ở Cannes, ngày 19 tháng 8, hai ông Letourneau và Pignon đã bất chợt đến gặp tôi. Họ đến để bàn với tôi một vấn đề quân sự. Vấn đề này không được sáng sủa cho lắm, như các bản thông cáo của bộ Tư lệnh Pháp đã tung ra. Trên biên giới nước Tàu, các đạo quân Việt Minh được thành lập, trang bị, và huấn luyện bởi các tay cộng sản Trung Hoa, và bắt đầu hoạt động mạnh. Điều làm cho hai ông này lo ngại nhất, chính là sự bất đồng ý kiến giữa hai viên tư lệnh Pháp, tức vị Tổng chỉ huy là Đại tướng Carpentier và vị Phó của ông ta ở miền Bắc là Tướng Alexandri. Thế mà, gần đây, viên tư lệnh phó này lại được nghỉ ở Cannes, trong một thời gian ngắn. Hai vị quí khách yêu cầu tôi khuyên giùm ông ta nên bớt nóng đi, và bỏ mộng hạ bệ Việt Minh vốn là điều trái nghịch với ý định của viên tướng của ông ta. Cũng phải nói thêm rằng Tướng Alexandri. lợi dụng cơ hội về Pháp để loan rắc trong các giới Paris, những lý luận không đúng với luận cứ mà người ta gán cho là của Sài Gòn. Tôi cho mời Tướng Alexandri và theo như yêu cầu của vị bộ trưởng, tôi gợi ý cho ông ta nên trở lại Sài Gòn càng sớm càng tốt.

Tôi chỉ được biết vài ngày sau đó, do bản thông cáo của ông Pignon, là Tướng Cárpentier, trở lại các dữ kiện đã được đề ra từ 15 tháng trước của Tướng Revers là bỏ hết các đồn binh dọc biên giới Trung Hoa, từ vùng thượng du Bắc kỳ cho đến Lạng Sơn. Tôi không rõ có phải do ảnh hưởng của tôi, mà Tưởng Alexandri lên đường trở về Hà Nội hay không, ở Paris người ta thở ra nhẹ nhõm, nhưng cũng chẳng được bao lâu…

Nhân dịp nghỉ hè cho các niên học, tôi sang Ý cùng với Hoàng hậu và các con. Thật vậy, Đức Giáo hoàng Piô XII vẫn hằng muốn tiếp kiến tôi dưới tính cách tư. Tòa Thánh Vatican đã công nhận nước Việt Nam ngày 12 tháng 3 năm 1950. Ngày 4 tháng 9, Tổng giám mục Montini đón tôi trước cửa tư dinh của Giáo hoàng, để đưa tôi vào gặp Đức Thánh Cha. Trước mặt toàn gia đình và Khâm mạng R.P. Dooley, từ Sài Gòn sang về việc này, Giáo hoàng đã tiếp kiến tôi với tất cả niềm ưu ái. Đức Giáo hoàng cảm tạ tôi đã giúp đỡ cho các giáo dân Việt Nam. Ngài nói rằng, trong công cuộc chiến đấu chống lại vô thần cộng sản, tôi có thể tin ở cộng đồng Công giáo Việt Nam được. Sau sự tiếp kiến này, mặc dù dưới hình thức thân ái, vẫn tỏa ra sức mạnh của Đức Thánh Cha, chúng tôi cùng chụp một bức ảnh của cả gia đình. Sau đó, chúng tôi thăm nhà thờ Saint Pierre vốn vẫn nghiêm cấm đối với dân chúng, do đặc ân của Đức Giáo hoàng. Chúng tôi được chiêm ngưỡng đài, tượng kỷ niệm vốn không bị dân chúng quấy rầy. Dành cho danh dự của riêng tôi, người ta đã cho mở chiếc cửa bằng đồng.

Khi trở về khách sạn, tôi thấy có nhiều đám đông dân chúng tụ họp, do cộng sản Ý tổ chức, để phản đối việc tôi đến Rome. Buổi chiều bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ý đến xin lỗi cho chính phủ của ông, về sự kiện này.

