Chương 1 Cuốn sổ tọa độ
Brielle, bang New Jersey, tháng chín năm 1991
CUỘC ĐỜI BILL NAGLE ĐÃ THAY ĐỔI trong một quán bar tồi tàn, khi một ngư dân ngồi kế bên kể về vật bí ẩn anh ta tìm thấy dưới đáy Đại Tây Dương. Có lẽ là khờ dại nhưng người ngư dân hứa sẽ chỉ Nagle cách tìm nó. Hai người hẹn gặp nhau vào hôm sau tại một cầu tàu ọp ẹp dẫn ra con thuyền Seeker (Người tìm kiếm) mà Nagle đóng để phiêu lưu. Tuy vậy, đến giờ hẹn mà không thấy người ngư dân kia. Nagle đi đi lại lại, cẩn thận tránh những tấm ván đã mục. Lênh đênh phần lớn cuộc đời trên Đại Tây Dương, Nagle có thể cảm nhận thời khắc thế giới đảo lộn. Thường thì đó là lúc bão sắp tới hay thuyền gặp sự cố, nhưng cảm giác lần này đến khi người ngư dân kia đưa cho anh một mảnh giấy, trên đó là một chuỗi con số viết tay – manh mối sẽ dẫn anh tới bí ẩn chìm dưới biển kia. Nagle ngóng ra xa: không một bóng người. Những cơn gió mặn thổi qua thị trấn Brielle bên bờ biển, chao nghiêng những con thuyền neo ở bến và mang cả Đại Tây Dương vào mắt Nagle. Khi làn hơi mù đã tản mát, anh lại ngóng tìm. Lần này, anh thấy người ngư dân tiến đến, tay nắm một mảnh giấy vuông nhàu nát. Ông ta tỏ ra bồn chồn. Giống Nagle, ông ta sống trên biển và cũng cảm nhận được khi cuộc đời một con người sắp sang trang.
* * *
Trong những cơn gió đầu thu, Brielle rũ bỏ những hào nhoáng và trở lại thành Brielle đích thực, một người bản xứ. Thị trấn bờ biển nhỏ bé miền trung New Jersey này là nơi sinh sống của thuyền trưởng và ngư dân, nơi những cửa hàng tạp hóa vẫn hoạt động để phục vụ láng giềng, nơi những học trò nhỏ vá lưới vét sò. Đây là nơi mà những kẻ theo đuôi, những kẻ đua đòi, những kẻ thua cuộc, những kẻ hết thời vẫn âm ỉ niềm tin vào biển cả. Brielle, khi vãng khách sẽ hằn lên những tuyến phân chia cư dân, bắt nguồn từ ranh giới mong manh giữa sống nhờ biển và sống đời trôi dạt.
Thuyền Seeker cao sừng sững vượt trên những con thuyền khác neo ở bến Brielle. Nó thu hút sự chú ý không chỉ nhờ chiều dài gần hai chục mét mà còn nhờ vẻ ngoài bôn ba tứ xứ, với bộ vỏ gỗ xây xước và chân vịt sứt mẻ. Sinh ra từ trí tưởng tượng của Nagle, Seeker được đóng với mục đích duy nhất: đưa thợ lặn scuba tới những khu đắm tàu nguy hiểm nhất trong Đại Tây Dương.
Khi đó Nagle 40 tuổi, một người đàn ông mảnh khảnh, rám nắng, cựu nhân viên bán hàng Snap-on Tools xuất sắc nhất năm. Lúc này, nhìn anh đứng chờ người ngư dân trong chiếc áo thun xơ xác và đôi xăng-đan mua lại, với chai Jim Beam đồng hành khiến cử động có phần loạng choạng, chẳng ai có thể đoán anh từng là một nghệ sĩ, thậm chí khá danh tiếng thời kỳ đỉnh cao.
Ở tuổi đôi mươi, Nagle đã là một huyền thoại trong làng lặn thám hiểm, thần đồng của môn thể thao thường xuyên giết chết những người trẻ. Đó là quãng thời gian mà lặn tìm tàu đắm vẫn còn là lãnh địa dành riêng cho dân thám hiểm. Vô số xác tàu, cả những con tàu lừng danh, vẫn mất tích dưới đáy Đại Tây Dương và hành trình săn những xác tàu đó, với lớp vỏ kim loại bẻ cong và lịch sử kỳ thú, khơi lên trong Nagle nhiều mộng tưởng.
Những thợ lặn thám hiểm chưa bao giờ có ý định tìm kho báu ở vùng đông bắc Đại Tây Dương này. Thuyền buồm Tây Ban Nha chất đầy đồng vàng kép3* và đồng bạc tám4* không đắm ở vùng nước này, mà nếu có thì Nagle cũng không quan tâm. Lãnh hải của anh là những tuyến đường biển cập cảng New York và New Jersey – vùng nước dành cho tàu chở hàng, tàu viễn dương, tàu hành khách, tàu chiến, phục vụ sự sinh tồn và phát triển của Hoa Kỳ. Những xác tàu đó thi thoảng sẽ có ít trang sức và gốm sứ, nhưng đó không phải là thứ Nagle và những người như anh tìm kiếm. Họ tìm câu chuyện trong những diện mạo tàu vỡ tựa tranh Modigliani5*, những khoảnh khắc đông cứng lưu giữ ước vọng của một quốc gia, bản năng trước cái chết của một người thuyền trưởng hay tương lai chờ đón một đứa trẻ. Họ cảm thụ những cảnh ấy không phải thông qua nhà giám tuyển, nhà bình luận, nhà sử học nào, vai kề vai với sự sống tại khoảnh khắc sống sót là trên hết.
Và họ lặn để khám phá. Với nhiều con tàu, hình ảnh cuối cùng của chúng nằm lại với chính những người trên đó và sẽ tiếp tục thất lạc, bị thiên nhiên xé nát cho đến khi không còn gì nữa. Trong một thế giới đã đặt chân lên cả Mặt trăng, đáy Đại Tây Dương vẫn là nơi hoang vu và những xác tàu trong lòng nó không ngừng vẫy gọi nhân chứng.
Phải có lá gan thép mới dám làm những gì Nagle từng làm trong thời vàng son của anh. Vào những năm 1970 và 1980, thiết bị lặn scuba còn rất đơn sơ, không tiến bộ là bao so với năm 1943 khi Jacques Cousteau góp phần phát minh ra hệ thống bình khí và bộ điều áp giúp con người thở được dưới nước. Ngay cả ở độ sâu 40 mét, tức giới hạn lặn giải trí do hầu hết các tổ chức huấn luyện lặn scuba đề ra, một sự cố nhỏ về thiết bị có thể lấy đi mạng sống của thợ lặn lão luyện nhất. Trong hành trình tìm kiếm những xác tàu tuyệt nhất, Nagle và những người tiên phong của bộ môn này có thể lặn sâu đến 60 mét hoặc hơn, không khác gì vứt bỏ bản năng sinh lý và cầu xin cái chết.
Chuyện thợ lặn tử vong là thường khi tìm những xác tàu đắm, nó khiến Nagle hứng thú.
