← Quay lại trang sách

Chương 2

Cơn mưa ập xuống. Con phố mờ đục ánh sáng xanh trong lưới mưa bít bùng. Mẹ, trời gì mưa hoài. Ngưỡng mở hết máy leo qua lề chúi đầu xe vào một mái hiên hẹp. Chỉ trong chốc lát mặt đường vắng hẳn, phần lớn mọi người đã dừng lại ngó ra mặt đường, nhìn lên bầu trời tối đen. Những xe hơi kín chiếu đèn loang loáng vượt nhanh trong lưới mưa. Tôi phủi những hạt nước còn bám trên áo, lấy chiếc khăn lau mặt. Đáng ra mình không nên ra đây sớm. Đáng ra tôi phải ở lại trong căn nhà lá chật hẹp đó dù chỉ để ra vào quanh quẩn và ngủ. Mẹ muốn con làm cách nào đổi về ở gần mẹ và em, như vậy mẹ mới dễ gặp con, con ở xa quá, mẹ nhớ có muốn đi thăm con cũng không được, đường xá xa xôi. Sau hai chặng đường Di Linh – Sài Gòn, Sài Gòn – Cần Thơ, gần bốn trăm cây số. Trong bệnh viện vừa nhìn thấy tôi mẹ tôi đã òa khóc. Tôi nghe thấy tim mình đau nhói và chảy nước mắt, đó là lần thứ nhất tôi bị thương nơi bắp đùi. Lần thứ hai, vượt quãng đường Di Linh – Sài Gòn, mẹ tôi nhìn thấy tôi nằm im trên giường bệnh bà không khóc, mặt mẹ tôi tái nhợt, người như run khi cầm được tay tôi, giọng mẹ tôi yếu ớt hẳn đi, tiếng nói gấp gáp với hơi thở... Tôi sợ một lần nào đó, nhìn thấy xác đứa con độc nhất, mẹ tôi sẽ như một tượng đá vô tri, không còn khóc được, không còn xúc động được. Tôi không bao giờ muốn như thế. Tuyệt nhiên không bao giờ.

Chân con làm sao, viên đạn bắn vào đâu, có gãy xương không, có đi được không, bao lâu thì khỏi, bây giờ con thấy đau nữa sao, sao buộc kín thế này... Tôi giảng giải về vết thương, một viên đạn nằm ở trong bắp chân, phải mổ, không can hệ gì, chỉ ít lâu là có thể trở lại đơn vị. Mẹ tôi buồn bã: – Nghĩa là con chưa giải ngũ? Tôi nhớ gương mặt, mắt nhìn của mẹ tôi, những hình ảnh bám sát lấy trí não tôi trong những ngày sau đó, khi đã trở ra mặt trận.

Khuôn mặt, cái nhìn thân yêu đó lập lờ vây phủ nhưng nếu cố gắng nhìn rõ thêm trong không gian tôi thấy nó mơ hồ những mơ hồ làm tôi chới với kinh hoàng... Chắc lần này con không còn ra mặt trận được nữa. Mẹ tôi hỏi với giọng lo âu. Tôi im lặng. Như vậy là mẹ tôi mừng hay mẹ tôi buồn. Tôi không muốn biết rõ điều ấy. Buồn vì lo vết thương nặng? Buồn vì lo âu cho tôi trong những bất trắc, không may mắn vào những ngày tới giữa bom đạn vô tri như định mệnh? Tôi đã chứng kiến và nghe một người mẹ khác nói vụng sau khi thăm người con đã qua bao nhiêu lần thương tích hiểm nghèo: – Tôi mong cho nó cụt chân, cụt tay gì đó... Thấy một đứa con bị tàn phế chắc người mẹ phải đau lòng, nhưng chắc nỗi đau lòng này chẳng là gì đối với sự mất hẳn, chết đi của người con mà mình đã mang nặng đẻ đau... Cơn mưa đổ xối xả không ngừng, nước đã dâng cao trên mặt đường như một dòng sông mùa lũ. Ở trên đó bây giờ có mưa? Căn nhà gỗ, mái tôn nằm sâu trong khu vườn rộng, đó là nơi cậu tôi đã chọn để lập nghiệp. Mẹ tôi nói con đi rồi mẹ về ở với cậu và các cháu. Trong khu trại có một phần đất của mẹ tôi, phần đất được chính phủ cấp phát, nhưng sau đó mẹ tôi đã dời xuống Sài Gòn buôn bán với hy vọng giúp phương tiện nuôi tôi thành người. Tôi đi, mẹ tôi mất lý do và niềm hy vọng, Tôi hiểu niềm chua xót đó. Mẹ tôi trở về sống với người anh, trông nom vườn tược, giúp đỡ cậu tôi trong việc canh tác và trông đợi tôi. Nguồn hy vọng nào gửi gấm ở đó. Tôi cũng không biết. Mẹ mong cho con thành người. Thế nào là thành người? Đỗ đạt, có địa vị trong xã hội? Có vợ con tiền bạc? Tôi không có gì hết. Tôi lúng túng quanh quẩn trong cuộc dàn xếp không thành giữa những tranh chấp, lôi kéo... Thu xếp hành lý trước ngày trở về, mẹ tôi hỏi: con còn tiền tiêu không, mẹ không muốn con quá tằn tiện... Thưa mẹ con còn tiền, thực ra ở dưới đó không có gì để tiêu... Một phần vì vậy, một phần nữa, tôi muốn được thấy mẹ tôi yên tâm. Trong nhiều năm, dù đã lớn, tôi vẫn không kiếm ra một đồng bạc nào để giúp đỡ mẹ tôi. Bây giờ tôi không muốn thế. Tôi muốn tôi làm những việc tưởng như lặt vặt nhưng tôi cho là cần... Đáng ra mình nên ở lại trên đó, người mẹ, người em, căn nhà, cha tôi đã chết...

– Anh Hai, anh Hai, nó gỡ bóng đèn...

Tôi giật mình quay lại. Ngay đầu xe một người thanh niên đứng nhìn tôi, hắn nhếch môi cười hở hai hàm răng trắng, nét cười lạnh lẽo, tôi nhận ra trong nét cười một cái gì không bình thường. Hắn nhìn tôi, tay vẫn xoay cái bóng đèn. Một người đàn ông, người vừa kêu tôi, đứng trong cửa sắt mở hé chỉ vào thanh niên.

– Nó khùng đấy anh Hai, nhưng nó ăn cắp.

Tôi nhìn người thanh niên:

– Ê bồ, làm gì đó?

Hắn vẫn cười lặng lẽ không ra tiếng.

– Không phải xe tôi đâu nghe.

Hắn vẫn nhe răng cười, con mắt nhìn chòng chọc nhưng đầy vẻ ngây dại, tôi có cảm tưởng hắn không nhìn tôi mà nhìn một cái gì đó. Cái mũ vải màu cứt ngựa nhàu nhượi chụp trên đầu. Cái áo lính đã rách rộng thùng thình. Cái quần đen chân cao chân thấp. Khuôn mặt dài, hai gò má cao, sống mũi gãy, lông mày thưa, cổ khô khẳng, tóc bờm xờm. Tay hắn vẫn tiếp tục xoay cái bóng đèn. Tôi nói lớn:

– Bỏ tay ra bồ.

Hắn ngừng tay, đứng im, người đứng trong cửa sắt vẫn nhìn theo dõi nói giọng kể:

– Trước hắn đi lính, lính gì ghê lắm, biệt kích gì đó, xưa hắn ở xóm này, có vợ con đường hoàng, mới đây hắn trở về mà không thấy đi nữa, hắn lang thang tối ngày và ăn cắp, thấy cái gì hắn cũng lấy, hắn điên nhưng hiền lành, tội nghiệp lắm...

Hắn bỗng khép hai môi lại, không nhe răng nữa, hắn bỏ tay ra khỏi đèn xe, quay đi và bước xuống đường, hắn lội lủng bủng trong nước, mưa đổ xối xả trên người hắn. Hắn đi và chốc chốc dừng lại giơ tay lên, cử động như một nói thầm với mình. Và cứ thế hắn đi mãi xuống cuối phố lặng lẽ. Người đàn ông nói tiếp:

– May mà biết nếu không anh Hai mất cái bóng đèn, nhiều khi hắn lấy rồi vứt đi...

Người đàn ông đóng cửa, tiếng sắt kêu rít, tôi tìm một điếu thuốc châm hút. Cơn mưa đã bắt đầu nhẹ hạt. Mình phải về.

