Trống rỗng hoàn toàn
Như tôi đã từng e ngại từ cuối tháng giêng, quân đội Liên hiệp Pháp bắt đầu rút khỏi Hòa Bình. Tất nhiên, phải rút để né tránh cái có thể tồi tệ hơn, nhưng còn dân tộc Mường khốn khổ kia sẽ ra sao, khi họ đã đặt hết hy vọng vào quân đội của chúng tôi? Tôi bỗng nhớ lại câu hỏi của viên Tổng ủy khi tôi đến đây lần trước, và nỗi lo âu của ông ta qua câu hỏi ấy. Chắc chắn bọn Việt Minh sẽ thu lợi đối với sự bỏ ngỏ này. Theo tôi nghĩ, không nên tái chiếm Hòa Bình, và cũng không nên tới đây, để rồi hai tháng sau rút lui. Tôi đã nói thế trước đây, nhưng chẳng được ai nghe.
Trong những biến cố đó, lại có khủng hoảng mới của chính phủ Pháp. Nội các Pleven đổ ngày 7 tháng 1 năm 1952, và thay bằng nội các của ông Edgar Fauré, ngày 23 cùng tháng. Ông Letourneau vẫn giữ bộ Quốc gia Liên kết, rồi sau đó, kiêm nhiệm luôn chức Cao ủy Pháp ở Đông Dương, trong khi Tướng Salan trước quyền Tư lệnh tạm thay Tướng De Lattre, nay trở thành Tổng tư lệnh quân đội. Như vậy, chúng tôi lại trở về thế cũ: quyền lực chia hai giữa văn và võ.
Trong dịp Tết, ngày 27 tháng giêng, tôi gởi một thông điệp hàng năm cho dân chúng Việt Nam. Ngay phần mở đầu, tôi nhấn mạnh đến nguồn hy vọng về những đức tính cao quí lẫn sự anh dũng của quân đội trẻ của nước tôi, và tôi tỏ lòng ngưỡng mộ cá nhân của Đại tướng De Lattre:
“Chúng ta không thể nói đến quân đội Việt Nam mà không nhắc đến khuôn mặt cao thượng, đầy vinh quang của Đại tướng De Lattre De Tassigny, mà tư tưởng lẫn hành động đã đề lại cho chúng ta một giá trị vĩnh cửu và tuyệt vời. Vào giờ phút mà nền độc lập mới phối thai của chúng ta đang bị thử thách bởi tập đoàn Cộng sản, người hiệp sĩ Pháp này đã đem đến đất nước ta, sự tôn thờ của tự do, bản tính chiến đấu, lòng can đảm vô biên và tài dụng binh rực rỡ của người. Trước hương hồn ông cũng như đối với các anh hùng tử sĩ khác, từng da ngựa bọc thây trên đất nước tôi, tôi xin tỏ tri ân của toàn thể đất nước Việt Nam. Nguyện cầu cho tất cả những anh linh tử sĩ được vĩnh cửu tôn thờ trên đài chiến sĩ trận vong, và trên hương án các gia đình, nhờ gương anh dũng của họ, mà ra thoát được cảnh đọa đày nô lệ, gương sáng ấy còn làm rạng rỡ đến con cháu chúng ta, làm cho tất cả đàn con dân Việt Nam siết chặt hàng ngũ với nhau, đoàn kết chặt chẽ cho nên phục hưng mà đất nước đòi hỏi”.
Tôi lại giải thích đến nhiệm vụ của Quốc trưởng, phải là một nhân vật biết suy tư và đầy kinh luân thao lược, phải xa các nhiệm vụ hàng ngày của quyền bính, đã trao cho chính phủ, vì Quốc trưởng chỉ còn có nhiệm vụ quốc kế dân sinh, dựa vào thực tế hiện tại, để vạch ra được kế hoạch đáp ứng cho tương lai. Vị đó phải tìm đường hướng thuận lợi ở trong cũng như ngoài nước, và phải biết lý thuyết vĩnh cửu nào sẽ đưa đến sự vinh quang và bền vững cho tổ quốc.