Ngay cả khi thiết bị và cơ thể sống sót được trong những tầng sâu của Đại Tây Dương, Nagle vẫn phải đối mặt với vô thiên lủng khác, cái nào cũng đủ để giết anh. Trước hết đây là một bộ môn mới; không có bài học đời xưa, tức thứ kinh nghiệm tập thể mà ngày nay cứu sống biết bao thợ lặn. Những tấm gương tày liếp, những bài học sống còn mà ngày nay chúng ta có được qua sách báo, học hành hay khi chè chén với bạn hữu, Nagle phải học ở những độ sâu phi nhân tính. Nếu phải rơi vào những hoàn cảnh khủng khiếp, điên rồ (mà đâu có thiếu nơi tàu đắm), khả năng cao Nagle là người đầu tiên sống sót để mà kể lại. Khi anh và bạn lặn thoát nạn, họ được lên tạp chí.
Nagle dấn sâu hơn. Lặn qua ngưỡng 60 mét, anh bắt đầu làm những việc mà giới khoa học chưa hiểu hết, tới những nơi các thợ lặn giải trí chưa từng tới. Khi thâm nhập một xác tàu ở độ sâu như vậy, anh thường là người đầu tiên nhìn thấy con tàu kể từ lúc nó đắm, là người đầu tiên mở két của viên quản lý tài vụ từ lần đóng cuối cùng, là người đầu tiên nhìn thấy những thi thể mất tích. Nhưng việc này đồng nghĩa Nagle phải tự thân vận động. Không thợ lặn nào trước đó chỉ dẫn cho anh. Nếu có người từng tới những xác tàu ấy, anh ta có thể nói với Nagle: “Đừng bơi gần thanh rầm ngoài bếp tàu. Lúc tôi bơi qua thì nó xê dịch và cả đống có thể sập xuống chôn sống mình.” Nhưng Nagle phải tự học. Thợ lặn thám hiểm nói rằng trườn giữa bóng đêm đen kịt trong mê cung quanh co, ngổn ngang, mỗi phòng là một cái bẫy tiềm tàng với bùn xoáy và nguy cơ sập đổ là một chuyện, mà làm thế nhưng không biết rằng có người từng đi trước mình và sống sót lại là một chuyện khác.
Đáy Đại Tây Dương vẫn là miền hoang dã ở thời của Nagle và những kẻ khám phá nơi đây cần lá gan chẳng kém gì dân khai khẩn miền Tây Hoa Kỳ. Một trải nghiệm xấu trên con tàu đắm là đủ để thuyết phục tất cả chuyển hướng sang những cuộc chơi vừa tầm khác, trừ số kiên gan nhất. Thợ lặn tiên phong như Nagle ngày nào cũng gặp trải nghiệm xấu. Những kẻ chỉ muốn thử nghiệm, ngắm nghía, sẽ sớm bị hất cẳng, chỉ người bám trụ dường như thuộc về một giống loài khác. Thế giới quan của họ nặng về cái hữu hình, ham muốn của họ nổi lên bất thình lình. Họ sẵn sàng rút búa tạ đập cửa sổ thân tàu dù hơi thở nặng nhọc sẽ khiến họ nhanh chóng say nitơ – hiện tượng tích lũy một loại khí tưởng chừng vô hại trong não bộ nhưng có thể gây chết người. Dưới nước, luật sở hữu cũng bị bẻ cong như ánh sáng. Một số thợ lặn cắt túi thợ khác lấy chiến lợi phẩm với tôn chỉ “Ai mang lên mặt nước trước, người đó làm chủ”. Đánh lộn, trên tàu và kể cả dưới nước, là phương thức dàn xếp tranh cãi phổ biến. Người ta bảo vệ chiến lợi phẩm như bảo vệ con đầu lòng, không ngại dùng đến dao rựa. Ở góc độ này, những thợ lặn tiên phong ít nhiều có máu cướp biển.
Nhưng Nagle thì không. Ở giai đoạn mông muội nhất của môn này, Nagle đã là một trí thức. Anh ngấu nghiến tài liệu học thuật, tài liệu tham khảo, tiểu thuyết, bản vẽ và bất kỳ tư liệu nào tìm được về những con tàu trong quá khứ, cho đến khi anh đủ khả năng đứng trên xưởng đóng tàu của cả chục thời kỳ lịch sử và góp tay xây chính những con tàu đó. Anh sành sỏi từng bộ phận của tàu và yêu cái cách những bộ phận rời rạc ấy đan cài với nhau để tạo ra sức sống cho một con tàu. Hiểu biết sâu sắc của Nagle cho anh thị lực kép; anh hiểu cách con tàu sinh ra bao nhiêu thì cũng hiểu cách nó chết bấy nhiêu. Thợ lặn bình thường nhìn xác tàu và thấy một mớ hỗn độn thép cong và gỗ gãy, một loạn âm nào ống nào dây, một chướng ngại che khuất la bàn hoặc những thứ quý giá khác. Họ sẽ gí mũi vào chỗ này chỗ kia và đào bới như cún con, mong tìm được một mảnh xương. Cùng khung cảnh ấy, trong tâm trí Nagle lại hiện lên hình ảnh của một con tàu huy hoàng. Một trong những phát hiện lớn nhất của anh là chiếc còi đồng chạy bằng hơi nước, dài mét hai vốn từng ngự trên cột buồm của con tàu guồng Champion. Điều thú vị nhất là cái còi tuy thật diễm lệ nhưng ở dưới nước trông không khác gì một cái ống tầm thường. Trôi giữa đống đổ nát, Nagle dùng tâm nhãn tái hiện cảnh tàu chìm. Anh biết cấu tạo của nó và khi hình dung đến cảnh nó tan tành, anh thấy chiếc còi chìm xuống ngay chỗ cái ống vô dụng kia đang nằm. Sau khi Nagle thu hồi hai bánh lái từ tàu chở dầu chạy bằng hơi nước Coimbra của Anh trong cùng một ngày (tìm được một chiếc trong cả sự nghiệp đã là khó), ảnh của anh (cùng Lloyd Bridges) được treo trong buồng lái của Sea Hunter – con tàu cho thuê lặn hàng đầu. Năm ấy anh 25 tuổi.
Đối với Nagle, giá trị của những hiện vật như chiếc còi đồng chạy bằng hơi nước không nằm ở thẩm mỹ hay giá tiền mà ở tính biểu tượng. Bạn sẽ lấy làm lạ khi thấy những người đàn ông trưởng thành thèm muốn tách trà, đĩa lót và dựng giá trưng bày sang trọng cho đám di vật xinh xắn đó. Nhưng với thợ lặn như Nagle, những vật trang trí ấy tượng trưng cho tinh thần thám hiểm, khám phá những nơi không có trên bản đồ. Do đó, ở nhà người thợ lặn, chiếc máy điện báo trưng trong phòng khách không đơn thuần là một thứ bóng bẩy, mà còn là một tuyên ngôn nói rằng: Nếu có ai đó tìm thấy buồng lái con tàu này trước chủ nhà thì họ đã chẳng để chiếc máy này lại.
