← Quay lại trang sách

Vị Tổng tư lệnh quân đội của tôi

Luôn luôn tôi phải đương đầu với hai nỗi lo âu này là: sự đe dọa của quân Tàu ở biên giới và sự đe dọa của Cộng sản ở trong nước. Thế mà tôi không thể quên rằng giải pháp Pháp - không phải giải pháp Bảo Đại như người ta thường nói rất nhiều - vốn hạn chế tôi trước kia. Người ta đã làm tôi mất rất nhiều thời gian quí báu, để tổ chức quân đội của tôi. Vì vậy, không phải là không tốt lành gì mà lao đầu hết mình vào công tác, vì tôi cần phải chống đỡ vị trí của tôi cho tương lai. Tôi chỉ còn một giải pháp duy nhất: lợi dụng thời cơ này đến mức tối đa, cho thật nhanh chóng, Đại tướng De Lattre đã giúp tôi một thời hạn mà tôi cần phải sử dựng trên địa hạt chính trị.

Ngày 7 tháng 5 năm 1951, Đại tướng đã ngồi với tôi trong suốt một ngày. Chúng tôi đặt nền móng cho sự phòng thủ vùng sơn cước, đối với các sắc dân thiểu số. Tôi cho rằng đây là điểm rất quan trọng. Hai hôm sau, Cao ủy sang Singapour để dự một hội nghị quân sự tay ba với người Mỹ và người Anh, cho tới ngày 20, để bàn về các vấn đề Đông Nam Á. Khi ông trở về, ông có cảm tưởng là chưa để lỡ mất thời gian. Trong cuộc thảo luận này, ông đã có thể chứng minh sự cần thiết về đoàn kết giữa ba nước, nước Pháp, nước Mỹ và nước Anh, đối với những sự len lỏi của Nga Sô và của Trung Cộng, giúp cho các phong trào Cộng sản địa phương hành động.

Ngay sau khi ông trở về, ông phải đương đầu với một trận tấn công mới của Việt Minh, bắt đầu nổ ra vào cuối tháng trong suốt vùng sông Đáy. Hai sư đoàn 304 và 308, mà tướng Giáp đưa vào trận chiến, sau một cuộc đụng độ nẩy lửa, bị bắt buộc phải tan vỡ và bỏ chạy. Trong trận này, Trung úy Bernard De Lattre bị tử trận ngày 30 tháng 5 trên đỉnh núi ở Ninh Bình.

Tôi vội gửi điện phân ưu cùng với Đại tướng De Lattre. Tôi biết ông đang bị xúc động mạnh, vì Bernard De Lattre là con trai độc nhất của ông. Cũng do sự yêu cầu của con ông một phần, mà ông ta đã nhận lời sang nhận chức ở Đông Dương và bây giờ ông có cảm tưởng, đã không bảo vệ được chính con ông. Tôi liền truy cấp Long Bội tinh cho Trung úy Bernard De Lattre với lời tuyên dương như sau:

“Sĩ quan ưu tú, chết ở sa trường ngày 30 tháng 5 năm 1951, trong trận đánh ở Ninh Bình, để bảo vệ Liên hiệp Pháp, đã làm rạng danh những truyền thống tốt đẹp của nước mình, quân đội mình và gia đình mình. Do sự hy sinh anh dũng, đã mang một minh chứng cao quí và chặt chẽ về mối liên kết bình đẳng giữa hai nước Pháp và Việt. Đã lưu lại một tấm gương sáng láng cho giới thanh niên can đảm của hai quốc gia, và cho các người kiêu hãnh, không còn ngờ vực gì về sự bảo vệ tự do và tổ quốc chính là một hy sinh tối thượng của con Ngài”.

Đại tướng gửi cho tôi vài câu trả lời để cám ơn, trong đó có toát ra mối lo âu của ông, là đẩy tất cả tầng lớp nhân dân trên toàn quốc vào cuộc chiến, điều mà tôi vẫn mong muốn:

“Vâng, Bernard có thể là đại diện ưu việt của giới thanh niên Pháp. Nó là sĩ quan thứ 59 tốt nghiệp khoa học ở Saumur, chết ở chiến trường Việt Nam, và là người con thứ 18 của các tướng lãnh Pháp. Nhưng nó không thể nào đại diện cho giới thanh niên ưu tú Việt Nam được. Bọn này ra ngoại quốc, nhưng không phải là để ra trận. Nếu các sinh viên của quí quốc có ra trận thì đó là trong hàng ngũ của Việt Minh. Họ là con cái của dân chúng, các tiểu điền chủ mới ra trận, và đánh rất hay. Con của chúng tôi không thể nào đại diện cho giới thanh niên ưu việt Việt Nam được”.

Một hôm đau đớn đến tột cùng, ông bảo tôi:

- Thưa Hoàng thượng, con trai Bernard của tôi không phải chết cho nước Pháp. Thế mà trên mộ bia của nó, lại đề là như vậy. Như thế là không đúng. Nó chết ở Ninh Bình, Bernard đã chết cho nước Việt Nam.

Kể từ ngày chết của Bernard, tôi nhận thấy ở Đại tướng có một biệt nhãn đối với tôi. Bởi con ông chết cho nước tôi, tôi thấy ông càng quan tâm đến nhiệm vụ đã dành cho ông. Đối với cá nhân tôi, sự gắn bó ấy như nhiễm tình phụ tử. Bất cứ trường hợp nào, ông cũng đứng về phía tôi, và tìm cách dung hòa mọi dị biệt. Ông đã nhìn tôi như nhìn vua Albert đệ nhất của nước Bỉ, lúc nào cũng cầm quân ra trận. Tôi cũng là một vì vương rong ruổi sa trường, và như các Hoàng đế của Việt Nam cổ xưa, tôi sẽ thân chinh, cầm đầu quân đội. Ông chỉ muốn là vì nguyên súy, được ủy nhiệm mà thôi…

Tình cảm ấy đã do ông bộc lộ ra, qua bài diễn văn dài, đọc ngày 11 tháng 7 năm 1951, trong dịp phát thưởng ở trường Trung học Chasseloup Laubat tại Sài Gòn. Qua các sinh viên đang đứng trước mặt ông, lời nói của ông như để gởi cho tất cả các giới thanh niên toàn quốc.