Sau khi nhắc nhở các viên chức ngành cai trị, xã hội, kinh tế, về những mục đích mà tôi đã đọc trong bản thông điệp năm ngoái, tôi nhấn mạnh đến sự cần thiết của đoàn kết, biết tương thân tương ái. Chúng ta phải ý thức lấy trách nhiệm quốc gia để có chính nghĩa bảo vệ xứ sở:
“Có cái gì khác biệt giữa nước Việt Nam với các nước khác? Chúng ta có những điểm gì đặc biệt?
“Ai cũng biết rằng vào giữa lúc trên đất của chúng ta, Đông và Tây đang va chạm vào nhau, xã hội chúng ta đã được xây dựng trên căn bản của đạo Khổng, lấy gia đình làm nền tảng, mà giai tầng xã hội đã được cấu tạo vững chắc tự ngàn đời lấy hiếu trung làm gốc.
“Khi con người lấy ngũ luân làm phương châm xử thế, người ấy đã già dặn biết bảo tồn xã hội, dựa vào tam cương mà thực hiện: Quân thần, Phụ tử, Phu phụ.
“Tất nhiên là chúng ta không thiên hết về đạo Khổng, bởi vì chúng ta còn biết tham bán vào đạo Phật; nhưng các nguyên tắc Khổng Mạnh vẫn là những bí quyết tạo nên sức mạnh, của chúng ta. Dù sao thì nước Tân Việt Nam ngày nay củng chẳng phải là ngoan cố phong kiến, lạc hậu gì. Cách đây một thế kỷ, Tây phương, do các bạn Pháp của chúng ta đã đặc biệt đem đến đây một nền văn hóa mới. Tây phương đã đem lại phương pháp trật tự, bí quyết của tình thần sáng tạo, tình thần tổ chức, tình thằn dân chủ và bình đẳng, bí quyết của sự chinh phục nhân tâm.
“Đó là đặc điểm nhiệm màu, phong phú của dân tộc Việt Nam chúng ta.
“Ngày nay, nếu tất cả thực tế của thời đại làm cho Việt Nam khó có thề đứng riêng rẽ một mình, và tất cả mọi nền chính trị ngoại lai không thể tự nó một mình thực hiện được, thì ngược lại, chúng ta tự thâm tâm, chúng ta đủ lực tự cường, do tinh thần tập thể đưa lại.
“Thế mà, chủ nghĩa Cộng sản định đem đến chúng ta cái gì? Ly dị hẳn những mối liên hệ tương quan với Tây phương, đã lầm chúng ta giàu thịnh về tinh thần, lại canh tân nước ta thành một nước tiền tiến. Sức ép ghê gớm của Tàu, trong hơn 20 thế kỷ đã truyền bá nghệ thuật, văn chương, triết lý, muốn tranh hơn thua với chúng ta sự hấp thụ ấy, đã biến tất cả liên văn minh của Trung Hoa ra thành của ta, bởi vì những tinh hoa ấy, đã nâng cao phẩm giá con người và giá trị của quốc gia.
“Thay vì đem cái tình thần trật tự, chủ thuyết Cộng sản đem đến cho chúng ta một tư tưởng bí hiểm, Mác-xít; thay vì cái tinh thần của tổ chức, họ định đem đến cái hệ thống của Mốt-cu (Moscou); thay vì một liên dân chủ, họ lại đưa đến sự phục tòng mù quáng bọn cán bộ đảng viên… Đó là một phong trào thoái hóa, mà chúng ta ngày nay, chúng ta phải cầm súng chiến đấu. Đó là ý nghĩa của trận chiến này.