Không sớm thì muộn, bản năng của Nagle dẫn anh tới Andrea Doria, đỉnh Everest của tàu đắm. Năm 1956, du thuyền Italia hùng vĩ này va chạm với tàu chở khách Stockholm của thụy Điển trong màn sương dày đặc ngoài khơi đảo Nantucket. Trước khi nó chìm và nằm nghiêng dưới đáy biển ở độ sâu 76 mét, 51 người đã tử vong và 1.659 người được cứu thoát. Doria không giống những con tàu Nagle thường nhắm đến. Nhiều người biết đến vị trí của nó và từng thăm dò. NhưngDoria không ngừng vẫy gọi những thợ lặn thám hiểm vĩ đại nhất. Sau bao năm, con tàu vẫn chất đầy hiện vật: bộ chén đĩa bằng sứ Ý vẽ logo Italia huyền thoại, dao dĩa bằng bạc, hành lý, gạch lát gốm từ bàn tay của những nghệ sĩ danh tiếng, đĩa kem bằng thiếc, đồ trang sức, biển hiệu. Ở thời của Nagle và cả ngày nay, thợ lặn khám phá Doria chỉ có nỗi lo duy nhất là không đủ sức vác hết chiến lợi phẩm về nhà.
Nếu Doria chỉ có hiện vật, nó đã không quyến rũ Nagle đến thế. Thử thách lớn nhất của con tàu nằm ở khâu thăm dò. Xác tàu nằm nghiêng gây nguy hiểm và rối trí khi thám hiểm. Người lặn phải hình dung thế giới nằm nghiêng mới có thể di chuyển giữa những cửa nằm ở dưới và trần nằm bên phải. Và con tàu nằm rất sâu: 55 mét ở điểm nông nhất và 76 mét ở điểm tiếp xúc đáy biển. Thợ lặn đôi khi mất phương hướng hoặc cạn ôxy hoặc mất trí vì say nitơ và bỏ mạng ở Doria. Xác tàu sâu, tối và nguy hiểm đến mức hàng thập kỷ sau khi nó đắm, vẫn còn những tầng hoàn toàn chưa được khám phá. Những tầng ấy là mục tiêu của Nagle.
Dần dần, Nagle tiến vào những nơi trên tàu trước đây được coi là bất khả thâm nhập. Bệ lò sưởi nhà anh trở thành một bảo tàng nhỏ về Doria. Anh nhanh chóng nhắm tới quả chuông. Chuông tàu là vương miện, là tiếng nói của con tàu. Không có chiến lợi phẩm nào danh giá đối với thợ lặn hơn quả chuông và nhiều thợ lặn lừng danh cả đời không trục vớt được một quả. Nagle quyết mang về chuông của Doria. Người ta cho là anh điên rồ, hàng chục thợ lặn đã tìm suốt 30 năm mà không thấy nó. Không ai tin là nó còn đó.
Nagle bắt tay vào làm việc. Anh nghiên cứu sơ đồ các tầng, sách ảnh, nhật ký đoàn thủy thủ. Sau đó, anh làm một việc mà ít thợ lặn khác làm: lên kế hoạch. Anh sẽ cần nhiều ngày, thậm chí cả tuần để hoàn thành mục tiêu. Song không thuyền nào chấp nhận cho thợ lặn thuê tới chỗ Doria cả tuần. Vì thế Nagle quyết định lấy số tiền dành dụm từ thời bán Snap-on Tools để đầu tư một chiếc thuyền lặn riêng. Đó là con thuyền dựng lên từ trí óc của anh cho mục đích duy nhất: mang chuông của Doria lên.
Seeker nguyên gốc là chiếc Maine Coaster6* dài hơn 10 mét của hãng Henriques đóng ở New Jersey. Năm 1985, Nagle chiêu mộ năm thợ lặn hàng đầu có chung niềm đam mê thám hiểm và dàn xếp như sau: anh sẽ đưa cả nhóm tới chỗ Doria bằng tiền túi. Mục tiêu duy nhất: truy tìm quả chuông tàu.
Mấy ngày đầu ngụp lặn nơi xác tàu, đoàn thợ lặn bám chặt kế hoạch của Nagle. Họ không tìm thấy gì hết. Quả chuông không ở đó. Khi ấy, cả những thợ lặn cứng cỏi nhất cũng sẽ muốn bỏ cuộc. Một ngày ngoài khơi Đại Tây Dương trên chiếc thuyền 20 mét đủ khiến ruột gan lộn nhào, huống hồ đoàn của Nagle đã lênh đênh bốn ngày trên một thứ chẳng khác gì chiếc bồn tắm dài 10 mét. Nhưng người có ước vọng lớn lao không dễ dàng đầu hàng. Nagle bỏ lại mũi tàu, nơi họ dò tìm mấy ngày nay và chuyển hướng sang đuôi tàu. Cả đoàn giờ đây phải tùy cơ ứng biến trên xác tàu nguy hiểm nhất Đại Tây Dương. Chưa ai từng tới đuôi tàu. Song cách tư duy về Doria như một thực thể sống thống nhất thay vì khối rời rạc những gỗ và sắt dài sáu mét cho phép đoàn của Nagle thám hiểm ở những nơi hy hữu nhất.
Ngày thứ năm, họ trúng đậm: kia là quả chuông của tàu Andrea Doria. Đoàn thợ buộc chuông, đập long con lắc chuông bằng búa tạ rồi đưa nó lên mặt nước bằng một túi phao tải trọng lớn. Thắng lợi này làm rúng động cộng đồng lặn. Theo thỏa thuận, một nửa quyền sở hữu quả chuông sẽ thuộc về Nagle và nửa kia thuộc về năm người còn lại. Người còn sống cuối cùng sẽ sở hữu toàn bộ chuông. Nagle đặt quả chuông nặng 68 cân lên chiếc xe van của vợ và nhờ chị chở về nhà. Khi tới nhà thì quả chuông đã biến đâu mất. Vợ Nagle gọi anh và nói: “Em không biết chuyện gì đã xảy với quả chuông!” Nagle suýt lên cơn đau tim. Anh gọi cảnh sát xa lộ hỏi: “Có ai thấy một quả chuông khổng lồ không?” Và đúng là có người đã báo cảnh sát: “Tôi tìm thấy một thứ mà tôi không biết là gì, nhưng trông như một quả chuông lớn và có chữ Andrea Doria.” Nagle lại suýt lên cơn đau tim lần hai. Anh lấy chuông về và mua bảo hiểm 100.000 đô la cho nó. Tên tuổi Nagle giờ đã thuộc hàng bất tử.
Không lâu sau, một ý tưởng mới bắt đầu xâm chiếm tâm trí anh. Nếu cho chiếc Seeker hoạt động toàn thời gian để phục vụ các thợ lặn thì sao? Như thế anh vừa có kế sinh nhai, lại vừa được theo đuổi đam mê. “Tôi muốn biến lặn thành một nghề,” anh nói với bạn bè. Anh có thể chạy năm bảy chuyến tới Doria mỗi năm và dành thời gian rảnh còn lại để thám hiểm các tàu Carolina, Texel, Norness và Pan Pennsylvania – những con tàu vĩ đại đã mất tích hàng chục năm sau khi đắm. Vợ và hai con sống ở Pennsylvania nhưng Nagle đang sống ở Brielle. Anh hẹn hò với những người phụ nữ khác và ở trong căn hộ dành cho người độc thân, nhưng vợ anh vẫn hy vọng ngày nào đó Nagle sẽ quay về và chị dạy hai con biết ngưỡng mộ cha mình, chỉ để anh có thể hiện thực hóa viễn cảnh kinh doanh này. Nagle đặt đóng chiếc Seeker thứ hai, dài gần gấp đôi chiếc đầu tiên. Nó sẽ phù hợp để đưa những tâm hồn tiên phong tới những xác tàu vĩ đại.
