← Quay lại trang sách

Chương 2 Tầm nhìn 0

LẶN THÁM HIỂM là một trong những môn thể thao mạo hiểm bậc nhất. Hiếm có hoạt động nào mà tự nhiên, sinh học, thiết bị, bản năng và vật thể hùa nhau bủa vây, không hề báo trước, đột kích hoàn toàn tâm trí, nghiền nát tinh thần như thế. Bao thợ lặn đã bỏ mạng trong xác tàu bên những bình khí thừa đủ để ngoi lên mặt nước. Họ không muốn chết nhưng chẳng thể tìm ra một con đường sống cho mình.

Lặn thám hiểm chỉ thoạt giống với người anh em của nó − lặn scuba một bình mà dân tình vẫn thực hiện ở các khu nghỉ dưỡng. Rất khó xác định tỷ lệ tai nạn. Trong khoảng 20 triệu thợ lặn scuba được cấp chứng chỉ trên thế giới, thợ lặn thám hiểm chiếm một tỷ lệ tí hon. Tai nạn lặn của họ chỉ là một chấm mờ nhạt trong bức tranh cực an toàn của bộ môn lặn biển, khi tuyệt đại đa số hoạt động diễn ra ở những vùng nước nông nhiệt đới, có bạn đồng hành sẵn sàng cứu trợ và người lặn không có mục tiêu gì hơn là ngắm cảnh. Ở Hoa Kỳ, trong số mười triệu thợ lặn scuba có chứng chỉ, có lẽ chỉ vài trăm người lặn thám hiểm. Với nhóm người ít ỏi ấy, cái chết luôn cận kề, có thoát được hay không mới là vấn đề. Nếu lặn thám hiểm đủ lâu, anh hoặc suýt chết, hoặc đã chết, hoặc đã nhìn thấy người khác chết. Nhiều khi khó nói trong ba kết cục đó, kết cục nào là đau đớn hơn cả.

Lặn thám hiểm còn dị thường ở điểm: bởi nó đi ngược lại những bản năng sâu thẳm nhất của con người là thở, nhìn, trốn chạy khỏi hiểm nguy, người thường không cần phải đeo thiết bị mới hiểu được hiểm nguy của bộ môn này. Bạn chỉ cần hình dung trong đầu. Vì đó vốn cũng là hiểm nguy của chính bạn và càng tìm hiểu bạn càng cảm thụ được chân dung và câu chuyện của người thợ lặn. Bạn sẽ hiểu tại sao những thợ lặn tài năng từ bỏ sinh mệnh của mình dưới nước. Bạn sẽ hiểu tại sao việc truy tìm tọa độ của một ngư dân ở cách bờ 90 km và độ sâu 30 sải, giữa mông lung bốn bề là việc không mấy ai nghĩ đến.

Một thợ lặn thám hiểm thở khí đối mặt với hai hiểm họa chính. Thứ nhất, ở độ sâu ngoài 20 mét, trí lực và năng lực vận động của anh ta có thể bị kém đi bởi hiện tượng say nitơ. Càng xuống sâu, triệu chứng mê man càng rõ rệt. Trên 30 mét, nơi có một số xác tàu hay nhất, tay lặn có thể mất năng lực thể chất nghiêm trọng nhưng lại phải thực hiện nhiều thao tác phức tạp và đưa ra những quyết định sống còn.

Thứ hai, nếu có sự cố, không phải cứ ngoi lên mặt nước là xong. Một người lặn sâu đủ lâu phải ngoi lên từ từ, dừng ở các chặng định trước để cơ thể thích nghi với áp suất giảm dần. Anh ta phải tuân thủ nguyên tắc này dù có nghĩ mình đang chết ngạt hay chết nghẹn. Những tay lặn hoảng loạn mà lao lên với “nắng và hải âu” sẽ bị sốc giảm áp. Chứng sốc giảm áp có thể sẽ gây khuyết tật vĩnh viễn, tê liệt hoặt tử vong. Những thợ lặn từng chứng kiến cơn đau quằn quại, tột cùng của một ca sốc giảm áp nghiêm trọng thề rằng họ thà chết ngạt dưới đáy biển còn hơn là ngoi lên mặt nước sau một quãng lặn dài và sâu mà không giảm áp.

Gần như tất cả hiểm nguy mà người thợ lặn thám hiểm phải đối mặt có liên quan đến say nitơ hoặc sốc giảm áp. Cả hai đều do áp suất gây ra. Ở mực nước biển, áp suất khí quyển tương đương với áp suất bên trong cơ thể. Dù chơi đĩa ném ở bãi biển hay ngồi xe buýt, chúng ta đều chịu áp suất một atmotphe, khoảng một kilogam trên một xentimet vuông. Ở áp suất này, chúng ta hoạt động bình thường. Không khí chúng ta hít thở ở mực nước biển, cấu tạo từ 21% ôxy và 79% nitơ, cũng đi vào lồng ngực của chúng ta ở áp suất một atmotphe. Khí ôxy sẽ nuôi dưỡng máu và mô. Khí nitơ thì không có tác động gì.

Dưới nước thì tình hình sẽ khác. Cứ sâu thêm 10 mét, áp suất lại tăng thêm một atmotphe. Một thợ lặn scuba chơi với cá ngựa ở độ sâu 10 mét sẽ chịu áp suất hai atmotphe, tức là cao gấp đôi trên cạn. Anh ta hầu như không cảm thấy gì, nhưng không khí trong bình mà anh ta hít thở sẽ có thay đổi. Cấu tạo vẫn là ôxy và nitơ theo tỷ lệ 21:79, nhưng số phân tử không khí đi vào phổi mỗi lần hít vào tăng gấp đôi. Ở áp suất ba atmotphe, số phân tử không khí một lần hít vào tăng gấp ba và cứ thế.

Khi thợ lặn hít thở dưới nước, các phân tử nitơ dư khi đi vào phổi thay vì nằm yên như ở trên cạn sẽ tan vào máu và di chuyển đến mô: cơ, khớp, não, cột sống, tất cả. Lặn càng lâu và càng sâu, càng nhiều nitơ tích tụ trong mô.

Ở độ sâu khoảng ba atmotphe, tức 20 mét, nitơ tích tụ bắt đầu gây say cho phần lớn thợ lặn, vì thế gọi là say nitơ. Có người ví triệu chứng say nitơ như ngộ độc rượu, có người lại ví như gây mê cục bộ, người khác thì ví với cảm giác hít ête hoặc khí cười. Triệu chứng tương đối nhẹ ở độ sâu thấp: tư duy hơi mờ mịt, kỹ năng vận động có chút vụng về, tay không còn khéo léo, tầm nhìn ngoại vi thu hẹp, cảm xúc nóng nảy hơn. Lặn càng sâu, các triệu chứng càng trở nên rõ ràng. Ở khoảng 40 mét, tức khoảng năm atmotphe, phần lớn thợ lặn sẽ suy yếu và mất kiểm soát nghiêm trọng. Một số trở nên vụng về, vật lộn với những thao tác đơn giản như thắt nút, số khác trở nên “ngu si theo độ sâu” và phải tự thuyết phục bản thân những điều mình vốn biết rõ. Khi thợ lặn xuống sâu nữa, ví dụ như 50 hay 55 mét, anh ta bắt đầu có ảo giác, cho đến khi nghe được tiếng vẫy gọi ngớ ngẩn và xúi dại. Đôi khi chính những âm thanh đó giúp thợ lặn nhận ra mình đang say. Nhiều người nghe thấy “tiếng chiêng núi” tức tiếng mạch đập chát chúa trong tai, hoặc chỉ nghe thấy tiếng rầm rì như chuông báo thức vùi dưới gối. Hơn 60 mét, say nitơ bóp méo những cảm xúc thông thường như sợ hãi, vui vẻ, u sầu, phấn khích, thất vọng. Một vấn đề rất nhỏ, như con dao bị mất hay ít bùn lắng, được thổi phồng lên thành thảm họa và dồn nén gây nên hoảng loạn. Vấn đề nghiêm trọng, như bình khí sắp cạn hoặc mất dây neo, lại được coi như chuyện tầm phào. Trong môi trường khắc nghiệt như xác tàu đắm sâu, những sai sót về tư duy, cảm xúc và năng lực vận động phức tạp hóa mọi vấn đề.

