← Quay lại trang sách

Chương 15 Kế hoạch táo bạo

KẾ HOẠCH CUỐI CÙNG CỦA CHATTERTON cho U-Gì vừa táo bạo vừa chết chóc. Anh sẽ bơi vào khoang động cơ diezen với chỉ một bình khí trên lưng thay vì hai như thường lệ. Sau đó, anh sẽ tháo bình và chuyển ra phía trước, tương tự cách một đứa trẻ cầm phao khi học bơi và bơi qua khe hẹp giữa két nhiên liệu rơi và trần tàu. Khi đã ở bên kia khoang động cơ diezen, anh sẽ gắn lại bình khí vào lưng và bơi vào khoang động cơ điện kế bên, nơi anh hy vọng sẽ tìm thấy nhãn định danh gắn vào hộp phụ tùng thay thế. Lấy được chiến lợi phẩm xong, anh sẽ bơi ngược về khoang động cơ diezen, đưa hộp qua đầu cho Kohler, lại tháo bình trimix đơn và trườn ra ngoài theo cùng một cách. Chatterton tin chỉ mang duy nhất một bình trimix, rồi tháo nó ra, thì thợ lặn mới có thể đi qua két nhiên liệu đã chắn gần như toàn bộ không gian giữa khoang động cơ điện và phần còn lại của U-Gì.

Kế hoạch trên là một trong bách khoa thư các cách để hy sinh bên trong xác tàu. Chỉ với một bình khí để thở, Chatterton sẽ chỉ có 20 phút cho cả bên trong và bên ngoài chướng ngại vật.

“Quên nó đi” Kohler nói qua điện thoại buổi tối hôm Chatterton tiết lộ kế hoạch. “Đó là kế hoạch điên rồ nhất tôi từng nghe trong đời. Tôi sẽ không chứng kiến anh mất mạng đâu. Tôi sẽ không tham dự vào việc tự sát của anh đâu.”

“Đây là một kế hoạch” Chatterton nói. “Nó có thể thành công.”

“ Đây là sự điên rồ” Kohler nói.

Kohler lấy một quyển sổ ra và bắt đầu viết một danh sách các rủi ro. Phần lớn kết thúc bằng cụm từ “rồi John hết khí và chết đuối”. Danh sách như sau:

− Chatterton có thể bị mắc: vào dây, ống, đồ đạc, thiết bị, kim loại uốn cong, bất cứ thứ gì khác;

− Chatterton có thể bị găm bên dưới mảnh vỡ rơi;

− Một khối máy móc có thể rơi xuống và chặn đường thoát của Chatterton;

− Sử dụng duy nhất một bình khí nghĩa là không còn dự phòng.

Nếu dây cao áp hoặc gioăng chữ O bị hỏng, Chatterton sẽ mất nguồn dưỡng khí duy nhất;

− Rủi ro cao chắc chắn sẽ khiến Chatterton thở gấp hơn thường lệ, có nghĩa anh sẽ đốt nguồn khí vốn đã hạn chế mình có nhanh hơn;

− Khoang động cơ điện sẽ đầy những cáp, dây, máy móc mà chưa thợ lặn nào từng thấy, nghĩa là Chatterton sẽ không có cơ hội để vẽ trong đầu sơ đồ khoang như anh thường làm;

− Không có lối ra ở đầu kia khoang động cơ điện, vì phần hướng đuôi của nó đã bị sập;

− Nước bên trong khoang động cơ điện, do không được thợ lặn hay dòng biển khuấy động, đã ứ đọng 50 năm. Hoạt động của Chatterton bên trong khoang sẽ khuấy bùn nâu và giảm tầm nhìn còn zero;

− Bong bóng khí của Chatterton có thể khuấy động nhiên liệu hoặc dầu lơ lửng trên trần khoang, khiến chúng che mờ mặt nạ và gây mất thị lực và lọt vào miệng anh.

“Bất kỳ thứ gì trong số này cũng có thể lấy mạng anh” Kohler nói. “Nhưng nếu chỉ một thứ xảy ra thì đã là may. Khả năng cao là một đám sẽ đồng loạt tấn công anh và anh còn mất mạng sớm hơn. Và đừng quên nguy hiểm lớn nhất, John.”

“Là gì?”