Việc kinh doanh của Nagle gặp khó ngay khi khởi đầu. Vấn đề không phải là thiếu khách hàng, mà anh không biết chiều họ. Điều này không được phép xảy ra trong ngành cho thuê thuyền. Trong chuyến lặn, nhiệm vụ của thuyền trưởng là kết thân với khách. Xét cho cùng, những vị khách cuối tuần bình thường chỉ muốn làm thân với người con của biển cả. Nagle cứ nghĩ công việc của mình sẽ là không ngừng chu du tới những xác tàu đắm sâu và đầy hiểm nguy như Doria vàChoapa, nhưng khách của anh chỉ muốn tới những nơi gần và dễ như Stolt Dagali, SS Mohawk và Tolten. Trong mắt Nagle, họ không phải thợ lặn mà chỉ là khách du lịch. Anh nhìn họ leo lên Seeker với những chiếc chân nhái mới toanh màu xanh nõn chuối (xanh nõn chuối đấy!), nghe họ nói về kế hoạch phù phiếm chụp ảnh tôm hùm rồi chạm tay vào thành xác tàu “thứ thiệt” và anh không thể giấu thái độ khinh miệt. Anh bước vào kinh doanh để thỏa khao khát khám phá nhưng lại lệ thuộc vào những con người hào hứng chỉ vì không phải dấn thân.
Và Nagle uống rượu. Jim Beam7* ác cảm với khách của Seeker chẳng kém gì Nagle. Chẳng mấy chốc Nagle trở nên gắt gỏng với khách. Anh thường đứng trên boong, ngoài buồng lái và bình luận liên hồi về đám khách hàng đang cực kỳ sửng sốt. Anh sẽ thét “Đây không phải là lặn!” hoặc “Nhìn đám non nớt này xem… đem đống chân nhái ấy ra biển Caribe!” hoặc “Các cửa hàng đồ lặn dám bán những thiết bị rác rưởi này cho lũ ngây thơ này… bọn lừa đảo!” Cuối hành trình, sau nhiều giờ uống rượu, anh có thể sẽ gắt “Đuổi đám súc vật này khỏi thuyền của tôi!” Bạn bè và đoàn thủy thủ cầu xin Nagle: “Bill, làm ơn đi, anh không thể ăn nói như thế với người trả tiền cho mình. Đây là việc làm ăn cơ mà!” Nagle không quan tâm. Cái họ làm không phải là lặn.
Thói nghiện rượu của anh ngày một trầm trọng. Trong một chuyến đi, Nagle tự ý thay đổi hành trình tới một xác tàu mang nhiều thách thức hơn, nơi đã quyến rũ tâm trí anh, cầu xin anh khám phá. Mục tiêu mới có độ sâu 46 mét, nằm ngoài khả năng của đoàn đi lặn. Người đàn ông đứng ra thuê thuyền nổi điên: “Anh đang làm cái quái gì vậy Bill? Độ sâu trong kế hoạch là 30 mét thôi mà. Người của tôi không xử lý độ sâu này được.” Nagle gầm gừ: “Anh phải dạy họ lặn giảm áp!” và đùng đùng vào buồng lái. Và thế là hết. Nagle đến nơi mà anh muốn đến, anh nào phải tài xế taxi, không phải là thứ rẻ tiền, anh sẽ không bao giờ phản bội tinh thần lặn đích thực. Nhưng khi thập kỷ mới thay thế những năm 1980, kỹ năng lặn siêu đẳng của Nagle đã bị men rượu bào mòn. Bả vai anh gồ lên trên tấm thân hốc hác, nước da vàng vọt và mái tóc xoắn bết. Anh vẫn giữ khả năng bơi tuyệt vời, tương tự cách những ngôi sao bóng chày hết thời vẫn có thể ném bóng đầy duyên dáng trong những trận đấu biểu diễn. Nhưng những thợ lặn dày dạn sẽ nhận thấy những chuyến lặn Doria của anh ngắn dần và anh ngày càng ít khám phá những nơi chưa ai đặt chân tới. “Hừm, tôi phải lấy lại phong độ mới được” anh sẽ làu bàu với vài người bạn thân và họ ngầm hiểu ý anh là “Tôi phải cai rượu thôi.” Năm 1990 là năm cuối cùng Nagle lặn ở Doria. Thách thức một xác tàu như vậy đòi hỏi mọi năng lực phải thi triển ở mức tối đa và những cái chết gần đây ởDoria là minh chứng cho điều đó. Nagle tiếp tục mất khách. Mỗi ngày anh đều kể với số ít ỏi những người anh tôn trọng về những ngày huy hoàng quá vãng, khi vẻ đẹp của lặn biển vẫn còn nguyên vẹn.
Cuộc đời và sự nghiệp của Nagle là thế vào cuối hè năm 1991, khi Brielle đã hết mùa du lịch và trở về với nhịp độ của những khách quen. Nagle dành phần lớn tháng tám để cọ rửa Seeker và ngẫm nghĩ về cuộc đời mình. Một hoàng hôn, anh cuốc bộ dọc bến tàu, qua bãi đậu xe đầy ổ gà, tới một nơi mà Chúa dường như đã dành riêng cho anh. Quán Harbor Inn mở muộn quanh năm. Nơi đó phục vụ Jim Beam và Nagle thì đang thèm được uống.
Không ai nhớ khi nào họ bắt đầu gọi Harbor Inn là Horrible Inn, nhưng lý do thì ai cũng biết. Làn khói thuốc dày đặc lơ lửng phía trên quầy bar làm cả những kẻ nghiện thuốc cũng phải sặc. Mùi toa-lét tự do thoát ra và ám cái bếp nướng nhỏ xíu. Chỗ nào cũng dính dớp. Ngư dân say xỉn nguệch ngoạc tên người tình lên những bức tường nhờn mỡ. Có lần chủ quán quyết định phun nước rửa đi lớp nicotine lưu cữu hàng năm. Một đoàn vệ sinh trang bị tận răng được cử tới. Vòi nước của họ bắn phá vách tường thủng lỗ chỗ.
Nói về khách của quán. Horrible Inn không phục vụ nhiều người, nhưng khách quen của quán cực ngầu và đều là người trong vùng. Dân phượt mô-tô, ngư phủ, du đãng, thợ cơ khí tàu, thợ lặn thám hiểm là những thành phần thường gặp ở Horrible Inn. Những người đàn ông này (ai mà dám đưa phụ nữ đến đây!) không quan tâm đến bi-da và pinball, mà cũng không bận tâm chuyện quán dồn đậu phộng khách trước ăn thừa để phục vụ khách sau. Khách uống bia rượu bằng ly nhựa và dùng luôn những ly đó làm gạt tàn. Đánh lộn là chuyện thường tình. Nagle không bao giờ nhượng bộ trong Horrible Inn. Có lần dân Brielle đồn rằng Nagle bị người phục vụ tống cổ ra ngoài vì hành vi không đứng đắn. Không ai tin chuyện đó. Không phải người ta không tin việc Nagle có những hành vi thiếu đứng đắn, mà không tin có hành vi nào thiếu đứng đắn đến mức bị tống cổ khỏi chỗ đó.