Nitơ trong khí thở của thợ lặn cũng dẫn đến một vấn đề khác. Nó tích tụ dần trong mô theo độ sâu và thời gian. Việc này không nghiêm trọng nếu độ sâu và thời gian lặn không lớn. Nhưng ở cuộc lặn sâu hơn, lâu hơn, nitơ sẽ từ mô đi vào máu nhiều hơn. Tốc độ giải phóng lớn sẽ quyết định thợ lặn bị sốc giảm áp hoặc thậm chí tử vong.

Nếu thợ lặn ngoi lên từ từ, áp suất sẽ giảm dần và nitơ tích tụ sẽ ra khỏi mô dưới dạng bọt khí siêu vi. Bạn có thể thấy hiện tượng tương tự khi mở nắp chai soda: nếu mở từ từ, bọt khí sẽ bé. Kích thước bọt khí là yếu tố then chốt. Chỉ ở kích thước hiển vi thì bọt nitơ mới có thể dễ dàng theo máu về phổi và đi ra ngoài qua hô hấp. Đây là quá trình lý tưởng.

Nếu thợ lặn ngoi lên quá nhanh, áp suất xung quanh giảm đột ngột. Nitơ tích tụ trong mô sẽ hình thành vô số bong bóng lớn, như khi bạn vặn nắp chai soda bất thình lình. Bong bóng nitơ lớn là tử thù của thợ lặn. Khi hình thành bên ngoài dòng máu, chúng sẽ ép vào thành mô và chặn tuần hoàn. Nếu hiện tượng này xảy ra ở các khớp hoặc gần dây thần kinh, hệ quả sẽ là những cơn đau khốn cùng kéo dài thậm chí hàng tuần hoặc cả đời. Nếu nó gây tắc nghẽn ở tủy sống hay não thì thợ lặn có thể bị liệt hoặc đột quỵ. Nếu quá nhiều bong bóng lớn tích tụ ở phổi, phổi sẽ ngừng hoạt động. Hiện tượng đó là “nghẹn” khiến thợ lặn không thở được. Nếu quá nhiều bong bóng vào hệ động mạch, thợ lặn có thể bị tổn thương khí áp phổi, tức nghẽn mạch do khí. Tình trạng này có thể dẫn đến đột quỵ, mù, bất tỉnh hoặc tử vong.

Để đảm bảo mình ngoi lên từ từ, giữ cho bọt khí nitơ ở kích thước hiển vi, thợ lặn biển sâu sẽ chủ định dừng ở các độ sâu đã định để cho bọt khí thoát khỏi cơ thể. Những đợt dừng này gọi là “điểm dừng giảm áp” và đã được các nhà khoa học tính toán cho tối ưu. Một thợ lặn hít khí lặn sâu 60 mét trong 25 phút cần một giờ để ngoi lên mặt nước, dừng lần đầu ở độ sâu 12 mét và chờ năm phút, sau đó lên dần và dừng mười phút ở độ sâu chín mét, 14 phút ở sáu mét và 25 phút ở ba mét. Thời gian dừng giảm áp là một hàm với hai biến độ sâu và thời gian: càng lâu, càng sâu thì càng cần giảm áp nhiều. Đó là lý do vì sao thợ lặn thám hiểm không làm việc hàng giờ dưới nước. Thời gian giảm áp cho một cuộc lặn hai giờ có thể lên đến chín giờ.

Say nitơ và sốc giảm áp là nguồn cơn của một loạt nguy hiểm mà thợ lặn thám hiểm phải đối mặt. Thợ lặn sẽ không dám lên thuyền ra chỗ đắm tàu nếu nghiêm túc cân nhắc những hiểm họa ấy.

Thợ lặn Đại Tây Dương ở vùng đông bắc đến chỗ đắm bằng tàu thuê. Tuy một số người có du thuyền riêng, nhưng những thuyền nhỏ như thế không thể chịu được sóng gió ngoài khơi Đại Tây Dương. Thuyền cho thuê phần lớn dài hơn 10 mét, được thiết kế để chống chịu sức công phá của đại dương. Hành khách thường lặn hai lần một ngày, nhưng phải chờ vài tiếng giữa những lần lặn để xả hết nitơ tồn dư trong cơ thể. Do đó, những chuyến lặn trên tàu thuê thường mất cả ngày hoặc đi qua đêm.

Những thợ lặn lão luyện luôn chuẩn bị cho mình kế hoạch trước khi lên tàu. Nhiều ngày, thậm chí nhiều tuần trước chuyến đi, họ sẽ nghiên cứu xác tàu, tìm hiểu sơ đồ boong tàu, học thuộc hình dáng của nó, xác định điểm làm việc, đặt mục tiêu phù hợp rồi lập chiến lược để đạt các mục tiêu đó. Họ biết điều hướng là yếu tố then chốt đảm bảo an toàn và thành công khi làm việc trên xác tàu và sẽ không đào bới ngẫu hứng, như nhiều thợ lặn thám hiểm khác, với hy vọng mù quáng tìm kiếm được chiến lợi phẩm. Họ đã thấy những người khác làm vậy và một vài trong số đó không bao giờ lên lại mặt nước. Kế hoạch kỹ lưỡng là tín ngưỡng của họ. Nhiều ngày trước chuyến đi, họ đã biết sẽ làm gì và cần tới đâu nên họ có thể ứng phó với bất ngờ và sâu dưới Đại Tây Dương, mọi thứ đều có thể gây bất ngờ.

Thiết bị là bạn tri kỷ của thợ lặn thám hiểm. Nó là hộ chiếu để họ đi tới những miền cấm và che chở họ trước tự nhiên. Bạn sẽ thấy sự âu yếm trong cái cách mà người thợ lặn kẹp, bọc, buộc và sửa tạm đám thiết bị nặng 80 cân cho đến khi anh ta trông như một tác phẩm điêu khắc hiện đại lai với người ngoài hành tinh của điện ảnh thập niên 1950. Trang bị đầy đủ, anh chỉ có thể lê bước, nhưng bộ đồ nặng nề với anh là sự sống. Bất cứ thiết bị nào trục trặc cũng sẽ làm khó anh. Người thợ lặn mang trên mình vài ngàn đô la thiết bị: đèn chớp, đèn đội đầu, đèn pin, dây upline12*, búa, xà beng hoặc búa tạ, dao, mặt nạ, chân nhái, dây quai chân nhái, bóng nổi, bộ điều áp, van phân phối khí13*, la bàn, túi lưới để đựng hiện vật, túi nổi để đưa hiện vật lên mặt nước, phao đánh dấu (hay “xúc xích sinh tồn”) để bắn lên bề mặt trong trường hợp khẩn cấp, những kẹp, băng, nút vặn, dụng cụ, bảng viết, bút dạ chống nước, bảng giảm áp ép nhựa, găng tay cao su tổng hợp, đồ trùm đầu, đồng hồ bấm giờ, đai trọng lực, băng tạ đeo cổ chân, dây jon14*. Rồi cả thiết bị dự phòng. Thợ lặn thám hiểm tránh xa bộ đồ lặn ướt nghiệp dư mà chọn bộ đồ lặn khô ấm hơn, đắt tiền hơn, mặc trùm lên hai lớp lót polypropylen hạng thám hiểm15*. Anh ta mang hai bình khí thay vì một. Tất cả, từ những thứ nhỏ nhất, đều cần thiết.