“Đó là cuộc thánh chiến quốc gia, để hoàn tất nên cách mạng trong nền độc lập của từng khối óc, và tình cảm của mọi trái tim, mà tôi muốn nói với các anh.
“Sự gặp gỡ giữa Tây phương và Đông phương, như Tagore đã nói, rất cần thiết cho nhân loại, phải mang theo tình, cảm tế nhị, tương thân tương ái, và đấy tinh thần sáng tạo…
“Huynh đệ quốc gia, đó là bí quyết của nước Tân Việt Nam và của xã hội mới Việt Nam.
“Như vậy, thời đại quan liêu, dân chi phụ mẫu, nay đã cáo chung rồi, chỉ còn riêng một uy quyền của vị quân vương đồng loạt cho khắp nhân dân. Ngày nay, người công chức là kẻ dẫn đường thân ái của đồng bào, thực sự dân chủ, tức là trong guồng máy cai trị, đã có những uỷ ban chặt chẽ, sự kiểm soát các quyền hành và nhân sự, quốc gia Việt Nam trở thành một quốc gia rất xã hội, và vì dân mà phục vụ, theo đúng khẩu hiệu: Dân vi quí.
“Như vậy, tất cả con dân nước Việt Nam sẽ cảm thấy một sự ấm lòng của huynh đệ chi tình, và niềm vui phục vụ vô cầu lợi, cảm thấy bình đẳng, và biết thông cảm lẫn nhau hơn. Chúng ta đều là con một gia đình, cùng chung một tổ. Về điểm này, tôi cần phải nói riêng với bên nữ giới. Tình yêu tổ quốc rất mạnh trong đầu óc họ, tinh thần đoàn kết rất bén nhạy trong trái tim họ. Đã có nhiều chị em tỏ sự hăng say khi vào đoàn thể “Hội chữ Thập đỏ Việt Nam”. Đây là ở người đàn bà Việt Nam đã đem đến nguồn sinh lực vào khắp mọi nơi trong xã hội chúng ta, trong tình huynh đệ quốc gia. Và kể từ hôm nay, tôi sẽ đặt một ngày làm quốc lễ cho phụ nữ Việt Nam là ngày kỷ niệm, hàng năm để ghi ơn Hai Bà Trưng.
“Vậy thì trong tình huynh đệ quốc gia, phải hoàn tất nền cải cách xã hội của chúng ta. Không còn nghi ngờ gì nữa, tình huynh đệ đó được hữu hiệu, bởi đã được nghiên cứu khôn ngoan và kỹ lưỡng. Nhưng giờ mà người lại bóc lột người ở nước ta đã cáo chung rồi…”
Tôi nêu lên vài đặc điểm, sau khi cải cách điền địa đã được thực hiện, và tôi kết luận bằng lời kêu gọi như sau:
“Mỗi một người trong chúng ta đều có trách nhiệm đối với quốc gia.
“Hỏi để làm gì, khi mà khai thác đất đai, mở mang trồng trọt, và xây cất những nhà máy, nếu người dân không được lãnh phần chính đáng về công quả của mình đã bỏ ra. Bởi xã hội như thể là xã hội chưa săn sóc đến mối lo âu của dân chúng. Sự lo âu của xã hội, còn thúc đẩy người chủ, phải săn sóc đến thợ nhiều hơn là chỉ biết thu hoạch nhờ kết quả lao động của mọi người.
“Năm ngoái, tôi đã đảm bảo với các xí nghiệp Pháp và ngoại quốc rằng sẽ miễn cho họ nhiều thể lệ, trực tiếp hoặc gián tiếp. Tôi xác nhận lại ngày hôm nay, sự bảo đảm ấy. Khi đến đều tư tại Việt Nam, trong tinh thần tôn trọng luật pháp và sự công bình xã hội, vì lý do sáng tạo sinh lời, các xí nghiệp ấy đã mang công ăn việc làm cho dân chúng, trong một quốc gia còn thiếu nhiều phương tiện hoạt động thì đó là một sự hữu ích đáng quí. Họ đã năng cao mức sống của thợ thuyền và sự tín nhiệm của họ vào người thợ chắc chắn sẽ không bị phản bội.