Con ngõ đã vắng tanh và tối mù. Những cửa đóng kín. Tôi tắt máy xe nhìn ánh sáng trong những khe cửa sồ. Tôi gọi Đức ơi. Sao khuya rồi mà hắn còn thức. Tôi trở về đây chắc hắn hài lòng lắm. Cái thằng lau chau thua tuổi mình mà lúc nào cũng muốn làm kẻ cả săn sóc cho đàn em. Tiếng khóa khua động, cánh cửa mở rộng. Thảo ló đầu nhìn, khi thấy tôi, nàng mở rộng hai cánh cửa. Cái anh chàng lầm lỳ đấy, thật khùng. Ngưỡng mỉm cười:

– Thảo chưa ngủ sao?

– Chưa anh, anh đẩy xe vào đi, đứng ngoài ướt hết. Mưa thế mà anh không trú, lạnh đau cho coi.

– Ồ bọn tôi mà cứ gặp mưa mà đau thì chết lâu rồi. Bọn tôi dầm mưa cả đêm cả ngày mà có sao đâu.

Ngưỡng vừa nói vừa đẩy xe vào trong nhà, dựng xe và nhìn thấy nước chảy xuống nền gạch. Thảo vẫn đứng im. Sao không đóng cửa lại. Ngưỡng nhìn ra ngõ chợt nhận thấy cửa hàng rào chưa đóng. Cô nhỏ đợi mình vậy đỏ. Ngưỡng bước ra đóng cửa hàng rào. Đứng vào cửa Ngưỡng giậm giậm chân rũ bớt nước trên người.

Đức từ trong nhà đi ra:

– Ta tưởng cậu không về.

– Định không về nhưng sợ cậu cằn nhằn không có xe đi làm rồi la bạn bè bê bối. Mấy thằng công chức nó lẹp nhẹp lắm.

Thảo mỉm cười nhìn Ngưỡng. Đức cười thành tiếng.

– Thôi vào thay quần áo đi, lúc nào cũng ồn ào la lối.

Ngưỡng cúi xuống cởi giày rồi đi xuống phía sau bếp. Thảo đóng cửa lại...

Căn phòng chan hòa ánh sáng. Thảo ngồi xuống ghế gỗ có dựa lặng lẽ nhìn cuốn vở mở trên mặt bàn. Bộ quần áo màu xanh nhạt mát mắt; mái tóc cột gọn sau gáy. Khuôn mặt bầu bĩnh sáng rỡ. Tôi tin nàng không

nhìn rõ những hàng chữ. Tiếng mưa lại đồ mạnh ào ào trên mái ngói. Những đợt gió lùa vào khe cửa khiến chiếc màn lay động. Trong căn nhà gỗ, bà mẹ, người em... những thân thuộc lâu bền không đủ cho tôi tìm thấy một cuộc sống đầy đủ, tôi thiếu gì, có phải tôi thiếu một người tình, thiếu một người vợ, tôi thiếu một người để san sẻ với tôi những điều mà tôi không thể nói, tâm sự với một người khác... có phải Đức đã tìm thấy hạnh phúc? Có phải hạnh phúc chỉ là một ảo tưởng?

Đức vứt bỏ hộp quẹt lên mặt bàn, tiếng động khô mất hút. Khói thuốc thả ra.

– Tôi sợ mấy ông luôn. Chắc tỉnh rồi hả. Mình phải làm một ly nước chanh bự rồi mới thấy tỉnh dần. Bà vợ là quá trời.

– Thế hả, có người la là sướng rồi. Chắc bà ấy ngán luôn bọn này, đến rồi phải tu mất.

– Tu, cậu mà tu, thôi đi ông, ông mà tu thì Phật bỏ chùa ra lấy vợ bé. Ông nào đi lính rồi cũng nhậu nhẹt tung trời, nói tục và ba trợn.

– Đừng nói thế oan cho lính. Một mình tôi thôi cậu ơi. Có điều cậu chưa sống như tôi, cậu chưa đi nhiều như tôi, chưa ăn rắn, nhái, ếch, rùa... chưa phải nhịn đói, ngâm mình dưới sình lầy, ngủ trong rừng mưa... cậu sung sướng đến không phải văng tục…

Giọng Ngưỡng lạc đi. Nó sung sướng, hạnh phúc đến không phải văng tục. Tôi ngồi xuống chiếc ghế mây thấp dựa lưng vào tường. Ánh sáng êm ả trong mắt. Điếu thuốc đốt lên, những vết nhăn nơi trán chùn lại sát vào đôi lông mày, đôi mắt như khuất hẳn vào trong, gò má nhô, má hóp lại, ánh lửa vàng soi sáng lập lờ. Nó đã bắt đầu lẩn trốn nó. Nó đang tìm những cái phao tầm thường trên mặt nước đời sống. Hắn lại bắt đầu lì, ngậm câm. Cổ chân trắng, bàn chân đong đưa. Đùi lẳn căng trong lần vải mỏng, khuôn mặt nghiêng bình thản, những lông tơ ánh lên trên mép viền, những sợi tóc lóng lánh ánh vàng. Nền tường xanh. Tấm ảnh vợ chồng Đức cười khoác tay nhau ngày cưới. Chiếc tủ kính. Con búp bê mặc áo đỏ giơ tay về phía trước. Mong ước của họ. Còn tôi? Đây không phải nhà tôi, đây không phải nơi tôi đã sống, tôi không có liên hệ, cái ghế này tôi đã ngồi, cái đi văng kia tôi đã ngả lưng, đã ngồi đó ăn cơm. Thạc, Lực, Quảng và Thăng cũng đã ngồi ở đó. Thăng sẽ không bao giờ ngồi ở đây nữa. Không bao giờ nhìn thấy cái tủ, con búp bê, cái bàn, bức hình, không bao giờ...

Tôi không muốn như nó. Không có chuyện gì để nói nữa sao. Chừng như thế. Mỗi lúc chúng tối một ít chuyện. Sống thêm nhiều, nghĩ nhiều nhưng chúng tôi giấu nhẹm đi, cất kỹ và bao phủ bằng những gì chẳng liên can đến đời sống. Sao mình không về cái chuồng ngựa của Lực mà văng tục la lối rồi thiếp đi. Tôi muốn trở về trong căn nhà đất thấp tối ẩm mốc với ghế vải, mùng chăn hôi nồng mồ hồi nhưng thân thuộc. Những người bạn, bầu trời rộng bao la và tiếng súng trong đêm tối... Ở đấy tôi yên tâm để quăng mình vào lửa đạn, để yên tâm ngủ đi không những vơ vẩn vô ích... Phải thế không mày. Mà vẫn chưa đủ nản lòng, Mày còn đủ sức văng tục; la lối, nhậu nhẹt, bàn chuyện vá trời một cách ngông cuồng cùng với lòng kiêu ngạo bỏng cháy? Nào tôi muốn thế...