Khi thuyền lặn đến gần địa điểm, thuyền trưởng sẽ dùng thiết bị định vị để điều khiển thuyền “trúng tọa độ” hoặc càng gần với xác tàu càng tốt. Thuyền viên của anh, thường là hai hoặc ba thợ lặn làm việc trên thuyền, sẽ đặt chân lên boong trước trơn ướt rồi nắm lấy mỏ neo và dây neo. Mỏ neo của thuyền lặn là một móc thép bốn đến năm răng, trông giống thứ mà Người Dơi dùng để leo lên các tòa nhà hơn là dụng cụ hai móc mà các thủy thủ hay xăm lên bắp tay. Nó được gắn với khoảng 4,5 mét xích cùng hàng trăm mét dây nylon dày hai xentimét. Khi thuyền trưởng có hiệu lệnh, thuyền viên sẽ thả neo, hy vọng nó rơi xuống và bám vào xác tàu.

Thả neo đúng chỗ cực kỳ quan trọng. Dây neo không đơn thuần để cố định thuyền. Nó là dây sinh tồn của thợ lặn, là phương tiện để anh ta tìm đường xuống xác tàu và, quan trọng hơn, quay trở lại. Thợ lặn không thể cứ nhảy đại từ thuyền xuống biển và mong sẽ đáp trúng xác tàu. Khi anh ta vỡ nước thì rất có khả năng thuyền đã trôi cả trăm mét do dòng biển và không còn ở ngay trên xác tàu đắm nữa. Ngay cả nếu thuyền ở nguyên tại chỗ đúng trên xác tàu, thợ lặn đi xuống mà không có dây neo dẫn đường sẽ trở thành đồ chơi của các dòng biển cuộn xoắn theo nhiều hướng ở các độ sâu khác nhau. Những dòng biển ấy có thể cuốn thợ lặn trôi xa xác tàu hàng trăm mét. Trong làn nước tăm tối của Đại Tây Dương, khi tầm nhìn có thể không quá hai tấc, một thợ lặn đáp xa đích dù vài mét cũng có thể lang thang dưới đáy hàng năm trời mà không tìm được gì. Trong những lần hy hữu khi tầm nhìn đáy là lý tưởng, ví dụ 12 mét, một thợ lặn rơi tự do xuống đáy cách mục tiêu 13 mét cũng sẽ không thấy được xác tàu. Khi đó, anh ta sẽ phải đoán hướng để dò tìm và nếu đoán sai thì sẽ bị lạc. Chỉ xuống theo dây neo thì tay lặn mới tìm được xác tàu.

Chuyến đi ngược lên thậm chí còn quan trọng hơn. Nếu thợ lặn không thể định vị được dây neo, anh ta sẽ buộc phải nổi lên và giảm áp tại vị trí hiện tại. Kiểu nổi tự do như thế đầy nguy hiểm. Người thợ lặn vẫn phải giảm áp − một quá trình kéo dài một giờ hoặc hơn, tùy theo độ sâu và thời gian ở đáy − nhưng không có dây neo trong tay để ổn định vị trí, anh ta sẽ rất khó xác định độ sâu chính xác để thực hiện giảm áp đúng cách. Thế là dễ sốc giảm áp. Và đó chỉ là vấn đề đầu tiên. Không có dây neo để bám, thợ lặn cũng sẽ bị dòng biển cuốn đi. Dù điểm xuất phát để nổi lên ngay dưới thuyền, thợ lặn nổi tự do sau một giờ giảm áp trong dòng biển vận tốc chỉ hai nút, tức khoảng ba kilômét một giờ, sẽ lên mặt nước cách thuyền hơn gần bốn cây số. Ở khoảng cách đó, thợ lặn gần như không thể nhìn thấy thuyền và thuyền không nhìn thấy thợ lặn. Dù có nhìn thấy thuyền, tay lặn cũng không hy vọng bơi được tới đó vì đã ở xuôi dòng và mang cả trăm ký thiết bị trên người. Có liều cỡ nào cũng không vượt qua những chướng ngại trên. Anh ta sẽ không chết đuối ngay lập tức, vì thiết bị nổi, chưa kể bộ đồ lặn và bóng nổi cũng chứa không khí. Nhưng hoảng loạn là hoàn toàn khả dĩ. Anh ta biết mình sắp giảm thể nhiệt trong làn nước Đại Tây Dương lạnh giá. Anh ta sẽ nhớ lại chi tiết những câu chuyện từng nghe về cá mập tấn công thợ lặn trôi dạt. Anh ta biết dù sống sót trong 24 giờ nữa, da xung quanh cổ, cổ tay, cổ chân của bộ đồ lặn khô sẽ bị nước muối làm mềm, khiến không khí thoát ra ngoài và nước lạnh lọt vào trong. Thân nhiệt sẽ hạ. Tay lặn biết không ai trên thuyền nhận ra rằng anh đã nổi, có thể họ nghĩ anh đã bị lạc trong xác tàu hoặc bị cá mập ăn thịt. Họ sẽ không bao giờ biết chắc, vì nhiều khả năng nếu không ai nhìn thấy anh giữa những cơn sóng bạc đầu của Đại Tây Dương thì cũng sẽ không ai thấy anh còn sống sót. Và đối với người thợ lặn lạc giữa biển, đó là hậu quả khủng khiếp nhất.

Vì dây neo là dây sống, đơn thuần để mỏ neo móc vào xác tàu thôi là quá mạo hiểm. Dòng biển chạy dưới bề mặt, mỏ neo có thể chuyển động theo đó và rời ra. Do đó, mỏ neo cần được gia cố. Nhiệm vụ của các thuyền viên là lặn xuống xác tàu và “buộc neo.” Buộc neo xong, thuyền viên sẽ thả nổi một số ly xốp trắng cho nổi lên để báo hiệu cho thuyền trưởng và thợ lặn là neo đã được cố định. Tại những chiếc thuyền thuê chuyến trên Đại Tây Dương, ly trắng là hiệu lệnh bắt đầu.

Khi thợ lặn nhận tín hiệu ly, họ sẽ mở hành lý và đeo thiết bị lên người. Xong xuôi, thợ lặn sẽ kiểm tra thiết bị − những động tác chọc, kéo, vỗ, vuốt tương tự như phi công tư nhân làm với phi cơ. Ở dưới nước không có điều kiện kiểm tra như vậy. Nếu có nghi ngờ hay dù chỉ một nghi vấn mơ hồ nhất về hoạt động của thiết bị, anh phải hành động ngay lập tức.