“Nước Việt Nam, được tự do liên kết với nước Pháp trong Liên hiệp Pháp, được các nước bạn hỗ trợ; mỗi ngày một củng cố vị tri của mình trước quốc tế. Dinh liền vào cơ thể khổng lồ của Á châu ở khúc giữa quan trọng nhất, và ở ngã ba quyết định của toàn thể Đông Nam Á, nó ý thức được vị trí và nhiệm vụ của mình. Nó đã chọn sự đứng vững và không cho tự mình lui bước, mặc dù bị thách thức trước một cuộc cách mạng đang diễn ra trước mắt. Đây cũng là một cuộc cách mạng, mà nó quyết theo đuổi, chứ không phải sự suy thoái, như Cộng sản đã rêu rao.
“Chính trong sự canh tân của đầu óc, và sự thanh lọc trái tim, mà tổ quốc thân yêu của chúng ta sẽ tìm thấy một ngày gần đây, tôi chắc vậy, nên hòa bình trong tự do và trong lẽ công bình”.
Sau khi đã giải thích rõ ràng tư tưởng của tôi trong bản thông điệp ấy, đã được phổ biến rộng rãi ngày 27 tháng giêng năm 1952, tôi hy vọng rằng dân chúng cũng như các quốc gia bạn đã được nghe biết, và viện trợ của họ sẽ đem đến để giúp đỡ cho sự cố gắng này. Sau đó ít ngày, quả nhiên tôi được tiếp ông Etienne Denis của công ty Denis Frères. Tôi bảo ông ta:
- Chính phủ Pháp sợ cho các ông. Họ rất lo ngại về công việc của các ông. Vậy các ông muốn tôi bảo đảm gì cho các ông?
- Thưa Hoàng thượng, chúng tôi chỉ mong người Việt Nam mua 50% cổ phần là đủ. Còn chúng tôi, chúng tôi không lo ngại gì hết, chúng tôi chỉ mong làm việc với họ…
Như vậy, tôi chỉ còn có vơ lại nền độc lập, từng mảnh một, và sự đó không phải là dễ.
Về viện trợ ngoại quốc, ông Letourneau đã cho tôi biết điều mà Tướng Juin đi Washington dự hội nghị với các Tham mưu trưởng, là Tướng Bradley của Hoa Ky, và Thống chế Shim của Anh quốc. Họ đã nghiên cứu về sự phát triển Á châu, đã dự trù trong cuộc hội nghị ở Singapour, về tháng 5 vừa qua. Tướng Juin trở về, khá thất vọng về thái độ của Hoa Kỳ. Người Anh thì xin dành Hải quân của họ để di tản người Pháp nếu có gì thất bại. Vị Tham mưu trưởng Pháp có cảm tưởng là tất cả như thất vọng, và muốn rút chân ra khỏi ổ kiến càng này, tức sẽ mất cả Đông Nam Á và Viễn Đông, Người Mỹ thì tìm cách điều đình về vấn đề Triều Tiên. Còn người Anh, dụng ý chỉ nhằm vào Singapour, nếu có sự tràn lan của quân Tàu. Tướng Juin kết luận trong bản tường trình là cần nhất quân đội Việt Nam đủ mạnh, để Pháp có thể “trao lại” trọng trách, càng nhanh càng tốt. Đó là điều rất hợp với tôi.