Tối hôm ấy, Nagle ngồi chỗ quen ở quầy bar và gọi một ly Jim Beam. Rồi một ly khác. Nửa tiếng sau, một thuyền trưởng thuyền cá 38 tuổi vận chiếc áo nhem nhuốc lững thững vào quán để trả tiền nhiên liệu. Mọi người đều gọi anh ta là Skeets. Skeets đã ở vùng này nhiều năm và neo thuyền cách Seeker chỉ vài bến đậu. Công việc làm ăn của anh tuy có quy mô nhỏ (thuyền của anh chỉ chở khoảng bốn, năm ngư dân mỗi lần) nhưng vận hành trơn tru. Trong ngành cho thuê thuyền cá thì điều này đồng nghĩa với hai thứ: anh biết chỗ nào có cá và biết lúc nào nên im lặng.
Tìm được cá đương nhiên là điều kiện tiên quyết. Khách thuê thuyền cá sẽ một đi không trở lại nếu bị thuyền trưởng đưa ra hoang mạc. Những người như Skeets phải biết ngửi không khí, nhìn lên trời và nói: “Quý vị thân mến, hôm nay tôi đánh hơi thấy cá ngừ.” Và sau đó, thuyền trưởng phải đưa khách tới đó, tới những vùng nước nho nhỏ được ghi trên đống sổ rách nát cất trong những ngăn kéo dưới cùng của buồng lái. Có lúc, thuyền chỉ cần chạy dọc bãi biển; lúc khác thì đến tận những rãnh đại dương rất xa bờ. Và thường xuyên nhất là tới nơi tàu đắm.
Đối với ngư dân, xác tàu là sự sống. Mớ gỗ thép hỗn độn có thể chôn vùi linh hồn con người nhưng nhanh chóng trở thành những thành phố nhộn nhịp cho những sinh vật biển. Xác tàu là nơi tụ hội đủ các loài trong chuỗi thức ăn. Sinh vật tí hon bám vào các vật cứng, thu hút các loài săn mồi. Những loài này lại thu hút những loài săn chúng và tiếp tục như thế. Con tàu đắm nhanh chóng biến thành một hệ sinh thái. Các loài cá biển khơi như cá ngừ, cá tuyết, cá minh thái tới đó để đánh chén no bụng, còn thuyền trưởng thuyền cá cũng nhờ đó mà no ấm không kém.
Biết giữ im lặng là điều cốt yếu. Tất cả thuyền trưởng thuyền cá thuê đều giữ một danh sách những xác tàu đắm công cộng mà ai cũng biết và được thăm viếng thường xuyên. Nhưng những xác tàu đắm bí mật mới làm nên chuyện và thuyền trưởng sống nhờ bí mật. Trong cả sự nghiệp, những thuyền trưởng như Skeets sẽ tích lũy một danh sách hơn chục xác tàu mà chỉ anh ta và vài người khác biết. Có thể tự phát hiện tàu đắm từ tín hiệu gồ bất thường trên máy đo độ sâu. Có thể được một ngư dân về hưu từng chịu ơn anh ta bật mí. Hoặc có thể trao đổi thông tin với một thuyền trưởng khác mà anh ta tin cậy. Biết càng nhiều xác tàu, thuyền trưởng càng kiếm được nhiều tiền. Biết càng nhiều xác tàu bí mật, càng nhiều khách muốn thuê thuyền.
Thuyền trưởng thuyền cá thuê luôn bảo vệ bí mật về địa điểm đắm tàu. Khách hàng bị cấm mang các thiết bị định vị lên thuyền, thậm chí không được vào buồng lái để không vô tình biết được tọa độ. Nếu thuyền trưởng phát hiện một con thuyền khác trong lúc đang câu, anh ta sẽ nhổ neo, dời vị trí và chờ cho đến khi con thuyền gián điệp đi khỏi. Nếu bị một con thuyền khác bám theo từ bến, anh ta sẽ đi lòng vòng đến một nơi hoang vắng và giả vờ câu cá cho đến khi gián điệp bỏ cuộc. Người thuyền trưởng phải luôn luôn tỉnh táo nếu không muốn mất kế sinh nhai. Người ta vẫn kể về một thuyền trưởng của đội thuyền cá Viking Fleet ở Montauk. Người này cho hai anh em thuê thuyền cá với giá cắt cổ. Nhân lúc ông ta ngủ, hai người này lẻn vào buồng lái và quay video quyển sổ tọa độ. Một năm sau, nơi kiếm sống của người thuyền trưởng là nhà ga trung tâm ở New York.
Trong mấy năm gần đây, Skeets thường đánh cá ở ngư trường ngàn năm có một, cách bờ biển Brielle chừng 90 km. Anh vô tình lạc vào đó vào một ngày sương phủ khi đang câu rê cá ngừ đại dương. Câu rê là kỹ thuật câu theo đó thuyền cá sẽ kéo các dây cước đơn và mồi câu trong nước, mô phỏng chuyển động của mực và những con mồi khác. Do thuyền cá vừa câu vừa rê, thuyền trưởng phải luôn trông chừng các thuyền lân cận. Để làm việc này trong màn sương, thuyền trưởng sử dụng rađa. Skeets quét rađa. Chẳng mấy chốc anh thấy một con thuyền khác trên màn hình. Nhưng đốm xanh của con thuyền không di chuyển, có nghĩa là thuyền được neo. Với Skeets, điều này có nghĩa: con thuyền trên rađa đang đánh cá trên xác tàu đắm.
Skeets quặt trái và phi về con thuyền đang neo. Trước khi thuyền kia kịp phản ứng, Skeets đã “nhảy” và lấy được tọa độ. Hóa ra đó là thuyền của một người bạn. Người này điện đàm cho Skeets: “Không được nói cho ai về chỗ này, Skeets. Không được cho ai biết. Chỗ này đặc biệt lắm.”
Vài ngày sau, Skeets quay lại ngư trường. Nơi đó trù phú đến kinh ngạc: ngư dân chỉ cần quăng cần là từng bầy cá ngừ, cá vược, cá tuyết béo núc lao vào cắn câu. Tuyệt nhất là không ai ngoài Skeets và bạn anh biết nơi này, có nghĩa là anh có thể tới bất kỳ lúc nào mà không phải lo những thuyền trưởng khác sẽ quét sạch chiến lợi phẩm.
Nhưng mỗi khi đến đó là một sự lạ nảy sinh trong Skeets. Dù được tận hưởng sự trù phú của ngư trường, anh không khỏi băn khoăn về cái vật bên dưới, linh hồn của kho báu này. Chắc chắn là nó rất to, chỉ cần nhìn vào đốm xanh thô tháp hiện trên màn hình máy đo độ sâu là biết. Sâu, ít nhất là 58 mét. Và làm bằng thép, luận từ những vảy sét gỉ thỉnh thoảng bám vào mồi câu. Ngoài ra thì anh không suy đoán được thêm gì. Anh hết sức tò mò. Có cái gì đó ở nơi này làm xáo động bản năng của anh. Một đời trên biển cho ngư dân khả năng biết thứ nào hệ trọng, thứ nào không. Với Skeets, đây là một nơi hệ trọng.