“Đã có nhiều lúc nghiêm trọng của lịch sử các dân tộc, mà giới thanh niên vốn là tương lai của đất nước vẫn phải nắm lấy hiện tại ngay tự bây giờ. Khi một quốc gia đang ngồi dưới bóng tử thần, thì giới thanh niên như bông hoa hàm tiếu vẫn nở đúng lúc giao thừa trong ngày tết, cũng phải biết nở ra đúng dịp để mang lại kết quả tốt đẹp trước khi lại thầy ánh bình minh ló dạng”.

“Phải chăng đó chính là trường hợp ở đây? Từ mảnh đất cổ xưa của Việt Nam, từng chịu mang bao cuộc xâm lăng, tôi như nghe thấy từ chốn mịt mù đen tối của dã man tàn bạo, lời kêu gọi dành cho giới thanh niên đầy nhiệt huyết… Và tôi đây đã từng biết và từng yêu giới thanh niên ở khắp mọi nơi, tôi nói rằng thanh niên ở đất nước này có thừa khả năng đề tin cậy, và đáp ứng nổi những nhu cầu của lịch sử, Thanh niên mẫn cán và hăng say, khôn khéo và kiêu hãnh, đầy tham vọng và đầy nhiệt huyết, vốn đã từng được chứng minh qua từng thể kỷ, thanh hiên rất nhạy cảm, sẵn sàng nghe tiếng gọi của đại nghĩa; thật sự, thế hệ thanh niên đang trưởng thành này ở Việt Nam, đã có tất cả những đức tính đặc biệt mà hiện tại vô cùng khẩn trương đang đòi hỏi sự có mặt tức khắc…

“… Đó là chiến tranh, hãy tỏ ra xứng đáng là con người. Nghĩa là nếu anh là Cộng sản, hãy bỏ ra theo với Việt Minh. Nơi đó, có rất nhiều kẻ chiến đấu gan dạ cho một ý đồ xấu, nhưng nếu các anh là những người yêu nước, các anh hãy chiến đấu cho Tổ quốc và dân tộc, vì cuộc chiến này là của các anh. Nước Pháp chỉ đến đây để giúp các anh, với điều kiện là các anh phải đi với họ”.

Tiếng nói của Đại tướng còn vang bên tai tôi, với một giọng chứng tỏ đã có sự liên hệ thật chặt trong sự đau thương của tâm hồn ông, với linh hồn của dân tộc tôi.

“Các anh là thanh niên trí thức của Việt Nam. Các anh phải đòi cho được đặc ân ưu tiên ra trận. Thiện chí vô biên của dân tộc Việt Nam đang chờ đợi nơi anh. Nó đòi hỏi sự nhập ngũ và chí hướng của các anh. Các anh không có quyền làm cho nó thất vọng. Hãy nhớ câu này của Khổng Tử: “Trái lòng dân là trái lòng trời”.

“Các anh có thể là hạt muối trên cõi đất này. Khốn nạn thay cho hạt muối ấy, nếu nó nhạt phèo: Khi mà một quốc gia bị phản bội bởi giới trí thức, nó sẽ chết hoặc phải thay bằng lớp trí thức mới khác. Tôi nói với giới thanh niên đang trưởng thành ở Việt Nam: Hãy thuộc nằm lòng câu nói bất hủ đã trở thành châm ngôn của một tay lãng tử từng kêu lên trước Quốc hội Ba Lan: ‘‘Tôi muốn sống trong nền tự do đầy nguy hiểm, còn hơn sống trong thanh bình của nô lệ”. Vào giờ phút long trọng của số phận Á châu này, hành động mà lịch sử chờ đợi ở các anh đã vượt quá tầm vóc quốc gia của nước anh. Nó phải đáp ứng được nguồn hy vọng âm thầm của hàng triệu con người, sẵn sàng phải chịu ách Cộng sản như một định mệnh phũ phàng. Tự tay anh, mà mai đây, có những con người thoát được nạn khủng bố của “Đế quốc Bắc phương”, có thể reo lên ở biên giới Việt Nam, như năm 1789, những người khách phương xa đến biên giới Pháp đã từng reo: Đây bắt đầu đất của tự do.

“Tất cả các anh đây, tất cả, các anh được tự do lựa chọn đường lối của mình, hoặc theo con đường hướng thượng, là con đường của danh dự, của bổn phận và của nỗ lực, hoặc theo đường đi xuống, là con đường của bất động của chạy trốn và từ nhiệm… Nhưng đối với các anh, thanh niên trí thức Việt Nam, mà tôi ưu ái như đối với thanh niên nơi quê cha đất mẹ, thời gian đã điểm để các anh bảo vệ lấy xứ sở của mình… Để đi tới ánh sáng của độc lập, còn phải mất nhiều mồ hôi và xương máu, mới có thể gặt hái được những bông hoa quí ấy.

“Vậy thì chỉ có trung thành với lý tưởng do Đức Hoàng đế Bảo Đại tượng trưng mới tìm ra chân lý ấy… Tôi tin rằng nước Việt Nam sẽ được cứu thoát do chính bởi các anh”.

Lời nói sau cùng này, ông muốn được tôi cụ thể hóa, nên mời tôi ra duyệt binh tại Hà Nội ngày 14 tháng 7. Trong dịp này, có hàng tiểu đoàn binh sĩ của quân lực Quốc gia mới thành lập, nên mang tính chất một ngày hội của quân đội.

Tôi nhận lời ra Hà Nội, và ở biệt điện đường Puginier tức Phủ Toàn quyền cũ, mà nước Pháp đã long trọng trả lại cho Việt Nam.

Bên hồ Hoàn Kiếm đã dựng sẵn một chiếc rạp. Tôi ngồi trên bục ở giữa rạp, bên phải có Đại tướng De Lattre, trước quốc kỳ, có hàng quân danh dự dàn chào.