Nó lại bắt đầu chán nản rồi đó, hay nó đang mơ mộng. Ở nó là những gì trái ngược nhau. Nhiều lúc tôi không hiểu gì về nó. Nhưng có lúc tôi truy tìm thì tôi lại thấy nó cũng như tôi, cũng như mọi người bình thường. Nhưng cũng có lúc tôi thấy nó vượt lên, thoát ra. Những vượt lên, thoát ra mong ước thực hiện nhưng đồng thời tôi cũng biết tôi không làm được vì thế này, thế khác. Người vợ và đứa con sẽ ra đời. Cái bàn rộng ghi số, cái ghế ghi số, tấm bảng tên để trên bàn, cái gạt tàn thuốc, đinh gút, cặp giấy, những cái bìa xanh, đỏ, vàng... mỗi buổi sáng một ly nước trà nóng có nắp đậy để trên bàn. Những tờ trình, những công văn đến, đi, những con số... chiếc quạt quay vù vù trên đầu, hai ngọn đèn bật suốt ngày. Điện thoại đen tiếng chuông reo mỗi lúc, mỗi tháng ký số lương, lĩnh tiền ký nữa, những thông cáo cứu trợ nạn lụt, thông báo một nhân viên vừa quá vãng đóng tiền phúng điếu, cử người đi đưa... buổi sáng thứ hai chào cờ, buổi chiểu thứ sáu nhắc nhở nhau: mai thứ bảy, hết tuần... rồi lại thế... Nếu nó phải sống như thế, nếu nó ngồi trên chiếc ghế ấy, nếu nó có vợ có con... Tôi không hiểu được. Mày thế mà khôn.. mày được hoãn đến bao giờ, tao mong lúc đó bọn nó hết đánh nhau rồi... mày khôn... Tôi không muốn khôn, nhưng biết thế nào là khôn. Khôn mà được sao? Khi một, hay hai, hay ba đứa con ra đời, lúc đó chiến tranh chưa đứt, mình nhập ngũ, lúc ấy... tôi không muốn nghĩ đến điều đó... Mỗi đêm, khi vào màn, tắt đèn nhắm mắt, tôi mơ ước sáng sau thức dậy nghe tin hòa bình như một phép lạ, điều ấy chưa đến. Thằng Ngưỡng còn lên chức, còn thêm nhiều huy chương và thằng Thạc nữa chưa chừng thêm tôi và Quảng tái ngũ. Còn thằng Lực. Cái con gà chết đó chắc nó còn sống để cười cợt, nhưng còn lại mình nó, còn lại bên nó những người bệnh hoạn, tàn tật, giống cái, già cả... cuộc sống buồn bã đó tôi không mong ước. Chín cô con gái vuốt râu ông già... Lực cười khoái chí. Lúc đó chỉ còn toàn những giống cái. Tao dự định mở một Công ty buôn đàn ông, tao đọc báo nghe có thằng nó đã nói chuyện dự tri đó. Nhất định là phải thiếu đàn ông, nhiều ít gì còn tùy, và đàn bà con gái thì nhiều, lúc đó không có chuyện cưới vợ nữa, mà chỉ có chuyện cưới chồng. Mỹ nhân tự cổ như danh tướng. Mỹ nhân phải là giống đực... Đổi đời, đổi kiếp hết trơn mà, Đàn ông lúc đó già, xấu, cụt chân, cụt tay gì cũng có giá hết. Tao còn đủ hết, yếu một chút không sao... Tới lúc đó nếu mình còn sống? Cơn ác mộng có quên đi, có thoát khỏi những người được sống sót. Cuộc chiến nào nửa thế kỷ? Tôi không muốn như thế... Sao nó không vùi đầu trong một căn nhà tối tăm, cô gái lạ, như bao nhiêu đêm cũ? Lần trước, khi ra đi; những bông lông trong đầu, thời vừa lớn những mộng tưởng, nó đã nghĩ được nhiều điều kỳ lạ, nó thấy nó to lớn, nhưng rồi nó lại không dứt được cái thực tế. Giọng nhạt thoáng nó nói, đến bọn mình thì chẳng được chọn gì ngoài cái chết. Nó nhập ngũ và sống. Nó không muốn bàn cãi. Chạy trốn mơ mộng, lẩn tránh ước vọng và khỏa lấp mình. Tay nó khoa khoa như khoa xuống mặt nước làm mất dấu vết những tăm và bọt. Nhiều lúc như nó nói với nó giữa khi nó nói với người khác, nó thầm thì vỗ về nó lãng quên... Đức dựa lưng vào tường:

– Hết say chưa?

Ngưỡng nhếch mép nhìn lên:

– Uống nữa hả?

– Thôi đi, cậu thì phải bỏ vào trong một cái bể la de vừa uống vừa tắm mới đã. Thịt cậu bây giờ nếu ăn thì người ta cũng đủ say không cần phải uống rượu nữa.

Thảo bật cười thành tiếng, Ngưỡng và Đức cũng cười theo.

– Phải vậy không Thảo?

– Anh Đức nói nghe mà thấy ghê.

Ngưỡng dụi dụi mẩu thuốc cho tắt trong cái gạt tàn bằng thủy tinh để trên chiếc bàn nhỏ.

– Cậu làm ta như một thằng nghiện ngập bê bối quá lắm. Để cho người ta còn lấy vợ chứ.

Đức cười dễ dàng, Thảo ngồi yên. Có lẽ mình cũng là một thứ bê bối. Ngưỡng đứng lên:

– Mưa lạnh thế này mà được uống một ly cà phê thì tuyệt biết mấy.

– Không muốn ngủ à.

– Chưa thấy buồn ngủ. Mấy hôm ở trên Di Linh ngủ li bì, về đây mất ngủ.

– Mình hôm nay cũng mất ngủ. Tại nhậu nặng bụng quá, có lẽ làm một ly cà phê mà hay đấy. Cà phê còn. Để pha một phin uống chơi. – Đức quay nhìn Thảo:

– Còn nước sôi không em?

– Trong phích còn nước sôi, em mới nấu.

Thảo đứng lên:

– Để em pha cho, các anh uống sữa không?

– Anh uống sữa. Còn cậu? Thôi cũng sữa đi, uống đen nặng lắm. Lâu mình cũng không uống cà phê.

Thảo thu mấy cuốn sách trên bàn bỏ vào cặp rồi đi vào nhà trong. Ngưỡng với cái gối nằm xuống đi văng. Đức thu mình ngồi gọn vào một góc.

Ngọn đèn vàng sáng lên trong nhà bếp. Chị tôi đã không mấy bằng lòng khi nhìn anh tôi bỏ cà phê vào chiếc lọ, chị nói uống nhiều hại người, đau gan, em đã mua ca cao cho anh uống sữa buổi sáng rồi. Anh tôi cười cười khỏa lấp, ba bốn năm anh ngày nào cũng hai phin cà phê mà chết chóc gì đâu, mua về thỉnh thoảng thích uống một ly chứ nghiện ngập gì. Tôi đã thấy sự chừng mực trong cách sống của anh. Chị tôi có vẻ hài lòng thấy anh ít đi chơi, hút ít thuốc, gần như bỏ cà phê. Tôi nghĩ chị đã hài lòng có một người chồng tốt, lo làm ăn thu vén gia đình. Anh mỗi sáng thức dậy cùng với người vợ, anh lo sửa soạn đi làm, chị lo nấu nước pha sữa cho chồng. Hai người sống như một cái đồng hồ. Cũng vì thế tôi bị uốn nắn theo. Nhưng tôi thấy anh tôi quá an phận. Đời sống công chức, làm một người chồng tốt khiến anh đã tự hạn chế những hành động của một người đàn ông... Mùi cà phê dễ chịu quá. Tôi phải pha một ly cà phê thật ngon. Chắc Ngưỡng sẽ hài lòng và mong muốn được uống một ly cà phê do tôi pha. Đôi mắt như đốt lửa. Khuôn mặt lầm lỳ cùng với vẻ đùa nghịch kiêu hãnh. Bước đi, cách ngồi, nụ cười, vẻ tự tin thật dễ ghét nhưng rất đáng yêu. Ngưỡng hơn tuổi anh tôi nhưng trẻ hơn, mạnh hơn, trong sáng hơn. Cái vẻ đàn ông đó có một cái gì kỳ bí cuốn hút. Có phải đó là điều khiến tôi chú ý tới chàng. Tôi đã mười bảy tuổi, tuổi những đứa bạn tôi nói về người yêu, bạn trai, những hò hẹn, dạ hội, thời trang, vải vóc. Tôi có những ý nghĩ khác. Tôi không thích những cậu trẻ choai choai, óng chuốt, mặt non, ồn ào. Chừng như tôi đã lớn trước tuổi. Tôi có một đứa bạn, người yêu của nó mới chết ngoài mặt trận. Tôi nghe Hà nổi mà tôi khóc lúc nào không biết. Sao tôi dễ chảy nước mắt quá. Tôi muốn được lái máy bay. Chị tôi nói tôi lãng mạn... Tôi nói còn chị, chị cười âu yếm, không nói, bây giờ chị tôi đã không còn là chị tôi với mối tình đầu không thành. Bây giờ chị là một người vợ hiền, thu vén và gây dựng cho một tồ ấm... Có phải rồi tôi cũng thế. Chà mùi cà phê mới thơm làm sao, hơi ngào ngạt dễ chịu. Đêm nay mưa lạnh sẽ ngủ ngon. Tôi có thẻ là người yêu của chàng không? Tôi bé nhỏ và trẻ con quá phải không. Chàng có để ý đến tôi không. Chàng, cái tiếng này nghe không thân mật, gần gũi nhưng êm đềm và thơ mộng, chàng hoàng tử và nàng công chúa trong những truyện thần tiên, trong những tiêu thuyết. Tôi thích tiếng đó. Tiếng anh dễ dàng và bình thường quá. Anh có yêu em không. Chắc rồi tôi phải nói như thế. Có lẽ tôi lãng mạn thật. Tôi mơ mộng quá, chàng không đề ý đến tôi, tối biết vậy. Dòng sữa trắng, sữa cao dần trong đáy ly trong suốt... Sao tôi không nghe chàng nói gì về gia đình. Trong câu chuyện giữa những bạn của chàng tôi chỉ thấy những gì lạ lùng của cuộc sống, chuyện gian nan ngoài mặt trận, chuyện khôi hài, những cười đùa, chuyện nhậu nhẹt... Tiếng cười khác lạ nhiều khi như giữ lại trong cổ họng. Chàng hiện ra hung bạo, tàn nhẫn, gớm ghiếc nhưng hiền lành, trầm tĩnh, đằm thắm ngọt ngào. Tôi say đắm vẻ kỳ lạ khỏe mạnh đó. Chàng đã sống làm một người đàn ông... Lần nào cũng như lần nào, bước chân vào tới cửa, nhìn thấy tôi là chàng mở lớn mắt, nhìn thẳng và câu hỏi, sao, hồi này em thế nào, câu hỏi hỏi để chẳng hỏi gì, tiếp theo là nụ cười thân mật, em vẫn như thường, còn anh; anh à, vẫn như thường, rồi chàng cười thành tiếng. Một lần độc nhất, hồi đó đã lâu chàng ở bệnh viện ra, chàng tới khi anh chị tôi vắng nhà; đó là lần tôi nói chuyện với chàng nhiều nhất, chàng kể lại chuyện trận đánh khiến chàng bị thương, viên đạn chừng như có mắt, nó chạy từ sau lưng vào bụng rồi nằm nơi lớp mỡ bụng không chịu ra, thế mà không vào tim, gan, ruột gì cả, nếu không thì chết rồi, chàng tự nhiên vạch áo cho nhìn vết mổ đã khâu lại, nó có hình dáng của một con giun nằm trên da bụng, thoát chết, trong nụ cười tôi đã nhận ra vẻ bùi ngùi và buồn rầu thoáng trên khuôn mặt, chàng hỏi tôi chuyện học hành, những sở thích, giọng chàng ấm, trầm, đứng đắn nhưng hồn nhiên. Tôi đã nhìn ra một khía cạnh khác về chàng, sau đó ít lâu chàng gửi từ Bến Tre về cho chị tôi và tôi một ít lụa Ba Tri đủ may hai cái áo dài. Chàng viết thư cho anh tôi kề về thứ lụa đặc biệt đó. Màu mỡ gà óng ả đã làm tôi yêu thích cái áo ấy. Tôi nghĩ chàng đã giấu giếm ý tưởng trong cách gửi vải cho chị tôi và tôi. Chắc chàng chỉ nghĩ tới tôi khi chàng làm vậy. Bây giờ tôi vẫn thấy chàng như những ngày mới biết dù chàng già giặn, trầm tĩnh hơn...