“Anh sẽ ở trong đó một mình. Dù cho tôi có đồng ý tham gia các kế hoạch điên rồ này, dù cho tôi có đợi anh ở bên ngoài chướng ngại vật, tôi sẽ không thể giúp nếu anh gặp chuyện. Tôi không thể tháo bình khí của mình ra. Tôi còn có con. Tôi còn mấy cái tàu há mồm. Cùng lắm tôi chỉ có thể ngó vào trong và nhìn anh chết đuối.”

“Chúng ta không thể dừng lại lúc này” Chatterton nói. “Tôi đã có kế hoạch. Đây là lý do tôi lặn, Richie ạ. Nghệ thuật là đây.”

“Nó quá nguy hiểm.”

“ Tôi cần anh đi cùng.”

“Tôi rút khỏi chuyện này, John. Tôi đứng ngoài.”

Hai người gác máy. Tin tức về kế hoạch của Chatterton lan trong cộng đồng lặn. Có hai trường phái quan điểm. Bạn của Chatterton, trong đó có John Yurga và Danny Crowell, tuyên bố Chatterton “đã mất trí”. Những người chỉ biết anh thoáng qua thì thoải mái hơn. “Nếu hắn muốn tự sát thì cứ việc” họ nói.

Suốt ba ngày liền Chatterton và Kohler không nói chuyện với nhau. Kohler hình dung về cuộc lặn từ đủ góc độ và nó luôn kết thúc theo cùng một cách: Chatterton sụm xuống chết đuối hoặc bị một khối thép rơi đè lên người, Kohler bất lực không thể bơi qua khe hở để cứu bạn. Nhưng anh cũng nhớ lại một cảnh khác − một cảnh từ chuyến lặn đầu tiên tới U-Gì. Khi đang lơ lửng trong lòng biển, anh đã nghe niềm vui dâng tràn trong lòng khi nhìn thấy túi lưới đầy nhứng đồ sứ của Chatterton và theo phản xạ đã thò tay ra để nhìn kỹ hơn. Chatterton giật túi lại. Hai người khi ấy không ưa nhau, không ưa những điều mà người kia đại diện. Trong một thoáng hai người rơi vào thế bí. Rồi Chatterton dường như hiểu được tấm lòng của Kohler. Vài giây sau, anh đã đưa túi mình cho Kohler xem.

Kohler gọi Chatterton.

“John ạ, tôi lo cho anh đến chết đi được” Kohler nói. “Nhưng chúng ta là đồng đội. Lúc này tôi sẽ không rời bỏ anh.”

“Chúng ta là đồng đội, Richie” Chatterton nói. “Tiến hành nào.”

Lần thử đầu tiên được xếp vào ngày 17 tháng tám năm 1997. Suốt nhiều tuần trước chuyến đi, Chatterton tập các thao tác trong văn phòng, trong gara, khi xếp hàng thanh toán ở siêu thị − tổ hợp động tác kịch câm và ba-lê cho màn độc diễn mà chỉ một sai lầm nhỏ đồng nghĩa với cái chết. Đến lúc này thì việc ly dị của anh đã gần xong. Năm 1991, khi anh khám phá ra U-Gì, anh đã nghĩ rằng cuộc hôn nhân của mình sẽ trường tồn. Giờ Kathy còn không biết tới kế hoạch táo bạo của anh trên U-boat. Có những đêm anh thương tiếc cuộc hôn nhân đến đông cứng người. Những khi ấy, anh tự nhủ “Mình phải quên hết mọi thứ khác để tập trung cho chuyến lặn tới. Mình phải tập trung tuyệt đối. Nếu không tập trung, nếu phân tâm dù chỉ một khắc, mình sẽ không quay về.”

Ngày 17 tháng tám, Chatterton, Kohler và năm thợ lặn thám hiểm hàng đầu khác lên Seeker và ra khơi tới U-Gì. Không ai nói gì mấy trên đường đi. Buổi sáng, Chatterton ôn lại kế hoạch với Kohler. Anh sẽ dành lần lặn đầu để thử nghiệm cảm giác tháo bình khí, đánh giá khả năng thâm nhập vào khoang động cơ điện và tìm hiểu bố trí của khoang. Kohler sẽ lơ lửng gần phần trên của két nhiên liệu bị rơi, rọi đèn pin làm mốc và chờ lấy hiện vật Chatterton có thể sẽ chuyền qua.

“Thống nhất lấy ba làm tín hiệu” Chatterton nói với Kohler trong lúc đeo chân nhái. “Nếu tôi gõ búa ba lần hoặc nháy đèn ba lần hoặc làm cái gì ba lần thì có nghĩa là tôi đang gặp rắc rối.”