Chúng tôi trở về Pháp qua nhiều chặng nhỏ.

Về đến Cannes, tôi được biết tin đồn Đông Khê, sát biên giới Trung Hoa đã bị mất. Kể từ lúc đó, những tin xấu kế tiếp nhau kéo đến không ngớt. Việc rút ra khỏi Cao Bằng như trước đây, ông Pignon đã báo cho tôi biết, bắt đầu từ mùng 2 tháng 10, đã gặp nhiều tai họa. Những tin đầu tiên đưa đến Paris xác nhận là điều đáng sợ nhất, là quân đội Pháp đã lọt vào các ổ phục kích của Võ Nguyên Giáp trên đường thuộc địa số 4. Những sư đoàn Việt Minh được thành lập bởi Tầu cộng, đã có thật và đang chứng tỏ sự có mặt. Tất cả chiến lược của bộ Tư lệnh Pháp đều sai lầm hết.

Được khuyến cáo cách đây hơn một năm do Tướng Revers, sự triệt thoái dưới áp lực của đối phương, đã hoàn toàn thất bại và tất cả các đồn bốt dọc biên giới đều phải bỏ cả. Ngay tại thị xã Thái Nguyên từng được xem như kinh đô của Việt Minh, do Pháp chiếm lại tháng 9, cũng phải bỏ nốt, và cơn gió hoang mang bắt đầu thổi… giao động hoàn toàn.

Chính phủ Pháp liền cử Tướng Juin đến tận nơi công cán, đi cùng với Bộ trưởng Letourneau. Họ đi từ ngày 18 tháng 10. Trước đó tám hôm, tôi đã cử Trần Văn Hữu về gấp Sài Gòn. Thoạt mới về, ông ta đọc một bài diễn văn không ngớt đả kích hình thức mà nước Pháp cho áp dụng, hiệp ước mùng 8 tháng 3, đồng thời cũng đả kích luôn các viên chức Pháp vẫn còn bấu víu mãi vào các công thức thuộc địa cũ.

Tức giận tột độ bởi Tổng thống Vincent Auriol, e ngại rằng Hoa Kỳ có thể nhắc những lời tuyên bố này, để trách cứ nước Pháp đã không chịu thi hành các lời cam kết, ông chủ tịch hội nghị Paris, Sarraut ngày 14 tháng 10 liền đập các quốc gia liên kết, là nên bớt cãi vã lẫn nhau… Đại diện của chúng tôi Nguyễn Đắc Khê liền lên tiếng trả lời. Những hội nghị vẫn sa lầy, và dù sao nữa, trong thời kỳ khẩn trương, thủ tướng chính phủ phải có mặt ngay tại chỗ.

Tôi cũng vội vã dời Cannes ngày 20 tháng 10. Khi đến Sài Gòn, hai ông Letourneau và Tướng Juin đều nhận thấy tình hình càng sa sút hơn, như các ông tưởng. Dưới sự giao động tột độ, việc triệt thoái ở Lạng Sơn đã bắt đầu. Đó chính là một lầm lẫn lớn đã mở cửa Hà Nội, cho quân đội Việt Minh tràn về Lai Châu, thủ đô của ngưòi Thái mà tôi đã thăm thú mùa xuân vừa qua, cũng bị Pháp bỏ đi vào đầu tháng 11.

Ngày 5, nhân dịp Tướng Juin và ông Letourneau sang thăm Việt Nam, tôi cho khánh thành trường sĩ quan Đà Lạt. Giám đốc là một sĩ quan có tài, Thiếu tá Lefort, và lớp học đầu tiên thu nhận 210 khóa sinh. Trong buổi khai mạc này, đã có bàn đến các vấn đề quân sự. Trần Văn Hữu và Phan Văn Giáo, đều được tôi phong tướng, cũng tham dự. Có nhiều quyết định quan trọng được đề cập đến, như thành lập ra 4 sự đoàn hoàn toàn Việt Nam, và việc đào tạo cấp tốc các khóa quân sự tại chỗ các trường hạ sĩ quan và chuyên môn kể cả một trường quân y.