Thợ lặn giỏi thể hiện mình qua cách “lên đồ”. Anh ta hòa làm một với thiết bị. Anh ta biết vị trí của mọi thứ, mọi đai đều dài hoàn hảo, mọi dụng cụ được sắp chỗ khôn khéo và tất cả đều vừa vặn. Anh ta thao tác theo bản năng, hai bàn tay và đồ nghề tham gia vào một điệu múa lướt-giật-gài cho đến khi anh ta trở thành một sinh vật biển. Anh ta hiếm khi cần trợ giúp. Nếu một thợ lặn khác tiến đến để hỗ trợ, anh ta sẽ từ chối bằng câu “Không, cảm ơn” hoặc phổ biến hơn là “Đừng có đụng vào đồ của tôi.” Anh ta ưa dùng dao mười đô hơn dao trăm đô để nếu có mất thì trong cơn say nitơ cũng không tiếc của mà liều mạng lao xuống đáy tìm. Anh ta không để mắt đến chuyện thẩm mỹ và thường gắn lên đồ nghề các miếng vá, sticker, họa tiết kể về những chiến công quá khứ. Những màu chói chang đơn giản là không tồn tại. Mấy tay non tơ chọn những màu như vậy sẽ sớm được nghe bình luận tiêu cực của cả tàu về sự sặc sỡ. Khi đã trang bị đầy đủ, một thợ lặn thám hiểm giỏi sẽ trông như động cơ xe Đức, những thợ lặn tầm thường hơn sẽ trông giống phần bên trong hòm đồ chơi của trẻ con.

Khi đứng lên, người thợ lặn trang bị đầy đủ trông như Dã nhân với bước chân nặng 160 cân và dáng đi lom khom. Trong bộ chân nhái, anh ta sẽ mất vài giây lẹp bẹp di chuyển qua sàn tàu trơn uớt và sẽ ngã nhào nếu thuyền bị sóng đánh bất thình lình. Bằng việc hít thở không khí từ bình khí kép, còn gọi là “đôi” mỗi thợ lặn sẽ có khoảng 25 phút trên xác tàu dài 60 mét trước khi phải bắt đầu hành trình nổi giảm áp dài 60 phút.

Một khi ở trong nước, bình khí sẽ không còn đè lên cơ thế người thợ lặn mà thay vào đó sẽ có xu hướng trôi khỏi người anh ta. Thợ lặn sẽ nắm vào dây “granny” − một sợi thừng vàng nối từ đuôi thuyền đến dây neo dưới thuyền. Anh ta sẽ mở van để xả bớt một chút không khí trong bộ đồ lặn khô và bóng nổi, tạo ra một lực nổi âm nhẹ sao cho cơ thể chìm dần cho đến khi bồng bềnh ở độ sâu khoảng một mét. Tay lặn kéo mình dọc theo dây granny để đến dây neo, xả tiếp một chút không khí và bắt đầu chậm rãi chìm xuống đáy.

Người thợ lặn đang trên đường tới xác tàu. Trong đa số trường hợp, anh ta không có bạn đồng hành. Đáng ngạc nhiên là dù vũ trang tận răng, người thợ lặn lại bỏ bạn đồng hành lại. Trong lặn scuba giải trí, lặn đôi được coi là thánh chỉ. Thợ lặn luôn đi theo đôi để phụ giúp nhau. Ở các vùng nước trong và nông, lặn đôi là một quy tắc hợp lý. Bạn lặn có thể chia sẻ không khí cho bạn nếu thiết bị gặp sự cố, đưa bạn lên trên mặt nước khi bạn gặp nguy hiểm và gỡ bạn khỏi dây câu. Sự hiện diện của người đồng hành tự nó đã là một nguồn động viên lớn. Song dưới đáy Đại Tây Dương, bạn lặn có thể vô ý giết chính mình và người đồng hành. Một thợ lặn luồn vào những khoang méo mó của xác tàu để giúp một thợ lặn khác có thể làm chính mình mắc kẹt, hoặc cản trở tầm nhìn đến mức cả hai người đều không tìm thấy lối ra. Một thợ lặn định chia sẻ khí thở với bạn đồng hành đang hoảng loạn − một nghĩa vụ cơ bản trong lặn scuba giải trí − cũng đặt chính mình vào nguy hiểm. Một thợ lặn đang chết ngạt ở độ sâu 60 mét sẽ coi bạn đồng hành là chiếc phao cứu sinh và sẵn sàng giết người để giành lấy nguồn dưỡng khí. Đã có những vụ thợ lặn hoảng loạn dùng dao chém những người đến cứu, giật bộ điều áp khỏi miệng họ và điên cuồng kéo họ lên mặt nước khi chưa giảm áp.

Sâu trong lòng đại dương, chỉ quan sát thợ lặn khác hoảng loạn thôi cũng có thể gây nguy hiểm. Cảm xúc của thợ lặn ở độ sâu 60 mét vốn đã bị biến dạng vì say nitơ. Nếu mặt đối mặt với một người nghĩ mình sắp chết, anh ta rất có thể sẽ nhìn tình huống bằng con mắt của người kia, sẽ thấy một loạt điều khủng khiếp rình rập chính mình. Hoặc anh ta sẽ rơi vào hoảng loạn, hoặc nhiều khả năng là sẽ cố cứu người kia. Dù thế nào thì người thợ lặn trong phút chốc sẽ chuyển từ trạng thái an toàn sang trạng thái ứng phó vô định. Điều này không có nghĩa là thợ lặn không phối hợp với nhau khi thăm dò xác tàu. Họ vẫn thường xuyên phối hợp. Nhưng thợ lặn giỏi không bao giờ dựa vào nhau để đảm bảo an toàn. Họ kiên định tuân theo chủ nghĩa độc lập, mình tự cứu mình.

Chuyến đi của thợ lặn dọc theo dây neo không khác rơi tự do là mấy. Thường thì họ sẽ mất hai đến bốn phút để tới xác tàu ở độ sâu 60 mét. Trong lúc chìm, thợ lặn gần như không có trọng lượng − một phi hành gia trong lòng biển. Những mét đầu tiên, thế giới xung quanh còn xanh trong. Ngẩng lên, anh ta có thể thấy những đốm nắng lấp lánh trên mặt nước pha lê. Anh ta sẽ không thấy nhiều sinh vật biển ở độ sâu này, dù thi thoảng có chú cá ngừ hay cá heo bơi đến vì tò mò với cái hình dáng lạ lùng đang ồn ào nhả ra những bong bóng bẹp đáy. Tay lặn nghe thấy hai âm thanh chủ yếu: tiếng xì xì của bộ điều áp khi hít vào và tiếng ọc ọc bùng lên của bong bóng khi thở ra. Hai tiếng đó là máy đếm nhịp của người thợ lặn. Càng xuống sâu, quang cảnh càng nhanh biến đổi khó lường: dòng biển, tầm nhìn, ánh sáng xung quanh, sinh vật biển. Vì thế, chuyến đi đơn giản xuống theo dây neo cũng là một chuyến phiêu lưu.