“OK, có nghĩa là anh đang gặp rắc rối” Kohler đáp. “Tôi vẫn không thể chui qua khe trên đó để giúp anh. Nên ba cũng có nghĩa là anh sẽ chết.”

“Phải, anh nói đúng. Thôi bỏ đi.”

Mấy phút sau, Chatterton và Kohler đã xuống nước. Chatterton mang tổng cộng ba bình khí: một bình anh sẽ dùng trong khoang động cơ điện, thêm hai bình phụ dành cho đi xuống và lên. Khi các thợ lặn tới được U-Gì, Chatterton đặt bình phụ lên đỉnh xác tàu và chuyển sang thở bình chính.

Các thợ lặn bơi tới két nhiên liệu rơi đang chắn phần lớn khoang động cơ diezen và lối vào khoang động cơ điện kế bên. Chatterton tháo bình khí khỏi lưng và cầm ra phía trước. Kohler bơi lên tới chỗ khe hở giữa két nhiên liệu và trần, cũng là nơi Chatterton sẽ chui qua. Chatterton đá chân nhái, bắt đầu trườn lên trên và về trước. Anh sắp phải nhét bình khí qua khe và khởi động kế hoạch điên rồ của mình, nhưng anh vẫn còn chút thời gian để hạ vai và quay đầu, bỏ lại sau lưng bí ẩn mà anh đã gần chạm vào lời giải. Anh không ngừng đạp. Vài giây sau, anh đẩy bình khí qua khe, cẩn thận không thể nó trượt khỏi tay, rồi luồn người qua. Ở phía bên kia khoang động cơ diezen, anh đeo lại bình khí vào lưng. Chưa thợ lặn nào từng đến phần này của U-Gì. Anh bắt đầu thăm dò.

Đường vào khoang động cơ điện quang đãng. Chatterton bơi qua một cửa chữ nhật dẫn vào khoang. Giờ anh lơ lửng bên trong khoang động cơ điện, nơi anh và Kohler tin là nắm giữ bằng chứng về danh tính con tàu. Bí ẩn sáu năm đằng đẵng thôi thúc anh tiến sâu hơn. Anh kiềm chế thôi thúc ấy. Lần thử nghiệm đã đủ thành công. Anh còn mười phút khí. Anh sẽ dùng nó để làm quen với không gian này. Anh bơi về két nhiên liệu rơi và lại tháo bình khí. Vài giây sau, anh luồn bình khí và thân mình qua khe gần trần tàu và đáp xuống phía bên kia. Ở đó, anh đeo lại bình khí, trườn về nơi cất bình phụ bên trên xác tàu, đổi bộ điều áp. Lúc này anh có dư khí để nổi giảm áp. Kohler lắc đầu trong sửng sốt. Chatterton đã có cuộc thử nghiệm gần như hoàn hảo.

Thời tiết xấu khiến họ không thể lặn lần hai. Chuyến tiếp theo được xếp vào ngày 24 tháng tám năm 1997. Thần kinh của Kohler thả lỏng một chút trong những tuần giữa hai chuyến lặn. Nếu Chatterton có thể lặp lại cuộc lặn thử nghiệm, anh nghĩ, tên khốn đó biết đâu sẽ làm nên chuyện.

Kế hoạch y hệt như chuyến đầu, ngoại trừ một việc: Kohler sẽ đưa Chatterton một máy quay video sau khi anh đi qua chướng ngại vật và đeo lại bình khí. Nhờ đó, Chatterton có thể quay video phục vụ nghiên cứu nếu cần.

Như trước, thao tác bình khí của Chatterton rất mượt mà. Nhưng máy quay mà anh nhận từ Kohler lại không hoạt động. Anh bực bội bơi lên trần khoang để trả nó qua khe cho Kohler. Nhưng lúc này thì anh đã đeo lại bình, khiến anh có phần quá cồng kềnh để tới được khe hở. Chatterton nhìn thấy một rầm thép lớn gần trần − thứ anh có thể vịn vào để kéo mình lên. Anh bám vào thanh rầm và kéo. Thanh rầm rung chuyển rồi rơi ra, va vào lòng Chatterton và quăng anh xuống một trong những động cơ diezen. Tim anh đập thình thịch. Chatterton lệnh cho mình kiểm soát hơi thở. Anh nhìn vào thanh rầm: hai đầu của nó đang kẹt trong đám máy móc xung quanh. Chatterton từ tốn giơ tay ra gỡ khối thép khỏi lòng mình. Khối lượng nó cực lớn, ít nhất cả tạ ở trên bờ. Nhưng anh vẫn xoay xở nâng được nó lên. Nhịp thở của anh tăng lên. Lượng khí còn lại tụt xuống. Anh cố sức hơn. Thanh rầm dịch chuyển vài phân rồi sững lại, giống đai an toàn của tàu lượn siêu tốc trong các khu vui chơi. Chatterton đẩy mạnh hơn nữa. Đồng hồ trên bình khí tụt xuống thấp hơn. Thanh rầm không chịu xê dịch. Chatterton đẩy chân để thoát ra. Anh không thể di chuyển. Anh đã mắc kẹt.