Thảo lau hai cái muỗng bỏ vào hai chiếc ly, san cà phê vào hai ly sữa khuấy đều rồi mang lên để nơi chiếc bàn nhỏ. Tôi nghĩ chàng hài lòng.... Ngưỡng nhỏm dậy:

– Cảm ơn cô em quá..

Ngưỡng với lấy một ly đưa cho Đức, bưng ly cho mình. Ngưỡng khuấy nhè nhẹ. Đã lâu tôi mới uống cà phê. Ngưỡng nhìn Thảo:

– Em chưa đi ngủ sao? Thức khuya hại người lắm nghe.

– Mới gần mười hai giờ mà anh. Em học buổi chiểu mà đâu có lo dậy trễ, em cũng ngủ đây chứ. Giờ này các anh còn uống cà phê thì thức đến sáng.

Thảo cầm cặp bỏ lên tủ sách rồi đi vào. Con nhỏ có vẻ chịu hắn. Nó cũng lớn rồi còn gì. Đức lấy điếu thuốc, mồi lửa và hút một hơi đầy khoái trá. Ngưỡng ngồi xuống ghế mây. Một người vợ săn sóc cho mình. Chỉ có thể là một người vợ. Mẹ tôi thường nói đến mong ước đó.

Cơn mưa vẫn đổ xuống mái ngói, tiếng mưa đều đều vẳng xa, Ngưỡng nghe thấy tiếng súng đại bác nổ. Khu xóm đã không còn tiếng động. Giấc ngủ êm đềm và những mộng tưởng trong yên hàn... Ngoài xa, trong những cánh đồng mông mênh bóng đêm đặc quánh, giữa những đọt dừa được tua tủa kín bưng như rừng mũi mác nhọn đen, giữa những rừng cây bí hiểm lạnh giá tê buốt da thịt, tôi nhớ lại những đêm đạn lửa xé rách nền đêm đen sâu... những giấc ngủ chập chờn lo âu. Vị cà phê lưu luyến trong miệng. Đức đứng lên bật ngọn đèn để trên mặt bàn, tắt ngọn đèn lớn. Ánh sáng mờ nhạt như sương phủ trong thành phố Đà Lạt mùa Giáng Sinh màn sương đục hơi tím bởi những ánh đèn màu. Giọng Đức nhỏ nhẹ:

– Cậu có nhận thấy thằng Quảng hồi này nó thế nào ấy không. Từ hồi nó giải ngũ ra đến nay mình thấy nó thế nào ấy.

Ngưỡng co hai chân lên ghế đập những con muỗi đang như bám sát lấy chân. Nó thế nào ấy, tôi cũng nhận thấy thế. Những gì trong mấy năm trời đã qua? Câu chuyện bắn chết người mà nó cười cười kể lại với tôi. Thân hình mảnh dẻ, trán nhô, tóc thưa, nước da nhạt tái, má hóp nhỏ, cái nhìn ngập ngừng, nụ cười buồn rầu, đôi môi nhợt nhạt trễ biếng vẻ chua chát nặng nhọc, căn nhà tối tăm tôi đã bước vào... Ngưỡng thở khói thuốc lên cao:

– Chắc nó có chuyện buồn. Tôi mà biết được nó. Cậu có nghĩ là nó đã có ý định tự tử không.

– Ý định tự tử, nó nói với mọi người là nó say la de, ngang qua cầu choáng váng rồi hụt chân. Lực nó nói chắc nó bị một xúc động và chỉ có hành động ấy vì xúc động. Nó thì nó cứ cười cười như rỡn chơi. Hồi này nó ít muốn gặp ai. Bạn bè dù có thân cũng đến độ nào thôi. Đấy cậu coi, nó nói nó thất tình ai mà tin. Mình chưa bao giờ nghe nó nói, về đàn bà hay chuyện tình ái gì hết. Chưa ai thấy nó đi chơi với một cô gái nào... Nó giấu, nó có bao giờ tâm sự với bọn mình về chuyện gì đâu. Hồi xưa thỉnh thoảng nó còn nói một tí chút, sau này tuyệt nhiên, nó chỉ nghe, làm như nó chẳng có điều gì để nói... nhiều lúc mình nghĩ và muốn giúp đỡ nó, nhưng nó thì như lúc nào cũng cố gắng để tránh...

Đức bỏ chiếc ly không ra bàn, tiếng chiếc muỗng va vào thành ly gây tiếng động. Giọng Đức lo âu:

– Trông điệu nó mình có cảm tưởng nó đang chán, lúc nó quẩn nó dám liều lắm.

Ngưỡng đứng dậy, lên đi văng:

– Cho mình cái màn đi. Thôi ngủ. Mặc nó. Mình cũng nản lắm. Nếu tự tử được...

o O o

Dòng sông nước đen chảy xiết. Thành cầu cao. Con phố hút dưới nhỏ bé. Sân thượng chênh vênh. Gói thuốc và ly nước chiêu khỏi cổ. Chiếc thùng trên cây. Chiếc ghế bắc lên. Lưỡi lam, cườm tay xanh gầy....

Thằng cha mặc quần áo đen, gầy cao, đi dần lại phía tôi. Muốn gây sự gì đây cha. Sao vắng tanh thế này. Hắn cầm mũ đội lên đầu trông oai vệ lạ. Ê coi chừng mấy thằng cha đội mũ nghe. Bảo đợi mình mà nó đi đâu mất tiêu. Tôi nói thực với anh, anh đừng say, say không giúp anh được gì hết. Đằng nào anh cũng phải đối diện. Hắn gúc gúc cái đầu chi vậy. Muốn gì thì nói đi, đâu mình hẹn gặp hắn. Anh thấy đó, cũng như anh tôi phải chấp nhận vậy, biết làm sao khác... Người ta có lúc đã cho tôi giấy ban khen là một người gương mẫu. Thật thì không đâu. Gương mẫu là gì?