Độ sâu đạt 57 mét. Giờ người thợ lặn mặt đối mặt với xác tàu cong vẹo và nứt gẫy − kết cục tàn khốc không bao giờ xuất hiện trong các bộ phim của Hollywood, khi những vật thể bình thường bị tự nhiên bẻ ngược. Ống, cáp và dây toác ra từ vết thương hở. Đường ống nước lộ diện. Cá theo các cột nước ra vào con tàu gãy. Bị thực vật bao phủ, ta chỉ có thể xác định những hình dạng cơ bản nhất: chân vịt, bánh lái, cửa sổ thành tàu. Phần còn lại người thợ lặn phải tự hình dung và lắp ghép thành con tàu hoàn chỉnh trong tâm trí. Chỉ rất hiếm khi tầm nhìn không bị cản trở và thợ lặn có thể thấy được cùng lúc toàn cảnh con tàu. Còn lại thì may ra nhìn được mặt cắt. Tầm nhìn hạn chế do say nitơ khiến nhân thức của người thợ lặn còn ít ỏi hơn nữa.

Người thợ lặn có khoảng 25 phút để làm việc trên xác tàu trước khi buộc phải nổi lên mặt nước. Nếu có dự tính trước, anh ta sẽ đi thẳng đến khu vực mục tiêu mà mình hứng thú. Phần lớn thợ lặn sẽ chỉ ở bên ngoài xác tàu. Họ lặn để chạm tay vào thân tàu, tìm những hiện vật rơi ra hoặc chụp ảnh. Hoạt động của họ điềm tĩnh và thận trọng. Nhưng linh hồn của con tàu nằm ở bên trong. Bên trong là nơi những câu chuyện kết thúc, nơi khám phá những khung hình đóng băng về trải nghiệm cuối cùng của đời người. Bên trong có các thiết bị chỉ huy: máy điện báo, bánh lái, hộp la bàn giúp tàu điều hướng. Nơi có cửa sổ mạn tàu, nơi chôn vùi những đồng hồ đo dập biểu tượng hàng hải và quốc gia, nơi đồng hồ quả quýt, va li và những chai sâm- panh nằm dưới lớp lớp bùn đất. Chỉ ở bên trong tàu, thợ lặn mới tìm thấy chiếc đồng hồ bằng đồng của con tàu với hình chạm của nhà sản xuất và đôi khi là cả thời khắc con tàu chìm đông cứng trên mặt.

Bên trong xác tàu cũng là nơi đáng sợ, tập hợp những không gian với trật tự bị đảo lộn và phương hướng bị bẻ cong đến khi không còn chỗ cho con người. Hành lang cụt xuất hiện giữa đường. Trần sập lấp kín thang. Cửa cao ba mét biến thành cửa cao một mét. Những phòng để các quý bà chơi bài và thuyền trưởng vẽ đường giờ đây nghiêng ngả, lộn nhào hoặc biến mất hoàn toàn. Bồn tắm biết đâu lại nằm trên tường. Đại dương bên ngoài xác tàu dù không an toàn thì ít nhất còn có sự nhất quán và tỏa ra mọi phía. Bên trong xác tàu, hỗn độn là kiến trúc sư và hiểm nguy rình rập mọi ngõ ngách. Biến cố đến bất chợt. Với nhiều người, bên trong xác tàu là nơi nguy hiểm nhất họ từng đến.

Thợ lặn khi vào bên trong tàu, nhất là nếu có ý định đi sâu, phải hình dung về không gian theo cách khác trên bờ. Anh ta phải tư duy ba chiều, phải sử dụng những khái niệm điều hướng như rẽ trái, hạ xuống, rồi lên chéo và theo đường nối bên phải mà trên bờ sẽ trở nên vô nghĩa. Anh ta phải ghi nhớ mọi thứ − mọi lần rẽ, quay, lên, xuống − và phải ghi nhớ trong khung cảnh vắng bóng các dấu mốc và đầy hải quỳ. Nếu khả năng điều hướng suy suyển, trí nhớ lung lay, dù chỉ chốc lát, thợ lặn sẽ bắt đầu băn khoăn: Mình vừa bơi qua ba phòng hay hai phòng để đến phòng thuyền trưởng? Mình vừa đi trái-phải-phải hay phải-trái-phải trước khi đi lên tháp pháo này? Hay là mình đã lên một tầng khác mà không biết? Kia là cái ống mình thấy bên cạnh chỗ ra hay là một trong sáu cái ống mình nhìn thấy khi bơi qua đây?. Hỏi như vậy nghĩa là có vấn đề. Chúng có nghĩa là rất có khả năng bạn đã bị lạc.

Lạc bên trong xác tàu là một nguy hiểm lớn. Thợ lặn chỉ có dưỡng khí giới hạn. Nếu không tìm được đường ra, anh ta sẽ chết đuối. Nếu tìm được đường ra nhưng trong lúc đó đã dùng hết quá nhiều không khí thì anh ta sẽ không có đủ khí để giảm áp theo đúng quy trình. Cơn say nitơ vốn âm ỉ trong óc sẽ dâng lên cao trào, nhấn chìm lý trí và nói với người thợ lặn rằng mày bị lạc mày bị lạc mày bị lạc mày bị lạc mày bị lạc… Anh ta sẽ muốn đoán mò, nhưng làm cách đó sẽ chẳng khác gì một đứa trẻ trong nhà gương. Chuyển động mù quáng sẽ chắc chắn đưa tới vô số đường cùng ngõ cụt của con tàu và càng làm anh ta mất phương hướng. Không khí cứ cạn dần. Thời gian cứ cạn dần. Đây là cách một thợ lặn lạc trở thành xác chết.

Cho dù điều hướng thành công, thợ lặn vẫn phải đối mặt với tầm nhìn hạn chế. Ở độ sâu 60 mét, đáy đại dương rất tối. Bên trong thân tàu còn tối hơn, thậm chí đen kịt. Nếu tầm nhìn đơn giản chỉ là chuyện chiếu sáng thì có đèn đội đầu và đèn pin là đủ. Nhưng trong xác tàu đầy bùn và mảnh vỡ. Một chuyển động nhỏ nhất, như với tay lấy một cái đĩa, đá chân nhái hay quay người để ghi nhớ cột mốc, có thể khuấy động bùn và làm nhiễu tầm nhìn. Đôi khi trong bóng đêm kín bưng ấy, thợ lặn thám hiểm trở thành một thợ lặn bóng hình − kiên trì bám theo hình dáng của con tàu trong tâm trí không khác gì chính con tàu trong thực tế.

Bọt khí cũng cản trở anh ta. Bong bóng mà người thợ lặn thở ra sẽ dâng lên khuấy động bùn và gỉ sét trên đầu. Chỉ thở thôi cũng đủ để tạo ra một cơn mưa gỉ sét, có miếng to như hạt đậu, đa số nhỏ như hạt đường. Bong bóng cũng khuấy động dầu rỉ ra từ bồn, từ thiết bị và lan tràn khắp xác tàu. Bong bóng sẽ tán dầu thành thành một làn sương mù, khiến dầu bám vào mặt nạ và lọt vào miệng. Tầm nhìn đã tệ càng tệ hơn. Không còn biết đâu là trái là phải, bên kia và bên này. Trong làn sương bùn, gỉ sét và dầu nhớt, việc điều hướng cơ bản cũng trở nên bất khả thi.

Để tránh khuấy bùn, thợ lặn học cách di chuyển với cử động tối thiểu. Có người di chuyển như cua, chỉ sử dụng ngón tay để kéo cơ thể, chân nhái bất động trôi đằng sau. Họ lên xuống không bằng cách đá chân mà bằng cách làm phồng và xẹp bóng nổi − một túi khí nằm giữa thợ lặn và bình khí để điều chỉnh lực nổi. Khi tới những nơi hay ho, họ sẽ co gối và tay, điều chỉnh lực nổi và làm việc trong tư thế quỳ, ống chân chỉ chạm nhẹ lên sàn tàu.