Ông Letourneau gửi thư cho tôi, từ Pháp báo cho biết sự thay thế Tướng Carpentier và xác nhận chỉ thị của Tướng Juin là cần phải bảo vệ Hà Nội và miền Bắc Việt Nam bằng mọi giá. Ông ta không giấu tôi sự lo ngại của ông, nhưng xác nhận ý chí của Tổng thống Vincent Auriol là muốn thấy hình thành đạo quân Việt Nam hầu có thể đối phó được với Việt Minh ngay trên phần đất của mình, đồng thời chúc cho việc thi hành các khoản của hiệp ước mùng 8 tháng 3, được hoàn thành mỹ mãn.

Do báo chí, tôi được biết sự can thiệp của quân đội Trụng Hoa đối với Triều Tiên.

Tôi đến Ban Mê Thuột ở mấy ngày, và có ý định lập ở đây một biệt điện thứ hai. Quả nhiên, tôi đã rất chú trọng đến vùng cao nguyên giữa dân tộc miền núi này. Tôi muốn chấm dứt tất cả các tiếng xì xào, nói về tôi trong những ngày gần đây. Hình như họ cho rằng, tôi ít chung đụng với quần chúng, tôi đã sống tách rời, trong khi binh sĩ Pháp chết ngoài mặt trận. Tất nhiên, kẻ tung tin này, đã không hiểu gì về vị trí của ngôi Vua theo quan điểm ở Việt Nam. Không phải rằng cứ đóng vai mị dân mà người ta có thể phục vụ được dân chúng của mình. Trò mị dân là trò xảo trá của bọn làm chính trị, không phải việc của tôi. Tôi theo đuổi sứ mạng, mà tôi được trao phó. Thật vậy, ở Ban Mê Thuột, gần ba biên giới, tôi có mặt cho toàn thể vùng Nam Đông Dương.

Chính tại Đà Lạt, tôi tiếp Bảy Viễn, chúa đảng Bình Xuyên. Đảng này tôi ít biết đến, không bằng giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo, mà đại diện đã đến Hong Kong để gặp tôi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp Bảy Viễn kể từ khi tôi tới Sài Gòn.

Đây là một nhân vật đặc biệt. Từng bị đi tù biệt xứ, anh ta vượt ngục Côn Đảo trở thành thủ lãnh đao búa, và anh ta tự tạo cho mình một địa hạt ở xung quanh Sài Gòn và vùng Đồng Tháp Mười. Xuất thân từ giới bụi đời, một loại thú hoang, đầy tinh thần chiến đấu, trong ba năm liền, anh ta đã đánh nhau với Pháp vô cùng quyết liệt. Nhưng từ tháng 6 năm 1948, vì mâu thuẫn nẩy lửa với Tướng cộng sản Nguyễn Bình, anh ta bỏ về thành. Chính phủ Xuân bổ anh ta làm Đại tá, từ đó với 900 tay súng võ trang cùng mình, anh đặt bản doanh ở ven sông, nơi cầu Chữ Y, ngay sát Sài Gòn. Chỉ trong sáu tháng, anh đã có thể bỏ túi tất cả các hàng bang Trung Hoa ở Chợ Lớn, và đem lại trật tự và an ninh cho vùng ấy. Vậy thì sao không trao cho anh ta một nhiệm vụ lớn lao hơn? Nhân vật vừa giống Mandrin (tướng cướp Pháp) (14), lại vừa giống Vidocq (15) Việt Nam này quả là tay sáng giá, anh hào.

- Tôi rất lấy làm sĩ diện được tiếp một nhân vật ái quốc như ông, tôi bảo anh ta thế.

Bảy Viễn lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm sĩ diện được tôi khen ngợi. Để cho anh ta có vẻ thoải mái, tôi đưa anh ta đi xem biệt thự, và các cộng sự viên của tôi. Rồi tôi lại cho xem các võ khí đi săn của tôi. Anh ta lấy làm thích thú khi thấy khẩu súng săn của Tướng Franco gửi cho tôi, để chứng tỏ tình đồng minh chống Cộng sản. Tất nhiên, nước Tây Ban Nha chưa thể công nhận Việt Nam trong hiện tại, nhưng Thống chế Franco muốn tỏ thiện cảm đối với tôi, bằng cử chỉ này.