Tại chỗ, các quân dụng đã đến. Về cuối tháng giêng, chiếc tàu thứ 100 chở đồ viện trợ cho chúng tôi, đến cảng Sài Gòn. Để xúc tiến mọi việc được nhanh nhẹn, ngày 3 tháng 3, tôi bổ nhiệm Nguyễn Văn Hinh làm Thiếu tướng, Tham mưu trưởng quân đội Việt Nam. Cũng trong thời gian ấy, tôi đặt ra bốn quân khu. Về sư đoàn thứ tư quân thổ, phụ trách giữ an ninh cho vùng cao nguyên, đã được thành lập xong, và đặt bản doanh ở Ban Mê Thuột. Điều đó làm giảm bớt gánh nặng cho quân đội Pháp về phần đất này. Sư đoàn đó được đặt dưới sự chỉ huy của Thiếu tá Lecoq, mà phó là Lê Văn Kim, tiểu đoàn trưởng, vừa tốt nghiệp xong ở trường tham mưu. Các sĩ quan người Thượng đều được huấn luyện ở Ban Mê Thuột, ở trường quân sự Bợ Hồ.
Trong dịp này, tôi tiếp Tướng Salan ở Ban Mê Thuột. Ông ta nhấn mạnh là xin tăng cường nhiều tân binh, nhân dịp có viện trợ Mỹ này, và tôi đồng ý. Mặt khác, Tướng Salan cũng rất hài lòng về công việc của Tướng Hinh. Vị này đã tỏ ra rất đắc lực với nhiệm vụ Tham mưu trưởng của mình, và sự liên lạc của ông ta với nhà binh Pháp rất được khen ngợi.
Tại Paris, Thủ tướng Antoine Pinay đã thay thế Thủ tướng Fauré chỉ đứng có hai tháng. Sự thay đổi chính phủ luôn luôn ở Pháp, làm tê liệt nền chính trị dài hạn cho nước Pháp. May mắn, ông Letourneau vẫn giữ bộ Quốc gia Liên kết.
Ngày 4 tháng 4 năm 1952, tôi đặt ra qui chế cho các sắc dân thiểu số miền núi ở miền Bắc, và do một đạo dụ khác ngày 24 tháng 4, tôi đặt các đất đai của người Thượng miền Bắc và miền Nam vào đất của Hoàng triều cương thổ (Xin xem các phụ đính VI và VII). Tôi cử viên Chánh văn phòng của tôi là Nguyễn Đệ đảm trách chức vụ đó.
Trong tháng 5, miền Nam gặp khá nhiều khó khăn. Tất nhiên, sau cái chết của Nguyễn Bình, tình hình đã yên tĩnh hơn. Nhờ vậy, một phần lớn trách nhiệm, trước kia trao cho quân đội Pháp, thì nay trả lại cho chúng tôi. Đây chính là chỗ mà chúng tôi gặp khó khăn. Nguyên do, có nhiều khu vực được trao cho các quân đội Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên, không kể khu vực do Đại tá Jean Leroy, là một người lai ở Bến Tre, đã bình định do lực lượng của ông ta, là lực lượng UMDC (Unites mobiles de défense des chrétientés) tức lực lượng lưu động phòng vệ các giáo khu Thiên Chúa. Nay là lúc phải đặt tất cả mọi người vào hàng ngũ của quân đội quốc gia. Trần Văn Hữu thiếu tế nhị ngoại giao đã đụng độ nẩy lửa với Leroy, và xin đổi Leroy đi ngay nơi khác. Không đổi nổi, vì viên đại tá 31 tuổi này, là con của một người làm ruộng Pháp với một cô gái Nam kỳ đã thắng. Trước đây, năm ngoái đã có một sự kiện đặc biệt xảy ra. Nguyên do Leroy đã đứng đầu để tổ chức một cuộc bầu cử. Ông ta muốn tổ chức nông dân thành một nhóm dân chủ nông dân… Đối với Leroy, Hinh có một giải pháp. Lực lượng UMDC vốn đặt dưới quyền lãnh đạo của nhà binh Pháp, nhưng trong các cuộc lễ chính thức, Leroy thường vận binh phục quân đội Việt Nam, để chứng tỏ trước mắt nhân dân là tỉnh này hoàn toàn đặt dưới quyền lãnh đạo quốc gia. Đối với các phe Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên, họ sẵn sàng chấp nhận đặt dưới quyền tôi, với điều kiện là tôi ký với họ những thỏa thuận như trước kia bộ Tư lệnh Pháp đã ký với họ. Tôí từ chối dứt khoát, vì họ là nhân dân của quốc gia.