Chẳng qua tôi điều độ, khôn ngoan thu xếp cho mình. Chừng như anh cũng như tôi, bọn mình nhiều mặc cảm quá. Mặc cảm có tội, mặc cảm hèn nhát, mặc cảm vô danh... Có lẽ bọn nó cũng thế, bọn nó lừa nó mà sống vậy thôi. U mê đi một chút, thủ đoạn gian lận đi một chút, lừa mình đi một chút... mỗi thứ một chút hèn hạ anh sẽ như bọn nó. Nhưng nói vậy thôi chứ không cần lắm đâu. Chẳng cần. Mình cứ sống như mình nghĩ… như mình đã chọn. Nhìn lại những năm đã qua, anh thấy chưa, mười, hai mươi năm thôi có khác chỉ một màn hát. Nếu đứng lùi ra xa được, nhìn cuộc sống này, anh sẽ thấy mọi điều có nghĩa lý gì. Thế mà ở trong cuộc, ở trong cái bị cói này thì mình hục hặc... Nếu mình phân thân ra được, ngắm mình bon chen trong cuộc, chắc là mình phải thương hại, tội nghiệp cho mình ghê lắm. Nó quên hẹn với mình sao. Thằng cha áo đen đâu mất rồi. Người ta đi đâu mà đông, mà vội vàng làm vậy. Lẹ lên cha. Sao lại đẩy tôi đi vậy. Tới đâu đó. Mau lên. Tôi không đi. Ở đây không ai được chống lại. Ở đây chỉ có mệnh lệnh. Không. Vậy thì đứng sang bên. Cái gì ở phía trước đó. Đến thì biết. Sự thực trả lời. Người ta đủ hết tới đó cả sao? Không còn ai nữa sao? Cả nó nữa. Đây là đâu vậy? Đây là đâu vậy, nói cho tôi nghe đi. Nói cho tôi biết. Sao im lặng vậy. Đây là thế giới nào vậy? Một vùng đất khô mông mênh là thế giới nào vậy? Ở đây không có sự sống sao? Cây cỏ, thú vật... Đây không phải là nơi của người sao? Người sau chót trong đám đông tràn qua mất hút. Có gì ở phía đó, có gì đợi họ ở nơi họ đi tới đó? Tôi phải tới đó. Có lẽ nó cũng đã tới đó. Gió thổi ào ào cùng cát bỏng, bầu trời sao hẹp lại vậy. Vùng mông mênh đã biến đâu mất. Sao lại là một đường hầm?... Tôi đã lạc tới đâu. Tiếng rì rào nào vậy? Ai nói, ai gọi, ai kêu, ai hát đó vậy? Dòng sông nào đây với màu nước đen. Đây là sự thực người ta trả lời đó sao. Người ta đã kéo nhau tới đây đó sao? Họ đã tới để biến đi đó sao? Còn ai đó không? Tôi là kẻ cuối cùng đó sao? Tôi không mong muốn. Tôi không muốn là kẻ cuối cùng, kẻ độc nhất sống sót sau cuộc chiến... Tôi phải làm sao đây? Tôi không biết nữa. Tôi không biết nữa. Mày hãy nhảy xuống. Không. Tao vứt mày xuống. Không. Mày không được chọn. Tôi kháng cự. Vô ích, mày phải như mọi người. Không. Mày không thoát được, không có lối đi khỏi, không có con đường nào khác, mày không bao giờ thoát được... Mày không thoát được, mày không thoát được, mày không chạy đi đâu thoát được...

– Giãy chết sao vậy mày?

Thạc đứng dậy, Lực lay trên vai càu nhàu:

– Mẹ uống cho nhiều vào, đừng chết ra đây tao mất công vứt vào sọt rác.

– Mày mang tao về chuồng ngựa hả?

– Chuồng chó. Chuồng ngựa ở ngoài kia, bọn ngựa nó đâu chứa mày. Mê với sảng làm mất ngủ. Cái gì vậy.

– Bọn nó định vứt tao xuống sông.

– Thế mà la trời. Cho bọn nó vứt có được không, chết chóc mẹ gì mà la.

Thạc ngồi dậy, ra khỏi màn, mở cửa, ánh sáng ùa vào gian phòng nhỏ:

– Sáng banh rồi.

– Thì ăn nhằm gì. Sáng mà ngủ không được sao?

Thạc đứng nơi cửa ngó suốt lối đi chia hai căn nhà rộng chạy dài, một đầu đi vào phía sân cỏ phía trong, một đầu là lối đi bọc ven với hàng rào cây. Dãy tường gạch xây lửng, phía bên kia là khu chuồng ngựa. Ánh nắng chan hòa phía sân cỏ tươi mát rực rỡ, những ngọn cây phía ngoài đó, mấy chiếc cột sơn trắng nổi bật đó là vòng thành của khu vườn cỏ thuộc khu câu lạc bộ của hội Kỵ Mã, đó là bãi tập ngựa của những hội viên. Một ông già lúi húi quét trên lối đi. Dù sao nó cũng có công việc để làm, có tiền để sống, có một cái chuồng mà ngả lưng…

Tôi chưa bao giờ nghe nó nói gì về gia đình nó. Chừng như nó là một đứa con hoang, được một kẻ nào đó nuôi nó và cho nó theo nghề nuôi ngựa. Có một lần nó rủ tôi vào trường đua, hắn cũng đánh cá với số tiền nhỏ nhoi của nó và được một ít tiền. Đáng lẽ tao cũng là một thằng dô kề. Làm dô kề kể cũng khoái, mày thấy những thăng dô kề có khoái không. Cả một sự bịp bợm đó nghe… xưa kia cha nuôi tao đã làm nghề đó, ngựa cha nuôi tao về ngược, bị đánh đổ máu mũi, ba tháng nằm nhà thương thí, khi ra bỏ nghề, mua một cái xe thổ mộ, một con ngựa già...

Tao khoái ngựa. Tôi không hiểu những điều nó nói có đúng không. Có điều tôi không thấy nó có một liên lạc gì với ai, nó thích tha thẩn với bầy ngựa, thích vào trường đua sống cái không khí ồn ào ăn thua, la thét và chờ đợi hy vọng nơi những con ngựa sải bước trên vòng đua. Hôm nào tao sẽ giàu lớn cho coi. Tao thích đánh bạc thật lớn. Nó an phận nhưng mơ mộng. Một hôm nào nó trúng cá ngựa một lần. Tao sẽ làm một chủ ngựa đua, tao sẽ kiếm những giống ngựa thật tốt, nuôi ngựa thiệt hay. Ngựa bây giờ tồi quá, xí quá. Tao khoái ngựa hơn khoái đàn bà. Tiếng cười khả ố ngạo mạn của thằng gà chết.

Thạc đi ra phía hàng rào. Ngoài đường lộ xe cộ chạy rầm rập thấp thoáng ngoài những khu lá cây. Căn nhà này có lẽ đã được xây cất hàng trăm năm. Những cột gỗ lớn vuông, những tường đá lớn, thềm cao, mái ngói thấp nhọn chắc từ hồi thực dân nó mới sang chưa chừng. Nhà nuôi ngựa đẹp như một công thự. Sao nó không bỏ cái đàn ngựa này đi mà làm một cái trường học. Nuôi ngựa để cho bọn trưởng giả, bọn ngoại nhân tập cưỡi. Bố cái bọn thị thành nhiều tiền. Bố cái bọn dân Tây, sao không hốt cha nó hết đi. Bọn cha–căng–chú–kiết ở đâu, có khi là một bọn cu ly ở bên chính quốc, thế mà nó sang đây chiếm đất, mộ phu, làm nhà, thu của, cai trị mình... và mình thì rúc vào cái chuồng ngựa của nó mà ngủ.

Tôi quên sao được những chuyến hành quân ngang qua những khu đồn điền ngút ngàn, tôi quên sao được khi bước chân vào những khu trại nhà cửa cao lớn, những tiện nghi, cuộc sống phè phỡn của những thằng Tây già, bên đó hàng ngàn những dân phu cuộc sống tăm tối, những căn nhà ẩm ướt hôi hám, những sân vườn cỏ dại, nước đọng... Bọn nó còn nộp thuế cho giặc nữa... Sao vậy được nhỉ, bọn nó còn quyền gì ở đây nữa nhỉ...

Phải đái một cái. Còn một ngày hôm nay nữa. Mai tôi lại trở lại đơn vị, những gian nan chờ đợi..

Lực xách chiếc thùng thiếc đi ra:

– Gì mà như ngựa vậy. Có cần ta tắm cho không. Chờ ta dọn dẹp chút rồi đi uống cà phê. Vào mà rửa mặt.

Lực đi vào mở cửa chuồng ngựa, đi soát một lượt rồi chui vào dồn ngựa ra phía sân cỏ, cột vào những cái cột rồi bắt đầu quét dọn. Thạc đứng, ngắm nó mở nước cầm chiếc vòi xối trên nền gạch rồi quét. Làm ngựa vậy mà sướng, mình đây đâu có kẻ hầu. Ông già Thiệt đi ra ngó vào nhìn Lực:

– Sao hôm nay dậy muộn vậy. Sếp tới rồi nghe.