Những biện pháp trên chỉ mang tính tạm thời. Thợ lặn trong thân tàu sớm muộn cũng sẽ phá hỏng “tầm nhìn” vấn đề là phá đến mức nào và cần bao lâu. Khi bùn đã dâng, gỉ đã rơi và dầu đã loang, tầm nhìn trong tàu sẽ mất trong vài phút, có khi lâu hơn. Dù có khả năng điều hướng hoàn hảo, thợ lặn cũng không thể nhìn đủ rõ để tìm đường ra. Càng di chuyển thì bùn lại càng rối. Ở tầm nhìn 0, thợ lặn có thể ở cách lối ra chỉ 1,5 mét mà vẫn bị lạc. Nhận ra điều này trong lúc say nitơ thì thật không may, vì cơn say nitơ phóng đại mọi vấn đề và tầm nhìn 0 có vẻ là vấn đề lớn nhất. Trong bóng tối bao trùm, thợ lặn mù rất dễ lạc lối.

Vấn đề điều hướng và tầm nhìn đã đủ choán hết trí óc, nhưng trong xác tàu, người thợ lặn còn phải đối phó với một hiểm họa còn đáng sợ hơn nhiều. Trong lúc con tàu giãy giụa đắm, trần, tường và sàn dễ bị lộn từ trong ra ngoài. Nơi từng đẹp đẽ trở nên chằng chịt cáp điện, dây, que kim loại bẻ cong, lò xo nệm, lò xo xôfa, các mảnh sắc của thiết bị vỡ, chân ghế, khăn trải bàn, đường ống dẫn và những vật thể khác từng thầm lặng giúp con tàu vận hành giờ đã thành mối họa. Chúng đong đưa trần trụi trên lối đi của thợ lặn, chỉ chực móc vào vòi thở vào van phân phối khí hoặc bất kỳ cái gì khác trên hệ thống hỗ trợ sinh tồn của anh ta. Khi đã bị mắc, thợ lặn biến thành con rối dây. Nếu vật lộn, anh ta có thể quấn mình thành xác ướp giữa những vật thể ấy. Với tầm nhìn hạn chế, gần như không thể tránh những cái bẫy như vậy. Không thợ lặn thám hiểm có kinh nghiệm nào chưa từng bị mắc, mà còn mắc thường xuyên.

Thợ lặn lạc hoặc mắc bên trong xác tàu có khả năng cao về với ông bà tổ tiên. Người ta đã tìm thấy những xác chết trong tàu: mắt trố lên và miệng há hốc kinh hoàng, vẫn lạc, vẫn mù, vẫn mắc, vẫn kẹt. Thế nhưng một sự thật lạ lùng là vấn đề kể trên tự thân nó thường không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết. Chính cách tay lặn phản ứng với vấn đề, tức hành xử trong khủng hoảng, sẽ quyết định anh ta sống hay chết.

Đây là những gì sẽ diễn ra đối với một thợ lặn hoảng loạn bên trong xác tàu:

Nhịp tim và nhịp thở sẽ tăng vọt. Ở độ sâu 60 mét, khi mỗi lần hít đầy phổi ngốn gấp bảy lần không khí so với trên bờ, người thợ lặn đang hoảng loạn có thể làm cạn bình nhanh đến mức kim đồng hồ chuyển sang vạch đỏ ngay trước mắt anh ta. Quang cảnh ấy càng khiến nhịp tim nhanh hơn và nhịp thở gấp hơn và lại càng rút ngắn thời gian anh ta có để giải quyết vấn đề. Thở mạnh hơn đồng nghĩa với say nitơ nặng hơn. Cơn say khuếch đại hoảng loạn. Một vòng luẩn quẩn hình thành.

Phản ứng đột ngột và thô bạo của thợ lặn trong hoảng loạn là thành quả của tiến hóa tự nhiên. Nhưng trong xác tàu, khi mọi hiểm họa đều liên quan tới nhau, cơn quẫn bách sẽ mở đường cho những vấn đề khác. Chẳng hạn anh ta sẽ giãy giụa tìm lối thoát, khiến bùn bị khuấy tung và làm giảm tầm nhìn, thế là giờ anh ta không nhìn thấy gì. Bị mù, thợ lặn lại càng tuyệt vọng tìm lối thoát và càng dễ bị mắc hoặc làm đổ vật nặng đang lơ lửng phía trên. Anh ta thở gấp hơn. Anh ta nhìn thấy kim đồng hồ bình khí tụt xuống nhanh hơn.

Người thợ lặn có thể kêu cứu. Âm thanh di chuyển tốt trong nước nhưng không có phương hướng, nên nếu ai đó nghe thấy tiếng kêu thì không chắc họ có thể tìm ra được nó đến từ đâu. Tay lặn một mình mắc kẹt trong xác tàu, não bắt đầu khẳng định chứ không chỉ là ý tưởng nữa. Mình chết mất! Thoát ra! Thoát ra! Người thợ lặn cố hơn nữa. Kim tiếp tục tụt thấp. Bốn bề tối đen. Hồi kết có lẽ đã đến.

Năm 1988, một thợ lặn giỏi đến từ bang Connecticut tên là Joe Drozd tham gia một chuyến lặn tới Andrea Doria trên chiếc Seeker. Đây là chuyến đi đầu tiên của anh tới con tàu đắm vĩ đại này, một giấc mơ trở thành hiện thực. Để đảm bảo cuộc lặn an toàn, anh bổ sung thêm bình khí thứ ba − một chai khí nhỏ dự phòng − vào bộ bình kép thông thường. “Nhỡ đâu thôi mà” anh lý luận. Drozd và hai bạn lặn thâm nhập vào xác tàu qua Lỗ Gimbel − một lỗ chữ nhật thông vào khoang hạng nhất của tàu do Peter Gimbel − người thừa kế chuỗi cửa hàng bách hóa Gimbel − tạo ra vào năm 1981. Cái lỗ đen ngòm giữa lòng đại dương xanh thẫm, đâm sâu xuống gần 30 mét − một cảnh tượng làm lạnh sống lưng những thợ lặn kỳ cựu nhất.

Không lâu sau khi thâm nhập vào trong xác tàu, ở độ sâu 60 mét, một trong các bộ van-điều áp trên lưng Drozd bị vướng vào một dây polypropylen màu vàng dài gần 30 mét mà một thợ lặn trước đó để lại làm dấu mốc. Ở điều kiện lý tưởng, người thợ lặn sẽ nhờ bạn đồng hành gỡ vướng cho mình. Dưới độ sâu 60 mét, trong cơn say nitơ âm thầm, điều kiện không bao giờ là lý tưởng. Drozd với tay lấy con dao: anh sẽ đơn giản cắt dây để tự gỡ mắc. Nhưng thay vì dùng tay phải là tay thuận, Drozd nắm con dao bằng tay trái, có thể do anh bị vướng ở lưng trái. Drozd không lường trước rằng tư thế vặn mình cắt dây sẽ làm tăng áp suất lên van thoát khí của bộ đồ lặn khô. Cùng lúc Drozd cắt dây, không khí trong bộ đồ lặn bắt đầu thoát ra ngoài, tạo ra lực nổi âm. Anh bắt đầu chìm. Độ sâu làm cơn say nitơ thêm trầm trọng. Cơn say nitơ bùng lên.