Chuyện đặt họ vào hàng ngũ quân đội quốc gia này, là vấn đề mà tôi thảo luận với Tướng Salan ngày 10 tháng 5 trên du thuyền của tôi ở Nha Trang. Thoạt đầu đã có điềm không may. Vì một sự vụng về, tướng Tư lệnh rơi xuống biển cùng với tùy viên quân sự của tôi là Đại tá Nguyễn Tuyên. Tôi cho đưa quần áo của tôi để ông thay.
Thật sự, Tướng Salan đang bận nghĩ về vấn đề sát nhập các lực lượng tự trị này vào quân đội quốc gia Việt Nam. Paris muốn giảm quân số và đang là lúc cần đến các chuyên viên đã cho quân đội Việt Nam mượn. Ông ta yêu cầu tôi trưng dụng các thợ chuyên môn, các kỹ thuật gia về cầu cống, về viễn thông và tài xế lái ô tô nữa. Ông khẩn khoản thêm là tôi lại gọi đến sinh viên. Tôi không phải là muốn chống lại sự tham gia của khắp cả các tầng lớp nhân dân Việt Nam vào nỗ lực chiến tranh, nhưng những thỉnh nguyện của ông Tổng tư lệnh có thể làm tê liệt ngành kinh tế mới phôi thai, nên tôi trả lời ông là cần phải hết sức khôn ngoan để khỏi gây xáo trộn đến nếp sống ổn định một cách mong manh ở đất nước.
Đầu tháng 6, tôi để Hoàng thái tử Bảo Long lúc ấy đã 16 tuổi, sang Anh thay tôi, dự lễ đăng quang của Nữ hoàng Elisabeth II. Hoàng thái tử đi cùng với Bửu Lộc, với tính cách là Hoàng thân.
Để chứng tỏ ý chí về sự tăng cường động viên trên toàn quốc, ngày 3 tháng 6, tôi chấm dứt nhiệm kỳ của Trần Văn Hữu, và bổ nhiệm vào chỗ ông, vị Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Văn Tâm. Ông này rất cương quyết, đã tỏ ra thành công trong mọi lãnh vực được trao phó, dù là bộ trưởng An ninh, hay bộ trưởng Nội vụ, hay cuối cùng như Thủ hiến Bắc Việt. Tại đây, ông đã làm tan biến thành kiến đánh vào ông, vì ông gốc ở Nam kỳ. Thay vào chỗ của ông, tôi bổ Phạm Văn Bính làm Thủ hiến Bắc Việt.
Nguyễn Văn Tâm liền đặt một chính phủ quốc gia đoàn kết (17) gồm những nhân vật từng tỏ ra tha thiết với nền độc lập quốc gia. Nội các ấy được thành lập ngày 25 tháng 6 năm 1952, chứng tỏ trong mọi lãnh vực, sự tăng cường nỗ lực chiến tranh trên toàn quốc. Lần đầu tiên, người ta thấy xuất hiện một bộ trưởng coi về cựu chiến binh, để chứng tỏ rằng quốc gia rất chú trọng đến những con dân chiến đấu cho nền độc lập và bị hy sinh vì nước.