Các thân cận của Đại tướng muốn trong dịp này, tôi vận binh phục để chứng tỏ tôi đang thực sự cầm đầu quân đội. Tôi từ chối dứt khoát, cho rằng vị Quốc trưởng không thể đóng trò như thế được, nó sẽ làm tôi trở thành một thượng khách của Đại tướng. Thử hỏi Clemenceau, khi đến ủy lạo binh sĩ chiến đấu trong các hầm vào Đệ Nhất Thế Chiến, ông có vận binh phục không? Ngược lại, để minh chứng vị trí dành cho mỗi người, ngay đầu buổi lễ, trước quốc kỳ và quân đội nhân danh Quốc trưởng tôi tặng thưởng Đệ nhất Long Bội tinh cho vị Tổng tư lệnh quân đội. Rồi lên xe Jeep cùng với Đại tướng, và Đại tá Hinh, chúng tôi đi duyệt các hàng quân. Tại đây, có đủ các binh chủng của quân đội trẻ của tôi, đã từng hiển danh trong các chiến trường Vĩnh Yên, Mạo Khê và Sông Đáy. Sau đó là cuộc diễu binh, được dân chứng đứng đông đặc hai bên đường hoan hô cổ vỗ.

Tôi ngợi khen Đại tướng, và cảm ơn nồng hậu, về thành quả của ông đã dành cho quân đội và cho đất nước tôi.

Ông Cao ủy nói cho tôi biết sự ngạc nhiên của ông, được trông thấy sự mau lẹ mà các tân binh đã thu lượm được về các căn bản quân sự, cũng như về sự can đảm của họ khi ra trận. Mặt khác, họ cũng thích ứng rất dễ dàng với mọi mặt của chiến tranh. Mới gần đây thôi, người Việt Nam chưa được ai biết đến là một chiến sĩ thiện nghệ. Vì vậy, trong thế chiến thứ nhất 1914-1918 và thế chiến thứ hai 1939-1945 khi sang Pháp họ chỉ được xung vào các đoàn lính thợ. Người Việt Nam nhỏ con, bỗng là thứ bé hạt tiêu, có thể liệt vào huyền thoại, mà không ai dầm khinh nhờn.

Đại tướng De Lattre biết rõ như vậy, và nhiều khi chính ông đã đòi phải trao trách nhiệm cho các sĩ quan Việt Nam. Vì vậy, khi bắt đầu đặt ra các cấp tiểu đoàn, tôi để mặc ông toàn quyền bổ nhiệm các tiểu đoàn trưởng trong giới sĩ quan mới ra trường. Ông chọn hai người là Dinh và Đồng, để trao cho hai tiểu đoàn số 1 và số 2 BVN (tức tiểu đoàn Việt Nam), trong hàng ngũ đó có Bernard De Lattre đã bị tử trận. Tôi thấy cả hai người đều còn quá trẻ, và thiếu kinh nghiệm cho một trọng trách như vậy. Nhưng Đại tướng bảo nên để họ tự tin, và đã có lý. Về sau, cả hai sĩ quan này đều tử trận cả. Trong tinh thần ấy, cũng như trong sự phấn khởi ấy, Tướng De Lattre lại xúc tiến lập sư đoàn thứ 4 lính thổ, để giữ an ninh cho vùng Cao nguyên.

Quân đội Việt Nam tiến vững. Tôi liền cho nổ thêm một sự hăng say nữa. Ngày 16 tháng 7, tôi ra lệnh động viên ở Việt Nam. Tất nhiên là tôi không chú ý đến sự khó khăn mà quyết định này đưa lại. Có thể là do sự thiếu sót về tổ chức hành chánh chưa được hoàn mỹ. Nhưng tôi chú trọng nhất về điểm tâm lý mà vụ này có thể đưa tới. Vì ngoài việc buộc các thanh niên đến tuổi cầm súng để bảo vệ xứ sở, tôi muốn giúp đỡ họ khỏi thắc mắc về vấn đề chọn nghề hạy tự nguyện đầu quân.

Quyết định ấy đối với tôi, có tầm quan trọng lớn lao ở trong nước cũng như ở ngoài nước.

Ít ngày sau, Cao ủy bay về Pháp. Tôi hiểu rõ, ông đã quá mệt mỏi do những nỗ lực tung ra kể từ ngày đến đây. Tôi chỉ gặp lại ông ba tháng sau đó.

Trước hôm ông ra đi, tôi đã đưa cho ông một bức thư qua ông Hữu, để ông có thể trình trước chính phủ Pháp.

“Những cuộc đàm phán về hòa bình ở Triều Tiên, không phải là không làm cho dân chúng Việt Nam xúc động, bởi vì nó có thể đưa đến sự tiến công miền Bắc Việt Nam.

“Hội đồng chính phủ, trong cuộc thảo luận dài ngày mùng 6 tháng 7, đã ước lượng rằng, hòa bình xúc tiến được ở Triều Tiên, không phải là chấm dứt đươc chiến tranh ở toàn châu Á, nếu nó không được sự bảo đảm về phía Cộng sản đối với Việt Nam. Chỉ nước Pháp là có thẩm quyền, khi nhân danh Liên hiệp Pháp trong các hội nghị ngoại giao quốc tế, chính phủ Việt Nam rất tri ân ông Cao ủy, để xin Cao ủy can thiệp cạnh chính phủ Pháp, đạt được lời cam kết trong cuộc đàm phán về hòa bình ở Triều Tiên, liên hệ đến an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam...”

Tiếc thay, khi Cao ủy về tới Pháp thì lại gặp kỳ khủng hoảng nội các. Chính phủ Queuille đổ ngày 10 tháng 7 và mãi đến ngày 10 tháng 8, ông Pleven mới gỡ được các khủng hoảng này. Ông Letourneau vẫn giữ bộ Quốc gia Liên kết.