Bao năm nay, mỗi khi Nagle thấy Skeets đậu xe hoặc rửa thuyển hoặc trả hóa đơn dầu ở Horrible Inn, anh lại hỏi: “Này, Skeets, cậu có tình cờ bắt gặp tàu đắm nào mà thợ lặn không biết không?” Bao năm nay, Skeets đều đáp: “Rất tiếc, Billy ạ, không thấy gì.” Nhưng hôm nay thì khác. Skeets ngoảnh về Nagle và nói:
“Billy này, tôi đang đánh bắt ở chỗ này, lạ lắm. Cá ngừ này. Cá minh thái này. To đùng.”
Nagle nhướn mày khỏi ly bourbon: “Thế hả?”
“Ừ, Bill ạ. Cách bờ gần trăm cây số. Và sâu. Sâu kiểu của anh ấy, dễ đến 60 mét. Có cái gì đó bên dưới, cái gì đó rất to. Anh phải đến tận nơi. Tôi đoán có cái gì đó cực lớn bên dưới.”
Dù đã nốc vài ly Jim Beam, Nagle vẫn phân biệt được đâu là vỗ ngực bịp bợm và đâu là lời chân thật. Anh biết Skeets là một thuyền trưởng tài ba và là người am hiểu đại dương. Anh không nghi ngờ bản năng của Skeets đang mách bảo đúng hướng. Song Nagle không thể, không muốn hỏi tọa độ. Thuyền trưởng chẳng có gì ngoài danh dự và hỏi tọa độ là hành vi xâm phạm lãnh thổ nghề nghiệp thô bạo nhất.
Skeets đưa ra đề nghị: “Billy này, tôi đang cần cái chỗ tàu đắm có cá tautog ven bờ mà tôi biết anh hay lặn. Cho tôi tọa độ của anh, tôi sẽ cho anh tọa độ của tôi. Nhưng anh phải kín miệng. Không được nói cho ai đấy.”
Nagle gật đầu.
Hai người thống nhất sẽ trao đổi tọa độ vào hôm sau trên thuyền của Nagle. Đêm đó, Nagle thao thức mong chờ đến cuộc hẹn. Hôm sau, anh tới chỗ hẹn sớm một tiếng và đi đi lại lại trên cầu tàu mục nát dẫn đến chỗ Seeker. Bản năng của anh rúng động toàn thân. Cuộc gặp không đơn thuần là chuyện về một thứ nằm dưới đáy biển. Cuộc gặp báo hiệu con nước xoay vần.
Khi Skeets tới, Nagle mời anh vào buồng lái Seeker. Hai người đứng trong cái khoang chật hẹp, xung quanh là thiết bị định vị, một chai Jim Beam cạn nửa và một cái túi ngủ kiểu cao-bồi-và-thổ-dân nhàu nhĩ mà Nagle dùng từ bé. Họ nhìn vào mắt nhau.
“Bill ạ, tôi phải nói với anh thế này” Skeets nói. “Cái nơi mà tôi tìm thấy ấy, không ổn đâu. Cái khu đó biển không ổn, rất nguy hiểm. Nó là một cái trũng, có vành, dòng biển rất mạnh đi từ thềm lục địa, nước chảy rất xiết…”
“Ầy, đừng lo mà Skeets…”
“Thật đấy, Billy ạ, chỗ đó không ổn. Anh phải có thợ lặn hàng đầu. Kể cả khi lặng gió và lặng nước, thuyền vẫn trôi ba nút8*. Anh hiểu điều đó có nghĩa gì mà, tức là dòng biển bên dưới nguy hiểm ra sao. Và rất sâu. Tôi đoán phải đến 60 mét. Tôi không biết gì về lặn, nhưng anh phải canh chừng người của mình đấy.”
“Rồi, Skeets, tôi biết, tôi biết rồi. Đừng lo. Trao đổi tọa độ nào.”
Cả hai chẳng có mảnh giấy nào dùng được. Nagle thò tay vào túi và lấy ra hai miếng khăn giấy vuông của Horrible Inn. Anh viết tọa độ cho Skeets: một mỏm cá tautog nhỏ phía nam hòn Seaside, chỉ là một chồng đá thuận lợi cho câu cá. Sau đó, Skeets bắt đầu ghi lại sai phân thời gian Loran-C9* của anh chồng lên vết bơ đậu phộng dây từ tay Nagle. Theo lệ, thuyền trưởng không được tiết lộ vị trí kiếm ăn, nhưng Nagle có thể cho Skeets biết dưới đó có gì. Nagle là người quen duy nhất của Skeets có khả năng lặn sâu 60 mét. Và Nagle có vẻ là một tay tử tế, không phải là loại hở miệng hay bán tọa độ cho thuyền đối thủ.
Skeets đưa miếng khăn giấy cho Nagle.
“Giữ riêng thôi nhé” anh nhắc Nagle. “Và xin hãy cẩn thận.”
Skeets ra khỏi buồng lái, leo những bậc thang gỗ trắng dốc đứng và quay về bến, lên thuyền của mình. Lát sau Nagle ra ngoài, một tay cầm bút, một tay nắm chặt miếng khăn giấy. Anh cuốc bộ đến Horrible Inn, kêu một ly Jim Beam rồi bắt đầu chép lại tọa độ của Skeets thành mã trên một miếng khăn giấy khác. Trên Seeker, Nagle giữ một quyển sổ tọa độ, nhưng đó là những tọa độ công khai, thằng nào muốn cứ ăn cắp thoải mái. Nhưng ví của anh là để dành riêng cho những hy vọng. Bạn có thể giết Nagle và cướp ví của anh, nhưng những con số trong đó chẳng có ý nghĩa gì nếu không có mã giải và Nagle không bao giờ tiết lộ mã. Anh gấp miếng khăn giấy mới lại và nhét vào ví – nơi trú ẩn cho ước mơ của anh. Rồi anh gọi John Chatterton.
Nếu có thợ lặn nào gợi cho Nagle nhớ về bản thân thì đó phải là John Chatterton – một thợ lặn chuyên nghiệp tuổi tứ tuần, điển trai, cao lớn phong sương, với chất giọng sang sảng phảng phất khẩu âm của Long Island đã làm nền cho hầu hết các chuyến lặn quan trọng thời đó. Ban ngày, Chatterton làm việc tại các công trường dưới nước quanh Manhattan, loại công việc cần mũ bảo hộ đồng và mỏ hàn hiệu Broco hơn 5.000 độ. Cuối tuần, anh đạo diễn một số chuyến lặn thám hiểm táo bạo và sáng tạo bậc nhất dọc bờ đông. Khi nhìn vào mắt Chatterton, Nagle nhìn thấy chính mình thời vang bóng.
Năm 1984, họ gặp nhau trên chiếc Seeker. Chatterton không mấy quan tâm về điểm đến ngày hôm đó, anh đăng ký chỉ đơn giản để quan sát huyền thoại Nagle. Chẳng bao lâu sau đó, Chatterton thuê Seeker tới Tháp Texas – một trạm rađa không quân cũ cách bờ tầm 90 km. Tòa tháp sụp trong một trận bão năm 1961, toàn bộ kíp trực tử vong. Phần nền của tháp nằm gãy gập dưới cát ở độ sâu 60 mét − quá nguy hiểm đối với tất cả thợ lặn trừ những tay lão luyện nhất. Nhưng có thể dễ dàng thăm dò đỉnh của nó ở độ sâu 26 mét, phù hợp với mọi thợ lặn trong chuyến này.