Trong tháng 7, Lãnh sự quán của Hoa Kỳ ở Sài Gòn, được đổi thành Tòa Đại sứ. Đối với tân chính phủ, đó là một triệu chứng tốt đẹp. Phần khác, tình hình chiến sự dịu dần trên khắp lãnh thổ, nhờ vậy Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm có thể lợi dụng thời gian này để đặt nền móng cho một chính phủ mạnh, hầu động viên toàn lực quốc gia. Đối với ông ta, đó là sự thi hành các quyết định đã từng thảo luận vào tháng 4 ở Đà Lạt, với ông Letourneau và Tướng Salan. Hậu quả đầu tiên về cuộc họp này là sự xúc tiến việc đào tạo các sĩ quan, nhất là do trường sĩ quan Đà Lạt. Mỗi khi có cuộc lễ ra trường, tôi đều đến dự để nghe lời tuyên thệ, và không quên nhắn nhủ họ, phải tuân theo kỷ luật trung thành và chặt chẽ.
Ngày 7 tháng 8 tôi đi Pháp chữa bệnh ở Evian.
Sau khi chữa xong, ngày 4 tháng 9, tôi đến Muret do lời mời của Tổng thống Vincent Auriol. Ông tiếp tôi tại nhà riêng:
- Thưa Hoàng thượng, không phải chỉ cần một giải pháp quân sự, mà tất cả các người Việt Nam phải thu hồi lấy đất nước. Và Ngài phải hoạt động về mặt trận quân sự. Song phương với vấn đề về quân sự, lại phải có những cải cách chính trị, để đạt tới tự do, dân chủ xã hội. Có như vậy, Ngài mới có thể bình trị được.
- Thưa Tổng thống, chúng tôi vừa đặt nền móng cho một đạo quân quốc gia xong. Với vị Tổng tư lệnh, quả không có vấn đề. Về cấp thấp hơn, thì chưa hẳn tốt đẹp như vậy. Nhưng với các cơ quan dân sự, thì lại khác. Chính phủ Pháp vẫn còn đó, không có gì thay đổi, và hầu ở khắp mọi nơi. Và sự bàn giao thường thường được coi như trò hề. Người ta không để tôi hoàn tất nhiệm vụ, mà trong khi ấy, báo chí Pháp lại không ngớt đả kích tôi, cho là bất động và bôi đen giải pháp.
- Thưa Hoàng thượng, tôi sẵn sàng sang thăm Việt Nam để kêu gọi chính phủ Pháp phải tôn trọng điều hứa hẹn và thi hành một cách nghiêm chỉnh.
- Thưa Tổng thống, chúng tôi xin đợi Tổng thống.
- Xin Hoàng thượng hiểu cho tôi, tôi sẽ sang thăm Việt Nam với tư cách là thượng khách do Quốc trưởng mời, chứ không phải là với địa vị Chủ tịch Liên hiệp Pháp, do Cao ủy tổ chức. Trong khi chờ đợi, xin Hoàng thượng tin rằng, tôi sẽ truyền đạt cho chính phủ Pháp tất cả nhận định của Ngài. Tôi chỉ làm được có thế, tiếc thay, Quốc hội Pháp không cho phép hơn nữa…
Sau vụ này, tôi quyết định đổi chức Cao ủy ở Pháp của Hoàng thân Bửu Lộc ra là Tòa Đại sứ Việt Nam tại Pháp. Để đánh dấu sự liên lạc giữa hai nước, ông Lejean cũng được cử làm Đại sứ Pháp ở Việt Nam.
Mặc dù có quyết định tương đồng giữa hai nước độc lập như nhau Đại Hội đồng Liên hiệp Quốc vẫn từ chối đơn xin gia nhập của Việt Nam, kể cả Lào và Cam Bốt.
Tôi trở về Đà Lạt vào cuối tháng 9, và về đến nơi tôi được biết mùa khô đã tới để Việt Minh mở cuộc tấn công lên đất Thái. Vậy thì đất Hoàng triều cương thổ bị đe dọa trực tiếp. Việt Minh khi đánh sang mặt Lào, muốn tỏ ra rằng muốn rải chiến tranh đến khắp mọi nơi trên cái gọi là Liên bang Đông Dương, đồng thời muốn chứng tỏ trước dư luận dân chúng Việt Nam, nhất là trước các sắc dân thiểu số, chúng tôi không đủ khả năng bảo vệ họ. Việc bắt đầu tỏ ra bất lợi cho chúng tôi. Kể từ tháng 10, chúng tôi đành phải bỏ vị trí quan trọng là Nghĩa Lộ.