Drozd rơi và tinh thần anh cũng rơi theo hình xoắn ốc. Mỗi lần anh với tay cắt dây, bộ đồ lặn lại xì hơi và anh trở nên nặng hơn. Cơn say nitơ lại càng bao trùm, chôn vùi những ý nghĩ hợp lý, ví dụ như đổi tay cầm dao. Hơi thở gấp gáp hơn. Cơn say nitơ nặng thêm. Trong lúc nguy khốn, Drozd thở cạn một trong hai bình khí kép trước khi chuyển nhầm sang chai dự phòng thay vì bình khí nguyên cỡ còn lại.

Vài phút sau, Drozd cuối cùng cũng gỡ được mình khỏi sợi dây. Cùng lúc đó, hai người đồng hành nhận ra anh đang gặp sự cố và bơi tới để trợ giúp. Trong cơn say ngây ngất, bộ đồ lặn mỗi lúc một ép chặt, cơ thể mỗi lúc một chìm sâu, Drozd thở cạn thứ mà anh tưởng là bình khí chính còn lại.

Hai bạn lặn tiếp cận Drozd. Một người ôm lấy anh, cố bơi lên để ra khỏi Doria nhưng bộ đồ lặn khô đã xì hơi khiến Drozd trở nên nặng trịch. Hai người kia phải làm gì đó để Drozd khỏi chìm sâu hơn nữa. Một người bơm khí vào bộ đồ lặn của chính mình, tăng sức nổi để anh ta có thể dễ nổi hơn cùng Drozd ra khỏi xác tàu. Nhưng giờ đây, khi ngạt khí và tin rằng cả hai bình khí chính của mình đã cạn, Drozd rơi vào hoảng loạn. Anh vùng vẫy chống cự cho đến khi tuột khỏi tay bạn lặn. Người này, với sức nổi quá lớn và không có Drozd làm đối trọng, vọt khỏi xác tàu lên mặt nước. Trong quá trình nổi thô bạo ấy, anh ta không kịp xả khí từ bộ đồ lặn. Bộ đồ lặn phình ra. Càng lên gần mặt nước, áp suất càng giảm, lực nổi của anh ta càng lớn. Trong chốc lát, người thợ lặn chỉ cách mặt nước hơn 30 mét và vẫn lao về phía Mặt trời. Nếu lên trên mặt nước mà không giảm áp, anh ta sẽ tử vong hoặc hệ thần kinh trung ương sẽ chịu tổn thương nghiêm trọng. Với tốc độ quá lớn, người thợ lặn không thể làm gì để xì hơi bộ đồ lặn. Dây neo không thấy đâu hết. Anh ta tiếp tục nổi lên.

Ở dưới Doria, Drozd nhổ bộ điều áp khỏi miệng − một phản ứng sinh lý trong cơn hoảng loạn. Nước biển lạnh cóng tràn vào phổi. Phản xạ nôn khởi phát. Tầm nhìn vốn đã hạn chế nay tắt hẳn. Bạn lặn còn lại đưa cho Drozd bộ điều áp dự phòng của mình, nhưng Drozd, tay vẫn cầm dao, chém loạn xạ về phía người kia, tâm trí xé lẻ ngàn vạn hướng, cơn say nitơ tấn công dồn dập. Rồi Drozd quay lại và bơi về xác tàu, trên lưng vẫn còn nguyên một bình khí, miệng không còn bộ điều áp, tay vẫn chặt chém đại dương và cứ thế khuất dần trong bóng tối xác tàu, không bao giờ quay trở lại.

Sang chấn bởi tình huống quá khủng khiếp và cơn say nitơ, người bạn lặn thứ hai giờ cũng đối mặt với nguy cơ rơi vào hoảng loạn. Anh tin rằng cả Drozd và bạn đồng hành của mình đã chết. Anh kiểm tra đồng hồ và nhận tin dữ: anh đã trễ hạn nổi giảm áp. Anh bắt đầu nổi với niềm tin rằng mình là người sống sót duy nhất trong số ba người.

Trong thực tế, một điều thần kỳ đã xảy ra với người bạn lặn đầu tiên. Ở độ sâu gần 20 mét, anh cuối cùng đã xả được khí khỏi bộ đồ lặn và giảm tốc độ nổi. Cùng lúc đó, anh cũng thấy được dây neo, như thể được chính Chúa trời thả xuống lòng biển. Anh bơi tới đó và nắm dây như nắm sinh mạng của mình. Anh sống sót mà không gặp thương tích. Người còn lại cũng hoàn thành giảm áp và sống sót, kinh hãi nhưng nguyên vẹn. Drozd chết với một bình khí đầy trên lưng.

Không phải thợ lặn nào cũng đánh mất bản thân trong hoảng loạn như Drozd. Thợ lặn lão luyện biết cách kiểm soát cảm xúc bản thân. Khoảnh khắc bị lạc, mất tầm nhìn, bị vướng hoặc bị kẹt, khoảnh khắc mà hàng triệu năm tiến hóa sẽ bắt anh ta hoặc chạy trốn hoặc đối mặt và cơn say nitơ gào thét vào não bộ, anh ta sẽ kiểm soát nỗi sợ, tập trung vào hiện tại chờ cho hơi thở bình ổn, cơn say nitơ thuyên giảm và lý trí quay về. Bằng cách đó, anh ta không đơn thuần là một con người nữa mà trở thành một cái gì đó khác. Bằng cách đó, thoát khỏi sự chế ngự của bản năng, anh ta trở thành một con quái vật.

Để đạt trạng thái ấy, người thợ lặn phải hiểu mọi ngóc ngách của nỗi sợ để khi bị nó vồ lấy bên trong xác tàu, anh ta có thể ứng biến với nó như với người quen. Quá trình hiều và ứng biến ấy phải mất hàng năm nghiên cứu, thảo luận, thực hành, hướng dẫn, nghiền ngẫm và nhiều trải nghiệm đau đớn. Ở cơ quan, anh ta sẽ gật đầu khi thủ trưởng thông báo tình hình doanh thu gần nhất, nhưng trong đầu thì nghĩ “Dù có sự cố gì bên trong xác tàu, còn thở là còn ổn.” Khi đang trả hóa đơn hay cài đầu băng VCR ở nhà, anh ta tự nhủ “Nếu mày gặp vấn đề bên trong tàu, phải chậm lại. Lùi về sau. Tự mình hướng dẫn cho mình.” Với kinh nghiệm dần tích lũy, anh ta sẽ chiêm nghiệm lời khuyên của tất cả những thợ lặn vĩ đại: “Xử lý vấn đề thứ nhất triệt để và bình tĩnh trước khi bắt đầu nghĩ đến vấn đề thứ hai.”