Một tay lặn tỏ ra ngạo mạn. Anh ta đã nổi tiếng là một tay cừ khôi, nên không ai ngạc nhiên khi anh ta bày ra kế hoạch lặn tìm nền. Một trong những kịch bản xưa như Trái đất trong nghề lặn thám hiểm chẳng mấy chốc được tái diễn dưới những con sóng. Người thợ lặn bị ám ảnh phải lấy bằng được một khung cửa sổ đồng. Không còn đủ dưỡng khí nhưng anh ta vẫn cố. Và anh ta chết đuối. Ở độ sâu đó mọi thứ diễn ra trong chớp mắt.
Giờ thì có một thi thể ở dưới đáy một tàn tích đầy nguy hiểm. Ai đó phải xuống lấy cái xác. Đó là nhiệm vụ của Nagle. Theo thông lệ, anh hoặc một trong những trợ lý (thuyền viên) của mình sẽ thực hiện chuyến lặn cứu hộ. Nhưng họ cũng vừa lặn xong và không thể quay xuống nước trước khi cơ thể họ chưa giải phóng hết nitơ tích lũy – một quá trình có thể kéo dài hàng giờ.
Chatterton xung phong. Một thợ lặn không quen xuống đáy sẽ dễ dàng mất phương hướng và không bao giờ quay lại được Seeker, do đó Nagle hỏi Chatterton có biết địa hình méo mó của tàn tích không. “Không hẳn, nhưng tôi cứ đi thôi” Chatterton nói. Câu trả lời này đã thu phục được Nagle.
Chatterton xuống đáy của Tháp Texas và bắt đầu thăm dò. Anh sớm tìm được tay lặn kia. “Chết rồi mà trông vậy thì cũng không đến nỗi tệ” Chatterton nghĩ. Anh buộc bình khí của người kia vào túi phao trăm ký và bơm phồng túi cho đến khi thi thể bắt đầu nổi lên mặt nước. Để chắc chắn, anh buộc một cuộn dây từ xác người tới xác tàu. Nhờ thế, nếu có sự cố thì vẫn có thể lần ra được cái xác.
Và sự cố xảy ra. Trong quá trình nổi, áp suất nước giảm nhanh chóng khiến không khí trong bộ đồ lặn khô giãn nở, biến tay lặn thành phiên bản quá cố của Người Michelin10*. Khi cái xác nổi lên mặt nước, một con sóng to làm xì túi phao và cái xác lại chìm xuống đáy. Trời sắp tối, lặn thêm một lần nữa là quá nguy hiểm.
Chatterton xung phong xuống đưa cái xác lên vào sáng hôm sau, khiến Nagle hết sức cảm động. Chiếc Seeker ở lại qua đêm, bữa sáng của mọi người là Doritos. Chatterton lại tìm thấy cái xác. Lần này thì anh chàng tội nghiệp trông không ổn như lần trước. Mí mắt của anh đã bị ăn mất và răng lòi ra. Anh ta đã trở thành thứ mà cánh thợ lặn gọi là “quái vật vai chính.” Khi cái xác nổi lên, Nagle cuốn dây kéo vào thuyền. “Làm tốt đó” anh nói với Chatterton. “Cậu là một thợ lặn giỏi.” Sau đó, Nagle và Chatterton trở thành bằng hữu.
Không lâu sau, Chatterton gia nhập đoàn thủy thủ trên Seeker. Năm 1987, anh có chuyến đi đầu tiên tới Doria. Anh chỉ bơi quanh quanh, không làm gì khác. Xác tàu quá nguy hiểm, quá đáng sợ, đến mức anh thề không bao giờ quay lại. Cũng trong chuyến đó, Nagle thu được một bảng gỗ nặng 90 cân ghi TRÁNH XA CHÂN VỊT – cái bảng đẹp đẽ nhất Chatterton từng thấy. Anh bắt tay Nagle, cảm ơn vì chuyến đi và nói: “Bill ạ, tôi đã leo lên đỉnh. Một lần là đủ rồi.” Song Nagle nghĩ khác.
Chatterton không thể quên xác tàu đắm ấy. Trong khi nghiền ngẫm về dáng nghiêng huy hoàng của Doria, anh có thể thoáng thấy bóng hình của các bí ẩn mà những xác tàu đắm vĩ đại hé lộ cho những ai biết nhìn bằng tâm tưởng. Anh quay lại đó. Sự đồ sộ của Doria làm anh choáng ngợp. Dù có dành cả chục năm cho những chuyến lặn 25 phút trên xác tàu này thì vẫn không hết chỗ để nhìn. Anh quay lại lần nữa và kinh ngạc trước cảm giác được ở trong những nơi trước đây nằm ngoài tầm với, được hiện diện trong cái kho khổng lồ những thứ nhỏ bé từng được ai đó trước đây nâng niu. Chẳng mấy chốc, Doria đã không ngừng chảy trong huyết quản Chatterton. Khi quét lá, khi xem đội New York Giants chơi bóng bầu dục, khi đi giữa những gian hàng bơ sữa trong tiệm tạp hóa, Chatterton kết nối những trải nghiệm mình có ở Doria, cho tới khi mắt anh hiệu chỉnh và từng mảnh ghép của những trải nghiệm riêng biệt trên tàu hợp thành một bức tranh trong tâm trí. “Đây là lý do vì sao tôi yêu môn lặn” anh nói với Nagle. “Đây chính là kiểu lặn mà tôi mong ước.”
Rồi Chatterton bắt đầu tới những nơi chưa ai tới trong Doria, tìm thấy những thứ chưa ai thấy, kể cả Nagle và đồng đội tìm được trong thời hoàng kim. Danh tiếng của anh lan truyền qua những mũi thuyền lặn ở bờ đông. Và anh tiếp tục học từ Nagle. Anh ngưỡng mộ Nagle ở bản năng tư duy tổng thể, cách Nagle hình dung về con tàu ở thời khắc kiêu hãnh nhất, nghiên cứu sơ đồ tầng và nhật ký thuyền trưởng, đặt mình vào tâm trí của hoa tiêu, dựng một kế hoạch lặn bao trùm cả tàu dù hiện tại mới chỉ khám phá được một phần nhỏ. Anh kinh ngạc khi Nagle kiểm tra những hiện vật hoen gỉ vô nghĩa của Doria do anh mang lên và đoán chính xác vị trí tìm được nó.
Trên hết, anh và Nagle có chung thế giới quan. Với cả hai, lặn là để khám phá, hướng tới mọi ngóc ngách của điều chưa biết. Ở thế giới rộng lớn như trong mắt của Chatterton và Nagle, không thiếu những nơi chẳng thể đi tới, nhưng ta phải dám thử. Bạn có nghĩa vụ phải thử. Sống để làm gì, họ nghĩ, nếu không đi và không thử?
Một ngày sau khi Skeets tiết lộ bí mật, Nagle hẹn gặp Chatterton trên Seeker. Hai người lên thang đến buồng lái, Nagle khóa cửa và kể cho bạn mình câu chuyện của Skeets. Dưới đó liệu có thể là gì? Hai người liệt kê những tình huống khả dĩ như chia bài patience (paxiên). Phải chăng đó là một chiến hạm hoặc tàu buôn thời chiến? Gần như không thể. Hầu như không có hồ sơ nào về hoạt động quân sự khu đó trong cả hai cuộc thế chiến. Hay đó là Corvallis – một con tàu được cho là bị Hollywood đánh chìm để làm một bộ phim thảm họa thập niên 1930? Một khả năng nhỏ: người ta cho là nhà làm phim chỉ ghi đại khái địa điểm quay phim – một vùng bao gồm ngư trường của Skeets cùng cả vài trăm dặm vuông khác trên đại dương. Hay là một toa tàu điện ngầm? Cũng có chút khả năng: chính quyền New Jersey chủ ý thả xuống để thúc đẩy sự phát triển của sinh vật biển, nhưng vị trí các toa đó đã được ghi lại chính xác.