Đúng trước hôm Cao ủy trở về Pháp, thì chúng tôi được tiếp ở Sài Gòn, vị Thống đốc tiểu bang New York, ông Thomas Dewey. Như phần đông các đồng hương của ông, ông cũng không biết tí gì về tình hình Việt Nam. Vậy mà khi qua Hong Kong mấy hôm trước ông vẫn cứ tuyên bố những điều bất lợi cho chúng tôi. Đến Sài Gòn, tôi tiếp đón ông cùng với Tướng De Lattre. Ông rất lấy làm ngạc nhiên về tình thân thiết giữa Đại tướng với tôi. Trước khi ông đi, ông đã đọc một bài diễn văn đáng chú ý sau đây:

“Tôi đã thấy một quốc gia đang sửa soạn chiến tranh, trong những trường hợp thật can đảm. Nước đó đang được vị đại diện nước Pháp thúc đẩy và nâng đỡ, vị này chẳng những là bạn thiết của họ, mà họ lại còn được coi như ân nhân, mà gần đây, cái tang mà ông ta chịu được coi như tang chung của dân tộc. Tôi phải nói rằng, qua kinh nghiệm suốt một đời chính trị của tôi, tôi chưa từng thấy một trường hợp nào tương tự. Thật là cảm động, đến độ mà chúng ta, người Mỹ chúng ta không tài nào nghĩ tới…”

Rồi trở lại điểm mà Đại tướng De Lattre nói ở hội nghị Singapour, muốn đặt miền Bắc Việt Nam như tiền đồn chống Cộng ở Đông Nam Á, ông kết luận:

“Vấn đề không phải là chia xẻ các ảnh hưởng giữa các nước lớn, hay sự tranh giành kinh tế đối lập, mà là trọng trách phải được trao phó. Tôi đã thấy cái nguyên lý nhiệm màu rồi. Tôi đã trông thấy điếu kỳ diệu rồi, và tôi sẽ nói ở Mỹ”.

Vậy thì đó là luận cứ mà Đại tướng De Lattre có thể sử dụng, và tôi hoàn toàn đồng ý. Ở Việt Nam chúng tôi đang dẹp nội loạn, nhưng chúng tôi cũng bảo vệ chiến tuyến của tự do, trên một bình diện ngang hàng và liên kết. Tại Triều Tiên, người ta đang bảo vệ chiến tuyến của tự do. Vậy thì đó là cùng một trận chiến. Chỉ có một cuộc chiến ở châu Á, và thật vô lý, nếu đàm phán về hòa bình ở Triều Tiên với Trung Hoa, lại không nói với họ về tất cả các nước khác ở Đông Nam Á, nhất là cuộc viện trợ của Tàu cho Việt Minh để đánh chúng tôi.

Ông Cao ủy đã ngỏ ý cho tôi biết là ý định của ông là muốn sang Mỹ, lập luận này rất có ích cho ông cũng như cho Trần Văn Hữu, khi đi dự Hội nghị ở San Francisco từ mùng 3 đến mùng 8 tháng 9, để ký hiệp ước hòa bình với Nhật. Đây cũng là lần đầu tiên mà Việt Nam can thiệp trên bình diện quổc tế. Sự tham dự của nước tôi trong Hội nghị này là điều thắng lợi to lớn cho dân tộc, vì nó củng cố nền độc lập của nước tôi.

Biết rõ người Mỹ rất tôn thờ tự do dân chủ, tôi lưu ý ông Cao ủy cũng như Thủ tướng Hữu về những câu hỏi, mà họ có thể nêu lên với các ông về cuộc bầu cử tương lai. Không phải là tôi chống lại các cuộc bầu cử này, nhưng tôi không mấy chú trọng đến điều đó trong hiện trạng. Có thể, họ sẽ nêu lên đối với Việt Nam, nếu quyết định sẽ là trưng cầu dân ý ở Triều Tiên, để xem dân chúng Triều Tiên thích chế độ nào. Còn vấn đề bầu cử ở đây, thì quả là khôi hài. Người ta đã thấy trong dịp bầu cử ở Lào, có đến 92% dân chúng không đi bầu. Ở Cam Bốt thì đến 70% không đi. Còn đối với truyền thống của nước tôi, cũng như hoàn cảnh hiện tại, cuộc bầu cử chỉ là một con mồi. Nó chỉ dùng để phục vụ bọn Cộng sản. Nếu thật sự người ta muốn phục vụ nền tự đo dân chủ, thì người ta cần phải mang đến cho chính phủ những nỗ lực để thực hiện, như trong bản thông điệp mà tôi từng đọc trong dịp Tết. Tất cả những cải cách ấy, đã được Hồ Chí Minh tung ra, như chia lại ruộng đất, chính trị về gạo, y tế, xã hội, thuốc men… Hiện nay, các cải cách ấy đang được thực hiện. Việt Minh chỉ còn có nước câm lặng mà thôi.

Ở Pháp, các ông chính khách, vắt tay lên trán suy nghĩ có nên bàn lại, nếu ngày mai Hồ Chí Minh đề nghị với chúng tôi một giải pháp hòa bình. Tôi không phải là người bạo động, nhưng quả thật khó mà chấp nhận được. Bởi vì Hồ Chí Minh không những chỉ là kẻ phiến loạn đối với Tổ quốc Việt Nam, mà còn là tay Cộng sản có đường hướng vượt quá biên thùy của nước tôi. Tại Âu châu, người ta có lẽ có cảm tưởng rằng đặt chiến tranh ra ngoài vòng pháp luật. Tuy nhiên, các lãnh tụ Tây phương không thể ngờ được rằng, chiến lược toàn cầu của Cộng sản, chính là một hệ thống quân bình. Hòa bình ở Âu châu thì chiến tranh ở Á châu. Nếu mai đây mà chiến tranh ngưng ở Á châu, hãy tin rằng không thể có an ninh ở Âu châu…

Đại tướng De Lattre đã có định kiến riêng về vấn đề này. Ông không nói thẳng với tôi, nhưng thái độ của ông đã bộc lộ. Ông thường nhắc lại ở khắp mọi nơi: Nước Pháp không có tí quyền lợi gì ở đây cả… Điều mà ông muốn tìm kiếm, chính là một lối thoát, lối thoát trong danh dự, có hàm ý rằng ông muốn nói đến cái ngõ hẹp, mà ông không tin chắc là sẽ tìm thấy. Ông chẳng từng nói với vài tay thân tín: “Theo tôi, nước Nga, nước Tàu, rồi mai đây là Ấn Độ, mai đây nữa khi tất cả chúng tôi đã ra đi, toàn thể Đông Nam Á, tất cả sẽ vĩnh viễn bị nhuộm đỏ”.