Lực ngừng quét nhìn lên:

– Hồi hôm say quá. Sao hôm nay sếp tới sớm vậy tạ. Bê bối gì đâu mà sợ.

– Lão đưa hai con nhỏ tới. Nhớ hai đứa con lão không. Bọn nó nghỉ lễ gì đó mới ở Đà Lạt xuống. Bọn nó mặc đồ soọc trông cái đùi ngon quá.

– Mặc soọc thì ăn thua mẹ gì.

Lực quay nhìn Thạc.

– Mày biết không, có lần tao đã phải giữ ngựa cho một con đầm, nó quên mặc quần lót... Thật xốn con mắt. Tao lại cho nó cưỡi ngựa đực, mà con ngựa mắc dịch hôm đó nó lại cứ thõng cái chân thứ năm xuống mới khổ tao chứ. Mà tao xem con đầm nó có vẻ khoái, nó cứ cho con ngựa lồng lên cho tới lúc nó hất cho ngã lăn xuống.

– Thôi đi, gớm quá mày. Tao không hiểu cái đầu óc mày ra làm sao.

Lão Thiệt cười lớn. Lực phá cười theo rồi lại lúi cúi tiếp tục công việc. Lão Thiệt tì tay lên chấn song miệng phì phèo điếu thuốc.

– Moa đã từng trả thù cho dân tộc đây, moa biết quá mà, bọn đầm nó dê lắm.

Lực ngẩng lên:

– Chuyện hay vậy sao già chưa hề nói cho tôi nghe. Sao, chuyện ra làm sao, cũng ở đây à.

– Lâu rồi, hồi xưa kia, con mẹ ấy nó về Pháp rồi. Con mẹ là vợ một thăng quan hai lê dương, một hôm buổi chiều nó tới đây lấy ngựa tập, nó tập hoài cho tới lúc moa thấy nó cứ ôm chặt lấy lưng ngựa, ngựa thì cứ chạy, moa sợ con nhỏ bị sao đó nên chạy ra níu lấy cương, dắt vào, con mẹ cứ nằm im, mặt đần ra, moa nói gì nó cũng lặng im. Khi vào tới hiên nó mới đưa tay ra, ý nó muốn mình dìu xuống, moa đỡ cho nó xuống, thế là nó dắt moa vào trong cái kho chứa thóc... Từ đó, lâu lâu khi thằng chồng nó đi xa nó lại tới, nhiều khi chẳng tập gì cả, nó uống vài ly rượu trên câu lạc bộ rồi mò xuống, hồi đó moa còn trai trẻ chứ như bây giờ thì ngỏm rồi... Cái thứ đó thì phải cho ngựa mới đã.

Thạc cúi đầu vào cái máy nước, hai tay hấng ấp lên mặt, nước mát làm chàng tỉnh táo. Lực cười:

– Khoái không?

Tiếng ông già đùa cợt:

– Khoái chứ.

– Dọn dẹp xong tôi đi chút đó nghe già. Coi giúp tôi nếu sếp hỏi.

– Không thích hai cặp đùi hả. Chắc phải giữ ngựa cho hai nàng đó nghe. Sếp tới buổi sáng chắc là chuyện đó, sợ chiều đông người.

– Tôi là thằng gà chết mà, ăn thua mẹ gì. Dân tộc mình nhiều mối thù quá, tôi có theo ông mà trả thù cũng chưa ăn thua gì đối với bọn nó. Có khi cha mẹ tôi bọn nó đã giết cũng không chừng.

Thạc vuốt cho những sợi tóc ép về phía sau. Tiếng Lực lạc đi. Lão Thiệt vứt bỏ mẩu thuốc vào một vũng nước. Lực lặng lẽ mở rộng các cửa rồi xách thùng trở vào phòng. Thái độ của nó thay đổi lúc nào cũng đột ngột, đùa vui đó rồi lặng lẽ buồn rầu đó. Nhiều khi tôi thấy nó bất thường một cách lạ lùng. Thằng Ngưỡng, thằng Quảng, thằng Đức giờ này đã dậy chưa. Chắc Đức đã ngồi trong phòng giấy. Ngưỡng lêu bên ngoài phố, Quảng lầm lũi trong căn nhà thiếu ánh sáng. Mỗi đứa một thế giới.

– Đi uống cà phê mày.

Lực quơ tay vuốt đầu, khoác vào chiếc áo cánh. Thạc lau khô mặt, đi giày, cầm mũ nơi tay đi ra. Lực đóng cửa lại.

Lực dừng lại ngoài hiên mua gói thuốc rồi bước vào tiệm cà phê Tàu. Không khí ồn ào, những tiếng tàu gào lên. Lực hỏi ăn không, tao phải ăn hủ tiếu, xót ruột quá, một cái phế nại. Tao cũng vậy. Thạc bỏ mũ xuống bàn nhìn những người chung quanh, một đám đông bằng phẳng.

– Hôm qua còn thằng nào say nữa không?

– Không, gà chết chỉ có mày thôi. Hồi hôm thằng Ngưỡng hẹn về ngủ mà sao không thấy. Có khi nó lao đầu xuống sông rồi.

– Nó đâu có vậy. Mày không lao thì thôi chứ thằng Ngưỡng mà nó lao. Cái thằng Quảng hồi này nó lạ ghê. Không hiểu nó bị chuyện gì?

– Ai biết được nó. Có lẽ tại nó thất nghiệp, kiếm hoài không có việc làm. Nó có gia đình nặng lắm. Hồi nó ở trong lính tao thấy nó đổi tính nhưng rồi đâu vẫn đó. Lúc nào tao cũng thấy nó nhăn nhó. Ấy thế mà một lần tao gặp nó đi với một cô.

– Người thế nào?

– Người Nam, hơn tuổi nó, nó giới thiệu là quen hồi ở dưới Cái Răng.

– Có phải người mập, nước da hơi đen, có rang vàng?

– Phải rồi. Mày có biết à?

– Vậy thì tao biết. Hóa cô nhỏ theo nó tận đây. Hồi tao đổi về Cần Thơ tao gặp nó trong quân lao, tao gặp cô nàng tiếp tế. Tao hỏi nó, nó nói quen. Sau có người nói vì cô nàng mà nó bị ở tù, đâu như một cấp chỉ huy của nó làm bậy, nó nóng mặt mà nổ súng ẩu để cứu cô nàng vì vậy nó ở tù, sau nó được tha vì người ta xét không thể buộc tội cho nó.

– Tức nó là ân nhân của cô nàng.

– Chừng vậy.

Hai tô hủ tiếu, hay ly cà phê sữa. Thạc và Lực cúi ăn lặng lẽ. Mái tóc dài, mặt đầy hơi ngăm đen, chiếc áo bà ba đen, chiếc khăn sọc đỏ, dáng sợ hãi lo âu, đôi mắt mọng sưng, dáng điệu nhà quê. Chân đi đất đứng nép người. Mái tóc dài, chiếc áo dài xanh, người thô, mặt đầy, nước da ngăm đen, dáng đi hấp tấp rụt rè, tiếng nói ngọt mềm. Quảng nói bình thản: cô Tư ở dưới Cái Răng quen hồi mình đóng dưới đó. Ở Cái Răng có món nem tuyệt lắm. Tôi cười với nó rồi đi. Tôi trông nó tội nghiệp sao đó. Chẳng lẽ vì chuyện đó mà hắn thay đổi. Đời sống bẩn lắm mày. Nhiều chuyện đau lòng. Tao đâu nhằm mắt bỏ qua được. Thà chết chứ tao đâu chịu. Tao bị bọn nó hành cũng vì vậy. Cái lưng tao không phải là cao su. Giết người là vô nhân đạo hả. Chưa chắc. Nhiều khi nín lặng còn vô nhân đạo hơn. Có phải vì chuyện đó. Tao đã đi tới những nơi đêm dân ngủ dưới hầm, toàn đàn bà trẻ con và người già. Mạng người ở đó chỉ may rủi bảo vệ. Đêm bọn nó về đẩy đi khênh đạn, đào đường, xung phong, la lối làm bia đỡ đạn, rồi bom đạn đổ xuống...