Sự gặp gỡ đầu tiên với Bảy Viễn, mới đi tới chỗ ấy, và tôi mời anh ta đi săn, vài ngày hôm sau.

Trong suốt một ngày, chúng tôi đi chung với nhau. Tối đến, chúng tôi đến một ngôi làng mọi. Quanh đống lửa, chúng tôi trò chuyện. Rất nhanh chóng, câu chuyện trở nên thân mật. Bảy Viễn xưa nay vốn ít nói, liền kể cho tôi về đời anh ta, thuở hàn vi cũng như lúc bị án đầu tiên, vào năm 1936 bị kết 12 năm về tội “gian nhân hiệp đảng và tàng trữ võ khí bất hợp pháp”. Bị đưa ra Côn Đảo, anh ta gặp những tay cộng sản đã từng được huấn luyện ở Nga: Bùi Công Trừng, Hạ Bá Cang, Tôn Đức Thắng, một kẻ gây loạn ở Hắc Hải, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng, vốn dậy các lớp về chủ nghĩa Mác ở ngay trong tù, và nhiều người khác nữa… Năm 1940, anh ta vượt ngục và thành công, lập ra ở Chợ Lớn nhóm anh chị thuộc giới xích lô, và trở thành một “Kẻ tháp tùng” đoàn đua xe đạp vòng Đông Dương, tôi cùng Hoàng hậu Nam Phương đã đến để chứng kiến cuộc về đích thứ nhất trong cuộc đua. Chìm giữa đám đông, Bảy Viễn nhận ra tôi, vận chiếc áo vàng ở giữa các quan phẩm phục xanh đỏ, thêu chỉ vàng chỉ bạc. Bây giờ, anh ta hơi ngạc nhiên được đứng cạnh bên Quốc trưởng…

Anh ta kể cho tôi nghe tất cả cuộc đời phiêu lưu của mình. Sau khi từ chối sự che chở của quân đội Nhật, anh ta lại bị cảnh sát Pháp bắt, tán tỉnh với bọn Trotskistes (đệ tứ Cộng sản), nên họ thả ra vào tháng 7 năm 1945, thế rồi với đám đàn em tập hợp lại được, anh ta lăn mình vào công cuộc phục quốc, không cần biết đến ý niệm, chính trị hay tôn giáo nào hết. Anh tự phong cho mình là Tổng Tư Lệnh quân đội Sài Gòn - Chợ Lớn, và lấy tên cũ là Lê Văn Viễn. Bị bắt buộc phải rút vào vùng sình lầy Rừng Sát, chẳng mấy lúc anh ta đã chống lại Nguyễn Bình, mà anh ta từng biết ở Côn Đảo, mà Ủy ban Cách mạng miền Bắc đã cử vào Nam để cầm quyền tư lệnh ở Nam bộ. Anh ta liền tham gia vào sự thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất vừa để chống lại người Pháp, vừa để chống lại Cộng sản. Sau khi Cao Đài và Hòa Hảo bỏ về theo người Pháp, riêng còn anh ta chiến đấu đơn độc một mình. Nhưng mỗi ngày một bị Cộng sản đe dọa, anh đành phải chấp thuận quay về, khi biết tin nước Pháp đã trả lại độc lập cho Việt Nam… Dưới danh nghĩa Bình Xuyên, anh công nhận chính phủ Xuân ngày 17 tháng 6 năm 1948, và khi tôi trở về nước, anh ta liền ra tự đặt dưới quyền điều động của tôi.