Như vậy, phải chăng tôi đã có lý, khi người ta nói đến giải pháp Bảo Đại đã chữa lại là giải pháp của nước Pháp. Nhưng thế thì Việt Nam sẽ ra sao? Một sự thay thế Pháp bằng Hoa Kỳ? Nó cũng sẽ chỉ ngắn hạn mà thôi. Những ai đã kết tôi là bất động, phải hiểu thái độ dè dặt của tôi. Đối với dân tộc tôi, tôi có bổn phận phải biết nhìn xa hơn. Tôi tin chắc tự thâm tâm rằng ngày nay Tướng De Lattre đã hiểu đang phải đương đầu với những gì. Riêng tính chất mã thượng, theo truyền thống Pháp của ông, đã thận trọng không dám hở ra với tôi, và buộc ông phải giữ một thái độ vô cùng hăng say để thúc đẩy tôi, mà ông càng ưu ái với tôi.

Khi tôi chắp vá lại những tin tức phản ảnh thời đại ấy, tôi rất đau buồn về những sự nhận định thiếu tính chất vô tư của những tác giả nông nổi ấy. Chẳng một ai trông thấy cái hiện tượng kỳ lạ đã đưa Tướng De Lattre vào nền độc lập của Việt Nam. Mang một vết thương đau đớn do cái chết của đứa con trai độc nhất, thêm vào nỗi vất vả nhọc nhằn vô bờ, cộng thêm bệnh hoạn, sự trãi đó của hiện tượng này đã đòi hỏi ở Đại tướng một tâm hồn can đảm siêu phàm.

Hiện nay, Cao ủy đảm trách vai trò đi cầu viện tại Hoa Thịnh Đốn. Một nhiệm vụ không mấy được ông ưa chuộng, nhưng ông vẫn hoàn tất theo sự hăng say thường lệ. Ông phải theo đuổi tận Luân Đôn để trình bày nhãn quan sáng suốt của mình: “Bắc Việt Nam là chìa khóa giữ toàn thể hệ thống phòng thủ Đông Nam Á. Để mất Bắc Việt Nam là mở cửa cho Cộng sản tiến đến cửa ngõ Đại Tây Đương”. Chặng cuối cùng của ông là La Mã, mà người ta cho rằng ông đến để xin Đức Giáo hoàng ban phép Thánh cho đoàn quân thánh chiến của ông.

Trong khi ông còn lênh đênh trên tầu L’Ile de France đưa tới Nữu Ước, tôi gửi cho ông một bức điện, tỏ lòng tín nhiệm và sự hỗ trợ của tôi.

“Thưa Ngài Cao ủy, tôi mong rằng trước khi Ngài đến Hoa Kỳ, Ngài sẽ nhận được bức điện tín này tỏ lòng tín nhiệm và ngùôn hy vọng của toàn thể dân chúng Việt Nam.

Chính là vì họ mà Ngài đảm trách sứ mạng này, để bảo đảm cho nền độc lập mà nước Pháp đã trao trả cho chúng tôi.

“Khi làm luật sư đấu tranh cho sự bảo vệ Việt Nam trước một nước lớn, là nước bạn Hoa Kỳ vĩ đợi, Ngài đã tiếp tục thể hiện nền độc lập ấy, được cụ thể hóa ở Vinh Yên, do một đại quân nhân của nước Đại Pháp, mà các chiến thắng lẫy lừng ở khắp chiến trường Bắc Việt, đã cứu thoát nước Việt Nam qua cơn hiểm nghèo, bằng một giá vô cùng đau đớn. Tôi xin tỏ lòng tri ân của cả một dân tộc và sự quyết tâm của họ cho những trận chiến trong tương lai. Những biện pháp động viên mà tôi ra quyết định, do đề nghị của Thủ tướng Trần Văn Hữu và của Hội đồng Bộ trưởng, đã được toàn thể dân chúng hoan nghênh. Họ rất hãnh diện được đặt dưới quyền chỉ huy của một tướng lãnh như Ngài. Tất cả các thanh niên Việt Nam đều sẵn sàng nghe theo lời kêu gọi của tôi để xả thân cứu quốc. Vậy thì với tất cả sự cuồng nhiệt mà quân đội Việt Nam sẽ chiến đấu sát cánh với quân đội Liên hiệp Pháp, để sẵn sàng thay thế lần lượt, theo như phương tiện mà họ được trao cho.

“Thưa Ngài Cao ủy,

Với tất cả sự cầu chúc Ngài thành công trong sứ mạng, tôi xin nhắc lại. Thưa Ngài Cao ủy, lòng ưu ái, sự tín nhiệm hoàn toàn và tình bạn thắm thiết của tôi đến với Ngài”.

Ông đã trả lời tôi như sau:

“Thưa Hoàng thượng,

“… Bằng chứng của sự tin tưởng của Hoàng thượng, đối với tôi thật quí báu trước khi tôi đến Washington, để nói chuyện. Tôi xin chân thành đa tạ Hoàng thượng, đã tỏ ra tín nhiệm và ưu ái đối với tôi. Đối với một người trong sự cô đơn, chỉ tìm thấy lại được tình thân, là do những cảm tình chân thực, sự tín nhiệm và lòng ưu ái ấy thật vô giá”.

Một mặt khác của công tác của chúng tôi. Đại tướng phải làm việc chống lại thời gian, còn tôi thì phải đi đôi với thời gian. Đối với ông, còn biết bao nhiêu sự việc phải hoàn tất mà thời gian quá ít ỏi. Đối với tôi, thì chỉ có một công tác có thể làm được trong hoàn cảnh này, là đặt nền móng cho một nền hành chánh và một quân đội vững chắc, do thế tôi phải tính từng thời hạn của từng sự việc và giá trị con người. Chúng tôi không thể nào hòa nhịp đúng bước của nhau. Sau khi đã cố gắng đi hia bảy dặm để đối phó với những sự việc mà ông cho là trì trệ, sau rốt Tướng De Lattre cũng quen với sự lủng củng đó.

Vì thế, hiện nay chúng tôi đang chú ý vào miền Bắc Việt Nam. Miền Nam Việt Nam bỗng dưng có sự kiện nổi bật vào thời gian ấy. Đó là Tướng Chanson Tư lệnh quân đội ở Nam phần kiêm Thượng sứ Pháp ở Cộng hòa Việt Nam, trong khi đi thị sát tỉnh Sa Đéc, bị một đoàn quân Cao Đài ly khai ám sát. Thủ hiến Nam Việt Thái Lập Thành cũng bị giết cạnh ông ta.