Đôi khi một thợ lặn tầm thường sẽ vội vã tìm cách gỡ rối để bạn đồng hành không chứng kiến khó khăn của mình. Một thợ lặn có kỷ luật biết nuốt hổ thẹn để cứu mạng mình. Thợ lặn có kỷ luật cũng sẽ ít bị lòng tham chi phối hơn. Anh ta biết nếu mình quá bận tâm đến việc nhặt nhạnh thì sẽ không tập trung được vào điều hướng và đảm bảo mạng sống. Anh ta nhớ, kể cả trong cơn say nitơ, rằng trong số những thợ lặn bỏ mạng ở Andrea Doria, dễ đến ba phần tư chết cùng một cái túi đầy ắp chiến lợi phẩm. Anh ta hiểu rằng nếu, sau khi lấy được sáu cái đĩa, anh ta nhìn thấy cái thứ bảy và nghĩ “Mình mà để thằng khác lấy được cái đĩa đó thì chết đi còn hơn” thì đó là ý nghĩ của cơn say nitơ. Anh ta sẽ để ý khi một thuyền trưởng như Danny Crowell cho chuyền tay một xô đầy những đĩa vỡ với thìa dĩa cong vẹo và nói với khách thuê thuyền rằng: ”Tôi muốn các vị nhìn vào những thứ này. Có người đã chết để lấy được chúng. Chúng tôi tìm thấy chúng trong túi của gã. Nhìn kỹ đi. Chạm thử xem có đáng để liều mạng vì những thứ rác rưởi này không?”

Khi thợ lặn đã thoát khỏi xác tàu, anh ta sẽ bắt đầu hành trình quay lại thuyền lặn. Nếu mọi thứ đều ổn, anh ta sẽ cảm thấy hân hoan trong thắng lợi; nếu bị say nặng, anh ta thậm chí điên lên vì vui sướng. Không thể thả lỏng lúc này. Hành trình lên mặt nước cũng đầy rẫy hiểm họa, cái nào cũng đủ để đốn ngã cả những người giỏi nhất.

Tìm thấy dây neo rồi, người thợ lặn sẽ bắt đầu nổi. Song anh ta không được phép nổi tự do như quả bóng bay. Nếu thợ lặn mất tập trung trong quá trình nổi, có thể do nhìn thấy cá mập hoặc thả hồn đâu đó, anh ta có thể bỏ lỡ những bước dừng giảm áp bắt buộc. Một thợ lặn giỏi sẽ điều chỉnh sức nổi về trung tính khi nổi lên dọc dây neo. Trong trạng thái gần như không trọng lượng ấy, người thợ lặn có thể đẩy mình lên trên bằng một cú đá hoặc cú kéo nhẹ nhàng, nhưng sẽ không bao giờ nổi tự do quá điểm dừng nếu lơ đễnh. Trong quá trình nổi, thợ lặn sẽ xả dần không khí trong bộ đồ lặn và bóng nổi để giữ độ cân bằng và phòng ngừa việc nổi đột ngột.

Nếu nước lặng, người thợ lặn đang nổi sẽ mất khoảng một giờ hoặc hơn tại các điểm dừng giảm áp. Ở độ sâu 18 mét − điểm treo đầu tiên, Mặt trời chắc đã ló rạng trở lại và nước xung quanh đã ấm hơn. Nước có thể trong hoặc đục, không có gì hoặc đầy sứa và những động vật nhỏ. Thường thì nước sẽ có màu lục-lam. Lơ lửng giữa hai thế giới, thoát khỏi hiểm họa say nitơ và những nguy cơ rình rập dưới đáy sâu, người thợ lặn cuối cùng có thể cho phép mình trở thành khách tham quan trong chuyến phiêu lưu này.

Ở mặt nước gần thuyền, tay lặn sẽ bơi dọc theo hoặc phía dưới thuyền để tìm tới chiếc thang kim loại thả từ đuôi tàu. Chỉ cần trèo lên thang là cuộc lặn kết thúc. Nếu biển lặng thì việc này diễn ra suôn sẻ. Nếu biển động, cái thang thép có thể biến thành con thú bất kham.

Năm 2000, khi vừa ngoi lên mặt nước sau chuyến khám phá xác tàu ngoài khơi, thợ lặn tên George Place với tay lên thang của chiếc Eagle’s Nest. Biển dữ và sương phủ tối chân trời. Cơn sóng làm dâng tàu và một nấc thang nốc vào cằm của Place. Sang chấn và gần như bất tỉnh, anh tuột tay, văng vào dòng biển, mất phương hướng và trôi đằng sau con thuyền. Thuyền lặn có một dây “tag” ở đuôi, nối với một cái phao, để thợ lặn bị trôi dạt có thể nắm lấy và tự kéo mình về thuyền. Place không với tới được dây. Nếu không nắm được dây tag thì khả năng cao là tay lặn sẽ bị lạc. Place nhanh chóng bị bỏ lại phía sau.

Một người trên thuyền chứng kiến cảnh ấy đã báo cho thuyền trưởng Howard Klein. Nhưng khi Klein tới đuôi thuyền thì Place đã mất dạng; không thấy anh ta đâu. Người thuyền trưởng không thể cứ cắt dây neo và lái chiếc Eagle’s Nest đuổi theo tìm vì vẫn còn những thợ lặn khác đang giảm áp dọc trên dây. Thay vào đó, anh chụp lấy điện đài hai chiều rồi chạy vội tới chiếc ca nô hiệu Zodiac để lên đường tìm người thợ lặn bị lạc. Sau vài giây, Klein cũng biến mất trên mặt biển mỗi lúc một hung dữ. Một phút sau, anh điện đàm tới Eagle’s Nest thông báo động cơ gắn ngoài của chiếc Zodiac đã chết. Klein cũng trôi dạt giữa những con sóng ào ạt và chỉ nhìn thấy chiếc thuyền lặn khi lên đến đầu ngọn sóng. Khi đó vợ của Place, cũng là một thuyền viên trên Eagle’s Nest, phát tín hiệu báo nguy qua điện đài. Chị chỉ gọi được duy nhất một thuyền cá cách đó hơn một giờ. Thuyền đó hứa sẽ tìm cách gọi tàu nào gần hơn. Sau đó, không ai có thể làm gì ngoài cầu cho Place vẫn tỉnh táo giữa Đại Tây Dương.

Sau 30 phút, Klein khởi động được động cơ chiếc Zodiac, nhưng khi đó anh đã trôi quá xa và không có hy vọng tìm được Place. Anh về lại thuyền lặn. Ít lâu sau, Eagle’s Nest nhận được điện đài. Một chiếc thuyền cá ở gần hơn đã phát hiện thấy Place: vẫn còn sống và cách thuyền lặn hơn 8 km. Anh đã trôi dạt hơn hai giờ. Lúc này toàn bộ thợ lặn đã quay về thuyền. Khi Klein đến đón Place, anh này khóc nức nở nhưng vẫn lành lặn. Sau vụ đó, thợ lặn trên chiếc Eagle’s Nest bắt đầu tin vào phép màu.

Place chỉ còn mười giây trước khi hoàn thành một cuộc lặn 90 phút để rồi phải cận kề cái chết. Đây là bài học minh chứng cho chân lý cơ bản của môn lặn thám hiểm và định hình cuộc đời của những kẻ mê lặn.

Khi lặn thám hiểm, không ai thực sự an toàn cho đến khi về lại boong thuyền.

12* Dây nối từ đáy lên phao trên mặt nước để giúp thợ lặn kiểm soát vị trí và độ sâu trong quá trình giảm áp (ND).

13* Manifold: van phân phối kết nối hai bình chứa khí thở cho thợ lặn, nhằm cung cấp lượng khí lớn hơn để kéo dài thời gian lặn (BT).

14* Dây nối giữa thợ lặn và dây neo để đảm bảo thợ lặn không lạc ra xa thuyền khi nổi lên (ND).

15* Trang phục lót giữ nhiệt được phân theo trọng lượng từ thấp đến cao là light-weight, medium-weight và expedition-weight (hạng thám hiểm)