Những kịch bản kém lãng mạn hơn dường như lại có xác suất cao hơn. Có thể là một đống đá. Hoặc một cái sà lan đặt ống vô giá trị. Khả năng cao nhất là một sà lan chở rác cũ. Trong những năm trước, các khu đô thị hay chất rác lên thuyền buồm xập xệ, cưa cột buồm và đánh chìm chúng ở những điểm ngẫu nhiên. Nagle và Chatterton đã nhiều lần viếng thăm những nơi như thế.
Song biết đâu… biết đâu đấy, đó thực sự là thứ quan trọng.
Nagle đề xuất một kế hoạch. Anh và Chatterton sẽ tổ chức đi đến đó. Mỗi người sẽ chiêu mộ sáu thợ lặn hàng đầu, những người có thể sống sót sau khi lao 60 mét xuống lòng nước bí ẩn. Chuyến đi sẽ không dễ dàng: sáu tiếng mỗi chiều trong tiết trời tháng chín giá buốt. Mỗi thợ lặn sẽ trả 100 đô la để trang trải chi phí và nhiên liệu. Sẽ không có lời hứa hẹn nào hết. Thuyền trưởng thuyền lặn khác chào mời những chuyến đi bí mật tới địa điểm mới toanh, nhưng đều là bịp bợm. Bạn xuống đó rồi tìm thấy chiếc xà beng màu cam của một thợ lặn nào mới tới từ một chiếc thuyền cá tồi tàn, còn thuyền trưởng sẽ nhìn thằng vào mắt bạn mà nói: “Ây dà, các bạn, tôi nào có biết đâu.” Nagle và Chatterton không thế. Họ nghĩ thế nào thì chào mời thế ấy: Chắc là chẳng có gì đâu các ông ạ, nhưng mình cứ phải thử thôi.
Chuyến đi được xếp vào Ngày lao động11*năm 1991. Nagle và Chatterton liên hệ với tất cả thợ lặn giỏi mình biết. Hầu hết đều từ chối lời mời. Ngay cả một số tay lặn kỳ cựu, kiểu người đáng lẽ phải cảm thấy phấn khích với những điều “biết đâu đấy” cũng không nhận lời. “Tôi thà tiêu tiền vào cái gì đó chắc chắn hơn là bánh vẽ trên trời” là lý do điển hình. Một thợ lặn tên Brian Skerry nói với Chatterton: “Anh biết không, tôi sinh ra quá muộn. Tất cả những xác tàu tuyệt nhất đã được khám phá rồi. Thời đại thám hiểm tàu đắm chỉ là dĩ vãng.” Thời điểm năm 1991 là thế đấy. Người ta muốn cái gì chắc cú. Nagle và Chatterton tiếp tục gọi điện.
Cuối cùng, sau khi đã đi hết danh sách, họ tìm được tay lặn thứ mười hai. Chatterton phẫn nộ. “Không ai muốn tìm cái mới nữa! Chuyện quái gì thế này hả Bill?” Nagle, vốn khinh bạc tính cẩn trọng, nhìn xuống những dòng gạch đỏ trên danh sách thợ lặn của mình và gần như thì thầm với Chatterton: “Bọn họ không có lòng với lặn thám hiểm, John ạ. Họ không hiểu.”
Vừa qua nửa đêm ngày 2 tháng chín, năm 1991, khi cả Brielle đang say ngủ, Nagle, Chatterton và mười hai thợ lặn đã đăng ký tham gia chuyến thám hiểm chất bình khí, mặt nạ, bộ điều áp, dao, đèn pin và hàng tá thiết bị khác lên Seeker. Họ phải mất sáu tiếng mới tới tọa độ mà Skeets cung cấp. Vài người leo lên giường đánh một giấc, số khác tụ tập quanh chiếc bàn tạm, hỏi han cuộc sống của nhau và tự trào chuyện mình ngốc nghếch trả tiền để đi thăm dò một đống đá. Lúc một giờ sáng, Nagle điểm danh hành khách trên tàu. “Cài tất cả thiết bị lại!” Anh lệnh cho những người còn thức, rồi bước lên thang vào buồng lái. Chatterton ra hiệu chuyển từ điện bờ sang máy phát. Đèn trên cabin chính của thuyền nhấp nháy rồi nhường chỗ cho ánh đèn quartz công suất lớn sáng trắng cả boong sau. Một thợ lặn rút ống dẫn điện và nước từ bến, sau đó ngắt kết nối điện thoại bờ. Nagle khởi động động cơ diezen kép. Cạch-brừm-BỐP-rmm… cạch-brừm-BỐP- BỐP-BỐP-rừm… cỗ máy giật lên chống đối vì giấc ngủ bị phá vỡ.
Chatterton kéo dây chằng. “Tháo dây mũi! Giữ dây dọc lái… giữ… giữ… OK!” Anh gọi Nagle, rồi quăng những sợi thừng nặng lên bến. Giờ thì Seeker đã sẵn sàng. Nagle chuyển đèn buồng lái sang ánh sáng đỏ mờ, kiểm tra radio VHF, radio đơn biên, Loran-C, rađa, rồi khởi động từng động cơ một – phương pháp hữu hiệu để dỗ con thuyền rời bến. Vài phút sau, Seeker đã đi qua cầu kéo đường sắt và hướng mũi ra Đại Tây Dương. Rất có thể họ đang truy đuổi một sà lan đầy rác. Rất có thể thời đại khám phá tàu đắm đã qua đi. Nhưng khi bến Brielle khuất bóng sau lưng, những gì Chatterton và Nagle nhìn thấy nơi chân trời là cơ hội và trong khoảnh khắc đó, thế giới thật hoàn mỹ.
3*Đồng vàng kép (doblón) tương đương 32 real (ND).
4* Tương đương 8 real, còn được gọi là đồng peso (ND).
5*Amadeo Modigliani (1884-1920) là họa sĩ chân dung và nhà điêu khắc người Italia gốc Do Thái. Nhân vật trong tác phẩm của ông thường có gương mặt dài, đường nét đơn giản (BT).
6* Coaster: một loại thuyền thân nông hoạt động ven bờ (ND).
7* Một dòng rượu whiskey sản xuất ở Mỹ (ND).
8* Đơn vị đo tốc độ trên biển. Một nút tương đương một hải lý/giờ (ND).
9* Cách định vị dựa trên sai lệch thời gian của tín hiệu truyền tới từ các cặp trạm vô tuyến đặt cố định ở bờ, rồi tra cứu trên bản đồ chuyên dụng để suy ra kết quả (BT).
10*Linh vật của công ty lốp Michelin, cũng dùng để chỉ người béo phì hoặc mặc quần áo phồng phềnh (ND).
11*Ngày lao động của Hoa Kỳ là thứ hai đầu tiên của tháng chín hằng năm (ND).