Tôi rất hâm mộ Tướng Chanson. Cựu sinh viên trường Võ bị Polytechnique, ông ta đã tỏ ra can đảm, có sự hiểu biết sâu rộng và tận tụy, nên đã đặc biệt thành công trong sứ mạng. Nhờ ông ta, mà sự bình trị ở miền Nam đạt rất khả quan. Tôi đã gặp ông ta nhiều lần, và bàn bạc với ông ta về nhân vật chỉ huy Nam bộ của Việt Minh, là Tướng Nguyễn Bình.

Trước khi bị tù Côn Đảo, Nguyễn Bình từng ở lâu năm ở Tàu, rồi ở Nga, trước khi nắm quyền tư lệnh quân du kích miền Nam. Uy tín và cá nhân của y đã dựng y lên đối đầu với tướng Giáp mà y đã làm cho lu mờ. Do Bẩy Viễn, tướng lạnh của Bình Xuyên, tôi biết chỗ ẩn náu, và hoạt động của viên tướng độc nhỡn này, và tôi đã đưa cả cho Tướng Chanson. Nhưng Nguyễn Bình vẫn thoát hiểm trong mọi cuộc bao vây. Thế mà ngày 29 tháng 9, Nguyễn Bình bị giết, chắc do một tên trong đoàn hộ tống y, trong một cuộc đụng độ với quân tuần kiểm Cam Bốt bên sông Srepok. Lúc ấy, Nguyễn Bình bị Hà Nội triệu hồi, để trả lời về những hành động lạc hướng Mác Lê của y, do tướng Giáp tố cáo. Cái chết vẫn bị bao trùm trong bí mật, do một sự tranh quyền, thanh toán lẫn nhau… Đối với tôi, tôi ước mong bắt sống được Nguyễn Bình. Dù sao nữa, anh ta đã chết, và cũng không thọ hơn người mà anh ta từng chạm trán nhiều phen là Tướng Chanson.

Cuối tháng 9, tướng Giáp lại mở một cuộc tấn công mùa thu lên thượng du Bắc Việt. Tướng Salan lức ấy quyền Tổng Tư Lệnh quân đội, đã khôn ngoan cho thả quân nhảy dù trong đó có một tiểu đoàn Việt Nam xuống Nghĩa Lộ, là một thị trấn nhỏ ở phía Nam sông Hồng.

Khi Tướng De Lattre đáp xuống Sài Gòn, tất cả đều đã xong xuôi. Ngay khi ông đến, chúng tôi hội đàm với nhau suốt ba giờ liền. Ông kể cho tôi thật tỉ mỉ, cuộc nói chuyện của ông ở Hoa Kỳ, ở Anh quốc, và ở La Mã, đồng thời cho biết tình hình chính trị mà ông ta thấy tại Pháp.

Biết trước rằng, ông lại sắp đi Pháp, sau đó một ngày, là ngày 21 tháng 10, tôi mở tiệc chiêu đãi ông, có đông đủ các nhân vật trong chính phủ tham dự. Đến cuối bữa ăn, tôi ngỏ lời khen thành quả mà Cao ủy đã đạt, nhất là về công tác cuối cùng này. Trả lời tôi, Tướng De Lattre đọc một bài diễn văn rất đáng chú ý:

“Thưa Hoàng thượng, tôi có bổn phận phải báo cáo với Hoàng đế, là Tổng Tư Lệnh quân đội của quân lực Việt Nam, sau khi thi hành công tác…”

Rồi nhấn mạnh từng chữ, như đang đứng kiểu nghiêm chào ông nói:

- Thưa Hoàng thượng, tôi xin báo cáo lên Ngài công tác đã được trao phó. Công tác này với kết quả cụ thể thuộc lãnh vực quân sự, nhưng căn bản chính của nó lại nằm trong chính trị. Bởi vì không một nước nào lại muốn kéo dài vô tận, nỗ lực binh bị, tài chánh và nhân sự, không một nước nào muốn xúc tiến và tăng cường mọi viện trợ cụ thể cho một nước mà cơ cấu chính trị chưa đủ vững và mạnh mẽ. Binh lực riêng rẽ chỉ là một yếu tố trong đại thể, tạo nên sức mạnh, khả năng đề kháng của một quốc gia, y như một võ khí chỉ giá trị khi ở tay người dũng sĩ, vậy thì lực lượng quân sự tùy thuộc vào nền tảng vững chắc của chính trị, do thế viện trợ quân sự phải dựa vào nên tảng chính trị trước tiên…

“Tôi đã đem quyền lực của tôi, để phục vụ theo lòng tin tưởng của tôi, và tôi đã nói rằng Hoàng đế Bảo Đại là biểu tượng, là cây cột cần thiết cho nền thống nhất của Việt Nam.

“Hoàng gia là mối liên lạc vững chãi của đất nước này, vừa rộng lại vừa phong phú đi từ ải Nam Quan tới mủi Cà Mau. Thêm vào đấy, Hoàng gia là sợi giây liên lạc chặt chẽ để thống nhất được toàn thể các sắc dân thiểu số trên đất nước này. Hoàng đế là sự thống nhất, dẹp tắt được tất cả mọi mâu thuẫn, mọi dị biệt chính trị, và mọi sắc thái phong kiến trên toàn lãnh thổ. Ngài là chủ tể quân đội, mà quân đội vốn là lợi khí cũng như ý nghĩa của nền thống nhất trên toàn quốc.

“Tôi cũng đã nói, Hoàng đế là vị tân quân, thừa kế trẻ và tiến bộ của một triều đại cổ, vốn là tinh hoa duy nhất của ngàn xưa của nền Quân chủ Việt Nam, là gạch nối giữa quá khứ với tương lai, đảm bảo cho sự thống nhất toàn quốc, bởi vì Ngài đã đứng lên trên hết mọi giai tầng xã hội, cũng như trên hết mọi xu hướng chính trị. Hoàng đế là biểu tượng cho toàn quốc, đại diện cho khắp mặt thần dân ở Việt Nam.