- Miền Nam rất quí báu cho Việt Minh - tôi bảo anh ta như vậy - Đó là vựa lúa của nước Việt Nam, và cả cho Đông Nam Á nữa. Ai nắm được lúa gạo là nắm được toàn thể Việt Nam. Đối với Việt Minh, cái lợi lại gấp ba. Thoạt tiên, họ gặt lúa gạo, rồi họ lợi về chuyên chở, và cuối cùng là mãi dịch. Hẳn ông hiểu vì sao, Việt Minh tìm mọi giá để củng cố quyền hành đối với miền Nam. Không phải đây là một yếu tố suông về chính trị, mà chính là điều sinh tử đối với họ.

Bảy Viễn nghe tôi nói với tất cả sự chú ý, sau ngắt lời:

- Vựa lúa, đối với tiểu dân, thật quá rộng lớn. Nhưng các cửa hàng, thưa Hoàng thượng tiểu dân có thể đảm trách được. Mà cửa hàng, thì người Tàu nắm hết, tất cả lúa gạo đều qua tay người Tàu. Mà người Tàu, tức Chợ Lớn rồi, đó chính là địa hạt của tiểu dân vậy. Tuy nhiên, cần một điều kiện: tiểu dân cần có Đại thế giới, bởi vì Đại thế giới vẫn là một nguồn lợi cho Việt Minh vậy.

Bảy Viễn không nói rõ cho tôi gì cả. Tôi hiểu, tôi đang dính vào một chuyện gì. Bởi Đại thế giới là sòng bạc lớn của Á châu, và có thể là cả thế giới nữa. Chúng tôi có thể không cần biết đến sự nổi tiếng này. Được mở ra năm 1946, mặc dù có sự nghiêm cấm của chính phủ Nguyễn Văn Thinh, vốn không ưng để người Việt sát phạt nhau, nhưng người Việt Nam lại rất đam mê, nên chính phủ Thinh phải cho đấu thầu, cứ hai năm một lần cho ai bỏ giá cao. Từ năm 1948, việc giao nhượng được chuyển cho một nhóm người Tàu từ Macao sang. Đến giờ phút này, người Tàu sẵn lòng trả 400.000 đồng một ngày cho chính phủ Việt Nam. Nhưng để được yên trí làm ăn, họ phải nộp cho Việt Minh 500.000 đồng nữa. Không kể các thù lao cho quan thuế, cho cảnh sát và các nơi khác…

Ở Đại thế giới người ta chơi đủ mọi lối, nhưng có hai thứ chính, là đánh ba quan và tài xỉu. Ngoài ra mỗi chiều, còn mở số đề 36 con vật, một thứ như xổ số. Đó là một sự tai hại cho dân chúng vùng Sài Gòn, đã nướng vào đấy hết sạch cả đồng lương nhỏ bé của mình. Để tránh những tai họa, tôi ra lệnh nghiêm cấm các công chức và binh sĩ Việt Nam không được lui tới Đại thế giới.

- Đến kỳ đấu thầu vào tháng chạp tới, ông có thể nộp đơn đấu thầu, tôi bảo Bảy Viễn như vậy.

- Thưa Hoàng thượng, xin tuân lệnh. Tôi sẽ xin nộp mỗi ngày một triệu đồng cho chính phủ Việt Nam, nhưng Việt Minh thì đừng hòng một xu nhỏ. Đồng thời, tôi có thể trả lương và trang bị cho người của tôi khá hơn trước nhiều. Như vậy, liệu hồn cho Nguyễn Bình.

Đến tháng chạp, Bảy Viễn thực hiện được mộng này. Chỉ cần rỉ tai bọn Tàu Macao, có sự hỗ trợ của phe Tàu Chợ Lớn cùng với bọn Corses ở Sài Gòn, sự tin tưởng của chính phủ tước bỏ nguồn lợi vĩnh viễn này của Việt Minh, và trò chơi đã đạt. Bọn Bình Xuyên trở thành Mafia giữ an ninh cho vùng Sài Gòn-Chợ Lớn và Bảy Viễn là Tổng tư lệnh quân đội.

Chú thích:

(14) Tướng cướp Pháp

(15) Cựu tù nhân sau làm Chánh sở An ninh Pháp. Cả hai đều là những tay chọc trời khuấy nước, non sông một chèo.