Tướng Salan liền có ý kiến là nên lập ở Nà Sản một căn cứ không quân nhằm hai mục đích: nhử cho quân đội Việt Minh đến thử sức, để chống cự lại, đồng thời dùng làm bàn đạp tiến công, chứng tỏ chúng tôi có mặt tại vùng này. Địa thế đã được lựa chọn, ở giữa lòng xứ Thái, trên con đường sang Lào bắt buộc, không có lối khác, vừa phải, không gần Hà Nội, mà cũng không xa lắm. Địa thế đủ để máy bay đáp xuống, và được bao quanh bằng một dẫy đồi, giúp cho sự phòng thủ dễ dàng. Tôi đồng ý và chấp thuận điểm chọn.
Để chứng tỏ sự xác nhận chúng tôi sẽ đóng ở Nà Sản, ngày 28 tháng 11, tôi cùng với viên Tổng Tư lệnh đến địa điểm đang được xây cất rất nhanh chóng. Tôi có một cảm tưởng nhẹ nhõm. Buổi chiều, Tướng Salan mời tôi dự cơm chiều ở Hà Nội. Tôi có ngỏ cho ông biết những khó khăn trên bình diện chính trị, và tôi lấy làm tiếc về sự chậm trễ của nước Pháp trong việc tổ chức quân đội Việt Nam, điều làm cho Việt Minh lợi thế trong sự củng cố quân đội của họ, nhất là điểm tâm lý có lợi cho họ trước mắt dân chúng.
Như vậy, thật là mệt để bắt lại thời gian mất đi này và do thế tôi thấy tương lai quả là bi thảm.
Tuy vậy, tôi bảo ông ta, là tôi rất phấn khởi được trông thấy tại Nà Sản, sự kiến tạo này, và quân đội của tướng Giáp sẽ cắn phải miếng mồi quá hóc, nếu y định đánh vào căn cứ này. Tháng chạp qua đi, trong khi chờ cho cá đớp mồi.
Tướng Salan đồng ý với tôi, và chúng tôi được rảnh tay ở miền Nam. Tôi lên cho chỉ thị Tướng Hinh.
Cuối năm, chỉ có một sự việc đáng kể xảy ra, đó là ông Antoine Pinay từ chức ngày 23 tháng chạp. Nước Pháp trong dịp lễ Noel và lễ Saint Sylvestre, không có chính phủ, sự đó vốn rất thường ở Pháp.
Chú thích:
(17) Thành phần chính phủ do Nguyễn Văn Tâm Thủ tướng, kiêm bộ Nội vụ. Hai Phó thủ tướng: Phan Văn Giáo và Ngô Thúc Địch, giữ các bộ Thông tin và Cựu chiến binh
- Nghiêm Văn Trí, bộ Quốc phòng
- Nguyễn Huy Lại, bộ Tài chinh
- Trương Vĩnh Tổng, Bộ Ngoại giao
- Lê Tấn Nẫm, bộ Tư pháp
- Nguyễn Thành Giung, bộ Quốc gia Giáo dục
- Lê Quang Huy, bộ Giao thông Công chính
- Bác sĩ Lê Văn Hóach, bộ Y tế
- Cung Đình Quỳ, bộ Nông nghiệp
- Hoàng Nam Hùng, bộ Thương mại
- Vũ Hồng Khanh, bộ Thanh niên và Thể dục Thể thao
- Lê Thăng, bộ Xã hội
- Trần Văn Quế, phụ trách về Kế hoạch.