“… Việc tấn phong nước Việt Nam trên bình diện quốc tế - do đó, tôi đã được cử đi Washington, đi Luân Đôn, đi La Mã - đòi hỏi những điều kiện tiên quyết và nhất định, là sự thể hiện hai điều kiện sau này, hầu có thể tạo được nền thống nhất và sự hữu hiệu của nước Việt Nam: đó là sự tạo thành tức khắc một quân đội quốc gia, và sự đặt nền móng cho một chương trình canh tân rộng rãi, hầu đạt được sự vững chắc của chế độ và hạnh phúc của nhân dân...”

Hôm sau, chúng tôi tiếp Tướng Collins, Tham mưu trưởng Mỹ đến tại chỗ, để nghiên cứu việc sử dụng các đồ viện trợ cho Quân lực Việt Nam. Tướng De Lattre cũng dành một buổi để tiếp vị này, vì chỉ có ông ta mới đủ khả năng hiểu được. Vị tham mưu trưởng Hoa Kỳ ở lại 48 giờ, và trước khi ra về, có xác nhận lại những lời hứa của chính phủ Mỹ với Tướng De Lattre.

Chiều chủ nhật tuần sau, Thủ tướng Trần Văn Hữu đãi tiệc Tướng De Lattre trước khi ông ra Hà Nội.

Trong thời gian này, tôi được biết Thượng sứ Pháp ở Cam Bốt là ông De Reymond bị ám sát chết.

Ngày 1 tháng 11, Tổng giám mục Đức Cha Dooley được Giáo hoàng cử làm Khâm mạng Tòa Thánh tại Việt Nam. Sự công nhận chính thức này của Tòa Thánh Vatican, rất quan trọng, vì Giáo hội Việt Nam cũng như cộng đồng Công giáo toàn thế giới, đều cam kết trong cuộc chiến đấu chung này.

Tại Minh Giảng, ngày 5 tháng 11, Cao ủy đọc một bài diễn văn trước hơn 10 ngàn nông dân. Ông ta nói với họ về những thành quả chính trị đã đạt được:

- Công tác này đã đánh dấu một chỗ ngoặt, công tác của những kẻ đi xây dựng, bởi vì nền chính trị, trong xã hội đang theo đuổi, ở đây đầu tiên phải là căn bản xây dựng. Nhưng công tác ấy, chỉ có thể thực hiện được, do sự hoạt động của Hoàng đế Bảo Đại, người đã thể hiện được nền độc lập và thống nhất cho Việt Nam.

Trong khi tôi tiếp Cao ủy Anh, là ông Malcolm Mac Donald ở Đà Lạt, thì Tướng De Lattre đến gặp tôi ngày 9 tháng 11. Sau khi dùng cơm với vị thượng khách xong ông ta nói riêng với tôi:

- Thưa Hoàng thượng, tôi phải trở về Pháp chữa bệnh. Vì sức khỏe suy nhược, tôi phải về để chịu một sự giải phẫu, nhưng trước khi tôi đi, tôi muốn đánh một đòn quyết liệt đối với Việt Minh.

Ông cho tôi biết những lời phê bình ông ở Paris, trên lãnh vực quân sự, người ta đã gán cho ông là “bất động”, sự đó càng chứng tỏ các chính khách Pháp đã không biết một tí gì. Ông đã tỏ ra bất mãn với những luận điệu đả kích ông, liên can đến hành động chính trị của ông, nhất là một loạt bài đăng trên báo Le Monde do một ngưòi tên Danielle Hunebelle viết. Tôi cũng không được chừa ra.

Vị Tổng tư lệnh quyết định hành động. Ông nói cho tôi biết chương trình của ông đã được đặt rồi.

- Tôi sẽ cắt đôi lực lượng của tướng Giáp. Cho đến bây giờ, chúng ta chỉ đóng vai thụ động, tùy theo sáng kiến của họ. Nay đến lượt tôi tung đòn ra để xem chúng đối phó cách nào. Mùa khô sắp tới, trường hợp rất thuận tiện. Chúng ta sẽ mở cuộc tấn công ra quá phạm vi đồng bằng…

Trước tiên ông nhắm vào Hòa Bình, một tỉnh nằm ở khuỷu sông Đáy, và là điểm giao liên bắt buộc thông miền Trung với miền Bắc Việt Nam, và với miền Bắc Lào. Đây là điểm mà các đơn vị Việt Minh tiếp tế vũ khí và quân cụ. Đánh chiếm Hòa Bình là đánh một đòn chí mạng đối với địch thủ. Ông Cao ủy lại trông thấy một ưu điểm nữa: Đó là sự giải phóng cho một sắc dân thiểu số, dân Mường, sống ở nơi này, mà sự giải phóng sẽ tạo nên một yếu tố có lợi cho chính phủ. Vì lý do đặc biệt ấy, Tướng De Lattre muốn xung vào trận chiến, một số tối đa các tiểu đoàn Việt Nam.

Công việc có vẻ hấp dẫn, và không mấy nguy hiểm nhiều. Tôi hơi dè dặt, vì tôi biết Việt Minh rất nặng ở xung quanh chốt này. Hơn nữa, tôi lo sợ một tai hại cho dân chúng, thường dân. Biết bao người nhà quê sẽ bị cảnh đạn lạc tên bay trong vụ này.

Cuộc nói chuyện của chúng tôi đã tãi ra trong một bầu không khí hoàn toàn tin cậy. Chưa bao giờ tôi thấy sự thông cảm cùng với Cao ủy đến mức ấy. Ông này đã nói với tôi bằng một giọng vô cùng ưu ái, y như tình ruột thịt của người cha, mà ông đã lưu luyến với tôi, kể từ ngày chết của con ông. Thật sự, Tướng De Lattre chỉ kém cha tôi là Vua Khải Định có bốn tuổi, mà thôi.

Ngay giờ đây, ông như có ý muốn chia xẻ trách nhiệm làm tướng của mình. Bất thình lình, ông kêu lên:

- Thưa Hoàng thượng, tôi quá yêu Hoàng thượng, bởi vì Ngài bí mật.