Vô lý, phải tới đó mới thấy vô lý. Muốn làm một cái gì cho có ích lợi. Bọn mình vẫn nghĩ thế phải không, nhưng rồi tao thấy chỉ sống cho ngay thẳng thôi cũng đã đủ khó, mày chui rúc với bầy ngựa mày không thể hiểu được chuyện đó. Mày có thể nhìn ngựa nó hiếp nhau một cách thản nhiên, nhưng mày có thể thản nhiên nhìn độ hai thằng người đè một con nhỏ ra giữa đồng mà hiếp được không. Nếu mày biết có thể đạn sẽ vào đầu mày, mày có dám can thiệp không? Tất nhiên có thằng sợ mà coi như không thấy, không biết. Tao, tao không làm ngơ được dù tao biết đạn có thể bắn vào đầu tao. Vậy đó. Nó thấy tôi thì mỉm cười, nó hỏi ba gai hả, tôi bảo say sưa bê bối, thực ra tại tôi chửi bới bọn tải thương. Tôi mất trong trận ấy một thằng bạn, có lẽ không phải vì bọn tải thương chậm chạp, nhưng tối buồn bực quá nên chửi tưới hột sen và bị phạt. Tôi và nó đi làm tạp dịch. Cái sân rộng mênh mông. Nó giúi cho tôi bánh ít, thuốc lá và vú sữa. Tôi cười cười bảo: mày hạnh phúc thật, định lấy vợ sao, nó nói không dù có người thương nó. Đến khi gặp cô nàng thì tôi hiểu. Tôi không ngờ sau đó nó còn gặp lại. Nó là một thứ ngựa rừng.....

Uống ngụm cà phê đầu, Lực châm thuốc. Cái tay hơi run. Tao cám ơn mày. Vì mày tao chỉ phải sống với bầy ngựa. Thạc nhìn ra ngoài đường nắng:

– Lần này chắc tao đi lâu mới về. Bây giờ tao phải đi lo mấy việc. Mai đi. Chắc tao không gặp được bọn nó, mày bảo bọn nó, thong thả thư cho tao nghe. Thằng Ngưỡng nó còn phép mà.

Thạc uống cạn ly cà phê giơ tay kêu tính tiền. Lục cầm lấy tay:

– Để đó tao. Mày còn tiền tiêu không?

– Còn. Mới lĩnh lương đây mày. Mày chưa về sao?

– Chưa.

– Thôi tao đi trước nghe. Tao về bà cô chút.

Thạc cầm lấy mũ đứng lên, đưa tay cho Lực bắt. Tôi chẳng bao giờ đi đâu được. Tôi chỉ có bầy ngựa. Thạc bước ra rồi mất vào đám đông…

o O o

Tại sao tôi đã hành động như vậy. Tôi đã hỏi tôi như thế. Tôi không chờ những người khác tra hỏi. Nhưng tôi chẳng trả lời được một cách rõ ràng. Tại sao? Có thể chẳng tại sao. Có thể nhiều, rất nhiều lý do. Lý do tôi thấy đúng nhất: tôi thấy sự thanh thản khi đó. Bầu trời đen phẳng. Những cơn gió đầy hơi nước lạnh mát bao phủ lấy tôi. Thành cầu đen lần vào bóng đêm. Dòng nước sâu tối một vài ánh sáng lay động trên những đợt lay động của một mặt nước. Có lúc tôi nghe tiếng mái chèo khua, tôi nhìn thấy chiếc thuyền nhỏ, một người cử động nhịp nhàng đi ra ngoài ngã ba sông và mất trong đó. Có lúc tiếng nước vỗ vào chân cầu dào dạt. Chừng như ngoài cửa sông có một con tàu lớn đang vào sông. Những cơn gió thoảng nhẹ và đầu điếu thuốc sáng đỏ. Dục tình và sự cuồng bạo cũng đã đốt đỏ một đôi mắt lên như thế soi chiếu tôi. Mày muốn tao bắn mày vỡ sọ phải không? Tao hiếp mẹ mày đó hả. Tôi mỉm

cười.

Sao lúc đó tôi không mỉm cười. Nếu lúc đó tôi bình thản để mỉm cười được. Nắng sáng trong lúc khởi hành. Ánh sáng loang loáng trên những lưỡi lê, trên mái tóc. Những đợt mây là thấp và những cơn mưa ập xuống nhanh chóng, nắng đốt cháy oi bức, hơi nước ngột ngạt mùi cỏ dại và bùn lầy. Mồ hôi ướt trên cổ áo, nơi nách và đầy trên những khuôn mặt đỏ lừ. Khí hậu như một lò lửa kích thích. Đôi chân mỗi lúc một nặng, đôi giày đầy bùn mỗi lúc một vướng víu khó chịu. Tôi lặng lẽ nhìn những vết bùn trơ trên đường cỏ.

Cánh đồng thẳng tắp mênh mông những ngọn cỏ sắc tua tủa có lúc uốn mình như những lượn sóng. Hơi nước lấp lửng. Quá trưa, khi ánh nắng đứng thẳng. Đầu dưới chân chúng tôi mới đến một xóm hẻo lánh. Cha tôi nói: chắc mình chẳng còn nhìn thấy khu vườn nữa. Dưới đó bây giờ không biết ra sao. Tôi đã nghĩ có lẽ đây là nơi tôi đã sinh ra, nơi cha tôi mong ước trở về. Tôi đã đi dưới những lùm cây ăn trái, bên những bức tường đổ, trên những nền nhà cũ. Con kinh nhỏ đầy bông súng... nơi cha tôi mong ước trở về cũng là nơi tôi mong ước được sống. Tôi ngả lưng nằm xuống dưới bóng mát nghe im ắng của một xóm quê. Sao không có một tiếng chim kêu? Những người xưa sống ở đây nay đã tới đâu. Một tiếng đàn gáo, một câu hò vào thời thái bình.

Không còn một dấu vết của sự sống. Không còn lối đi những vết chân để lại. Nắng nghiêng đổ chúng tôi lại tiếp tục ra đi. Không khí oi bức ngột ngạt như sền sệt những hơi nước nặng nhều nhều mồ hôi nồng, Những cử động hạn chế ngại ngùng. Tôi đã nhớ đến chuyến đi hôm nào. Tôi đã nhớ đến đôi mắt đỏ ngầu mà dục tình hun đốt. Cũng có thể tại cái khí hậu đặc sệt đó. Người đàn bà khoảng năm mươi tuổi. Người con gái khoảng hơn hai mươi. Đôi chân bết bùn, đầu búi, chiếc khăn sọc lớn quấn trên đầu, vắt trên vai, quần áo ngắn. Chiếc áo bà ba bó sát lấy thân hình nảy nở, đôi vú cao đứng. Bốn con mắt sợ sệt lo âu. Mẹ, lại liên lạc đây. Bọn bay ham không. Không nghe tiếng trả lời nào. Chỉ có một tiếng cười gằn, ngắn ở đâu đó. Tôi nhớ. Tôi không quên được. Mang con mẹ già này ra ngoài kia. Khoảng cỏ trống, ba lô bỏ xuống, quần áo... mồ hôi trên mặt đỏ lừ. Tiếng van thất thanh. Tiếng vải xé. Tôi ngó lại, súng ngang trên tay. Đôi vú trần. Hãy bỏ cô ấy ra, tôi chết cũng được. Xin... hiểu vậy. Đôi mắt đỏ ngầu cục than hồng. Không khí khô đặc. Tôi đã nhớ điều đó khi đứng trên thành cầu. Lý do của hành động. Chính nghĩa của cuộc chiến. Đức lý của xã hội. Phẩm hạnh của cá nhân. Tám người chứng nhìn tôi san sẻ. Tôi chọn để vào tù một cách yên ổn. Xưa kia khu vườn nhà em liên tiếp những ruộng quít, rồi không có ai trông coi nên hư cả. Anh hai chết hồi ở Tầm Vu. Anh đã ngang chỗ kinh Đất Sét chưa, trước khi tới Đồng Cò để vào Phú Mỹ. Cây cầu sắt bị đánh sập hồi đó. Anh ba đi tập kết bỏ lại hai cháu. Anh Tư vào dân vệ ở Cái Chanh một tối về thăm nhà bị ném lựu đạn chết cùng đứa con trai út bốn tháng khi ngồi ở sân. Hôm đó xuôi ghe bị bắt rồi được thả ra… Khoảng cỏ dại phẳng phiu. Mặt trời trên cao. Không khí oi bức chích vào da thịt. Đôi mắt lo âu sợ hãi. Đôi mắt đỏ lửa. Những tiếng thở dài. Cái nhìn bâng quơ về những chân trời xa phẳng lặng. Những đôi mắt thầm hỏi.

Nếu tôi lặng lẽ chịu đựng như thế cho tới hôm nay, Con ngựa bất kham. Trong xã hội người có lúc tôi muốn là thú vật, gỗ đá. Trong xã hội người nhiều lúc tôi thấy thú dữ nhiều hơn chấu trong gạo xay. Nếu nó đã kháng cự và tôi nhả đạn. Tôi không muốn vậy nhưng nhiều khi tôi hiểu vì sao một người can tội giết người vì nó không thể làm khác. Tôi không phải là thằng hèn. Con đường độc đạo, có lúc tôi mường tượng thấy phía sau tôi mũi súng thẳng sắp nhả đạn. Lời báo cáo: một tai nạn. Nó có thể làm vậy. Nhưng chắc nó cũng biết đăng sau nó, những người khác cũng có thể làm như vậy. Tôi nghĩ nó sẽ hối, nó nhận ra việc nó làm nhưng nó không chịu nhận. Luân lý của những kẻ vô nhân đạo. Tôi sẵn sàng để vào nằm trong quân lao một cách yên tâm... Tôi đã nhớ tới nó. Tôi đã nhớ trong giây phút ấy.

Dòng nước đen, tiếng vỗ dưới chân cầu, nền trời đen phẳng, những cơn gió ẩm ướt vây lấy thân thề, quãng đường dài mệt nhọc tìm kiếm những nguy hiểm giấu mặt. Ban ngày cũng như đêm ngọn đèn không lúc nào tắt trên chiếc kệ bám vào tường nhà. Ba năm liên tiếp không lúc nào cha tôi rời khỏi căn nhà tối tăm đó. Ông nằm trên giường co người giấu mặt vào trong vách, tiếng ông nói nhỏ cho một người nào ở gần nghe tiếng, chừng như ông ngại khua động không khí im lặng vây phủ trong căn nhà ẩm tối. Ông không nói nhưng chừng như đó là một cách nói với chúng tôi, ông cay đắng nghiền ngẫm những thất bại, cơ sở làm ăn khánh kiệt, quê cũ không thể trở về và người vợ lăng loàn quá quắt. Bà hãy nuôi tôi như nuôi một con chó giữ nhà là được rồi, nhưng hãy để cho con chó nó được yên thân. Không phải vì vậy mà ông chỉ có nín thinh, có lúc ông đã vùng dậy khỏi giường, và một lần ông đã cầm chắc lấy trong tay mình con dao lớn đuổi vợ ra đến ngoài đường. Tôi trông thấy ông xanh mướt như một tàu lá rợp nắng, đôi mắt đục lờ, chân tay run rẩy. Ông la lên: tao muốn mày biến khỏi nhà này, chó cũng có lúc thành người được. Ông không coi vợ là người trong nhà nữa, ông coi như bà không có mặt trong nhà. Bốn anh em tôi lặng lẽ sống trong một không khí bí ẩn đen tối không mặt mũi những ý nghĩa nào đó.

Ông bác tôi nói cha mày thất bại vì mẹ mày, tao như cha mày thì mẹ mày chỉ có nước ăn một dao con chó, cái thứ đàn bà... Tôi chỉ được nghe một cách mơ hồ không rõ ràng như thế. Thế giới những người lớn khép lại kín đáo. Nhưng rồi có hôm mẹ tôi bỏ đi thật tình. Bà thu vén lặng lẽ khéo léo như một con mèo khôn ngoan. Chỉ biết một đêm chúng tôi không thấy bà trở về. Sau bữa cơm tối cha tôi đi ra đi vào cho tới khuya, chừng như ông cũng như chúng tôi trông đợi một tiếng gõ cửa, một bước chân khua động ngoài hiên, nhưng cho tới rất khuya, chúng tôi cũng không thấy bà trở về. Cha tôi uống rượu nhiều, chừng như bây giờ ông mới thấy mình đã mất đi một cái gì mà xưa kia ông nghĩ là không cần thiết. Trong đêm hôm đó tôi tin ông không ngủ. Ngọn đèn nhỏ lại bắt đầu cháy không ngừng trên vách nhà, cha tôi lại nằm quay mặt vào tường lặng lẽ để rồi lại thức dậy ra đi. Tôi đã nhớ tới khuôn mặt hốc hác, nước da tái nhợt xanh xao của cha tôi, tôi đã nhớ tới khuôn mặt mệt nhọc nhưng đanh đá của mẹ tôi, và chúng tôi những lo sợ hãi hùng trong cái nhìn, trong cử chỉ, tiếng nói, chừng như chung quanh chúng tôi không lúc nào có được một ánh sáng đích thực của mặt trời, thiên nhiên soi chiếu trên đời sống. Ngọn đèn dầu nhỏ, không khí ẩm ướt là đời sống chúng tôi những âm thầm phủ kín, ẩn giấu đầy đen tối…

Tôi không tìm ra những nguyên do tôi không biết đã sống lên như vậy làm gì. Giữa cha mẹ tôi có một cái gì ngăn cách như thù hận. Mày không phải con tao. Tôi đã rợn người khi nghe cha tôi nói vậy trong một lần, câu nói ấy dành cho đứa em út bảy tuổi của tôi. Mày không phải là con tao. Một lời tức giận hay một sự thật. Tôi không biết. Tôi không muốn biết. Mẹ tôi là một người ngoại tình sao. Tôi cố không tin. Nhưng mẹ tôi đi đâu từ đó. Tôi khăn gói lên đường lãng quên những gì vây bọc chung quanh, những gì tầm thường không đáng gì trong đời sống những người khác, tôi tầm thường với những sự việc như vậy. Tôi không nói những điều đó với những thằng bạn. Những thằng bạn tôi đều có những đời sống có ý nghĩa tôi thì không, tôi tầm thường trong những vụn vặt vô nghĩa chẳng đáng gì. Tôi sống với những gì đến đó. Người ta kéo tôi đến đâu tôi sống vậy. Có lúc tôi nghĩ nếu tôi không sinh làm người tôi cũng vậy mà thôi. Nhập ngũ, đánh giặc, người ta nói tới những bổn phận, tôi vác súng ra trận và bắn như người ta nhắm tôi bắn vậy. Nhưng chắc người ta khác tôi, người ta cầm súng bắn với những mục đích, những mưu toan, mơ ước khác tôi.

Nếu không có trận giặc tôi cũng vậy, có rồi tôi cũng vậy, tôi nghĩ không đâu vào đâu hết, chính ra phải là tôi, chính là tôi một con gà chết, một thằng chết nhát. Có điều những ngày đầu ấy tôi đã thấy tôi khỏe mạnh đổi khác, tôi hung bạo hơn, tôi nghĩ tới cái chết, chính tôi đã nghĩ tới điều đó, điều đó tôi sống khác đi với những ngày cũ, chính điều đó nói với tôi một ý nghĩa khác, tôi buộc phải biết, tôi buộc phải hiểu những lý do tôi cầm súng ra mặt trận, buộc phải chống trả với những họng súng ngắm về phía tôi, buộc tôi không chấp nhận kẻ có đôi mắt đỏ lửa những dục tình hung bạo, buộc tôi lựa chọn với những lẽ phải của lương tâm thôi thúc tôi, nói với tôi.

Tôi đã khôn ra một cách dại dột. Phải, chính thế. Nếu tôi biết như thế, nếu chúng ta biết như thế chúng ta không bao giờ muốn là người hết, là gì cũng được miễn không phải là người trong xã hội lang sói này.

Ước muốn mang theo một phản kháng, phản kháng trong bất lực của thân phận tôi. Làm thế nào được, tôi ngó lên nói với tôi như thế, làm thế nào được. Cái chết như một hung bạo không ngừng đe dọa. Chết rồi không còn gì nữa. Tôi muốn sống.

Từ đầu tôi đã đi tới cây cầu ấy vào buổi tối. Chừng như tôi đã ra khỏi nhà từ buổi sáng, tôi đi lang bang trong thành phố cho tới trưa. Tôi cũng không nhớ rõ tôi đã làm gì cho hết thời gian của một buổi sáng. Điều chắc chắn là tôi đã ngồi ở một quán cà phê ngoài lề đường. Tôi mua một gói thuốc. Tôi kêu một ly cà phê nóng. Tôi cũng ăn một gói xôi. Tôi đã ngồi đó rất lâu nhấp từng chút cà phê và hút liên tiếp những điếu thuốc.

Những người khách thay đổi nhiều lần. Tôi loáng thoáng nghe thấy những câu chuyện trao đổi giữa họ. Có lúc tôi chăm chú nghe một câu chuyện dở dang và góp chuyện, đó là chuyện đi buôn đồ lậu ở Tây Ninh. Tôi nói về con dao bấm của Trung Cộng, và về bình thủy, miên man tôi nói về thứ mìn Mao Trạch Đông. Thằng bạn tôi có một con dao bấm giắt bên người, sau nó đổi sang đơn vị khác tôi không gặp. Hồi ch?