Tôi hiểu ông muốn nói gì. Cái bí mật kia, không phải đứng trên phương diện tâm tình, người Á Đông, mà ông muốn nhắc đến, mà là cái bí mật của người lãnh đạo quốc gia. Rồi ông vẫn tiếp tục tâm sự với tôi. Ông rất thất vọng đối với nước Pháp. Ông chẳng được giúp đỡ gì. Trong khi nước Mỹ sẵn sàng giúp đỡ chúng tôi, thì ở Paris, ông lại gặp những sự thiếu thông cảm. Ông muốn phàn nàn, để ám chỉ bọn thực dân ở Sài Gòn đã được các chính khách ở Paris nâng đỡ.

Ông nhắc lại:

- Tất cả bọn ấy, chúng chẳng hiểu gì hết.

Tôi mới lấy giọng hài hước, hỏi lại ông rằng:

- Vậy thì thưa Đại tướng, sao Ngài còn phải nhận lệnh từ Paris nữa? Gần đây, đã có người lập một nước Pháp tự do ngoài biên giới lãnh thổ. Tại sao Ngài không lập một nước Pháp tự do ở Sài Gòn?

Tướng De Lattre nhìn tôi rất lâu, mắt trông rất mơ màng, nhưng không nói gì. Đến chiều, sau bữa cơm, ông lại bảo tôi:

- Cần phải một năm nữa, mớí hoàn thành xong sứ mạng của tôi ở đây… Cái chiến thắng mà chúng ta sẽ thu lượm được ngày mai này, Tổng tư lệnh của Ngài xin dâng Ngài. Và lúc ấy, chúng ta sẽ cùng đến Hòa Bình để thu nhận quyền chiếm lãnh tỉnh đó.

Đây là lần gặp gỡ cuối cùng của chúng tôi vậy.

Ngày 10, cuộc tiến công bắt đầu. Chợ Bến bị chiếm ngay, và với tốc độ đó, ngày 14, quân lực Liên hiệp Pháp chiếm đóng Hòa Bình. Tướng De Lattre đã chiến thắng. Ngày 19 tháng 11, ông bay ra Hải Phòng để về thẳng Pháp từ 29 tháng 11 đến 16 tháng chạp, ông dự Thượng hội đồng Liên hiệp Pháp. Ngày 12, trong dịp dự tiệc có ông Letourneau, và các nhân vật của chính phủ Việt Nam, Lào và Cam Bốt, ông đánh một bức điện để cám ơn tôi đã đến Hòa Bình, như tôi đã từng ngỏ ý. Bức điện ấy vẫn mang một hình thức mà Tướng De Lattre thường dùng để xưng hô với tôi, trước lúc chia tay: “Tổng tư lệnh quân đội của Ngài”. Ngày 19 tháng chạp, Cao ủy vào bệnh viện.

Trước ngày ông đi, tôi đã có một quyết định có tầm quan trọng rất lớn. ít ngày trước đây, Thủ hiến Bắc Việt Đặng Hữu Chí, lấy cớ là sức khỏe kém, xin được thoái lui. Nguyễn Hữu Trí tìm cách để trở lại quyền hành, và các chân tay của ông ta, cánh Đại Việt, loan tin rằng nếu Nguyễn Hữu Trí không được trở về chức cũ thi lại có cách mạng nữa ở Bắc Việt Nam.

Tại miền Nam, tôi cũng phải đối phó với nhóm Đại Việt. Thực tế, tôi phải thúc đẩy, tài trợ, cho một nhóm trẻ để họ len lỏi vào trong đảng này, mà họ gây khó khăn cho mấy lãnh tụ già nua.

Tại miền Bắc, tôi suy nghĩ cách khác. Để thỏa mãn yêu sách của Đặng Hữu Chí, ngày 19 tháng 11, tôi cho ông ta từ chức, và bổ nhiệm vào chỗ của ông ta, viên bộ trưởng An ninh Nguyễn Văn Tâm, làm Thủ hiến Bắc Việt. Bổ một người miền Nam làm Thủ hiến, cầm đầu miền Bắc, quả là một sự thách thức. Chỉ riêng tôi mới có thể làm được, mà không gây phản ứng tai hại. Quyết định ấy nhằm hai mục tiêu. Trước hết, đó là sự chứng tỏ, tôi đang nắm vững quyền hành. Sau nữa, khi trao cho một người miền Nam, trọng trách về miền Bắc, chứng tỏ đó là sự thống nhất ba kỳ. Thật là một thành công tuyệt vời. Với sự hăng say, như từng hăng say ở miền Nam, trong nhiệm vụ bộ trưởng An ninh, Tâm đã chứng tỏ ở miền Bắc là một vị Thủ hiến rất có quyền uy, và thuộc loại giá trị đáng kể.

Tôi vẫn hy vọng kéo dài được thời gian, để Việt Nam đủ sức phòng vệ lấy mình. Nay thì không thể được nữa.

Sau cái chết của Tướng De Lattre, tôi có cảm tưởng rằng hòa bình chỉ là hy vọng hão huyền.

Thế mà, tôi trở về để đem lại hòa bình cho đất nước. Tôi chỉ thấy chiến tranh mỗi ngày một nặng. Những sự bàn phiếm của bọn chính khách Pháp, và sự sợ hãi quân đội của Mao đến sát biên thùy phía Bắc Việt Nam, làm mất bao thì giờ không thể nào lấy lại được. Ngay giờ đây, khi Nghị viện Pháp biểu quyết cấp ngân khoản cho Bộ trưởng Letourneau thì nước Pháp tìm cách quanh co và chỉ viện trợ nhỏ giọt, không có gì là thiện chí. Tôi cần phải nghĩ đến tương lai, một tương lai, trong đó giải pháp Pháp rất dễ bị thất bại, để kịp thời đối phó.

Mỹ quốc sẵn sàng giúp đỡ chúng ta, Tướng De Lattre bảo tôi như vậy. Nhưng liệu nước Việt Nam có thể trở thành, như Y Pha Nho năm 1936, khi nhận viện trợ quân sự của Đức, bãi chiến trường trong cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, không lốì thoát, để hai bên thi tài, thử sức nhau, do hai khối đối lập đang tranh nhau thống trị hoàn cầu?