Chatterton bắt đầu nói chuyện với chính mình.

“Hoảng loạn là chết” anh nghĩ. “Nghỉ 30 giây. Thả lỏng một chút. Bình tĩnh lại nào.”

Kohler nhìn vào trong khe. Bùn bốc lên ở khắp nơi. Anh không nhìn thấy gì. Anh vẫn cho rằng Chatterton đang tiến hành lặn như kế hoạch.

“Xử lý vấn đề này” Chatterton tự nhủ. “Người ta chết vì không chịu xử lý ngay vấn đề đầu tiên. Đừng để chúng chất chồng lên nhau.”

Kim chỉ khí của Chatterton quay xuống dưới.

“Cái này đè lên mình” anh nghĩ. “Chỉ cần tìm ra cách mà nó đè lên mình, rồi đảo ngược lại. Bình tĩnh. Đừng gây thêm vấn đề. Chỉ cần đảo ngược.”

Chatterton tua lại cảnh tượng sập rầm vừa rồi trong tâm trí. Trong năm phút anh thận trọng đẩy thanh rầm theo hướng ngược lại. Nó không chịu di chuyển. Anh tiếp tục chú tâm, tua đi tua lại sự cố. Năm phút nữa trôi qua. Vật thể vẫn không nhượng bộ. Bản năng nguyên thủy gào thét trong đầu Chatterton, đòi anh vùng vẫy, giãy giụa, la hét, vật lộn. Anh lệnh cho bản năng mình chờ đợi. Anh vẫn còn năm phút khí thở nữa. Anh sẽ tua lại phim.

Khi chỉ còn vài phút dưỡng khí, Chatterton đẩy thanh rầm lần nữa. Nếu lần này thất bại thì chẳng còn phim để xem nữa. Anh đẩy lên và cảm thấy một đầu trượt ra ngoài. Anh đẩy đầu còn lại. Thanh rầm đổ về trước và trượt khỏi lòng anh. Chatterton đẩy mình lên khỏi động cơ diezen và bơi một cách khẩn trương nhưng không cuống quít về khe hở trên trần. Kim đồng hồ của anh tuột sâu hơn nữa về phía vạch đỏ. Anh tháo bình khí và đẩy nó qua, rồi đạp chân nhái và trườn ra khỏi khoang. Kohler tới chỗ bạn, nhưng anh lùi lại khi thấy Chatterton đi thẳng tới bình khí phụ để trên xác tàu. Chatterton nhanh chóng chuyển sang thở bình phụ. Đồng hồ ở bình chính cho thấy bình gần như rỗng không. Có lẽ anh đã thoát khỏi khoang động cơ diezen khi chỉ còn dưới một phút khí thở.

Trên thuyền, Chatterton kể lại câu chuyện. Danny Crowell − thuyền trưởng hôm ấy − lắc đầu và quay ra nói với một thợ lặn khác. “Nếu là thợ lặn khác thì bây giờ chúng ta đang gọi Tuần duyên để lấy xác rồi” anh nói.

Mặt Kohler trắng bệch. Anh không hề nhận ra Chatterton đã gặp rắc rối.

“Bỏ đi” Kohler nói. “Thật quá nguy hiểm. Toàn bộ kế hoạch này là một sai lầm. John, anh phải nghĩ lại thôi. Chuyện này quá tồi tệ rồi.”

“ Phải sửa máy quay video đã” Chatterton nói, tay thò vào thùng mát lấy một lon soda. “Tôi rất muốn quay video ở lần lặn thứ hai ngày hôm nay.”

Kohler bước ra chỗ khác.

“Thằng điên” anh lầm bầm.

Mấy tiếng sau, Chatterton đã vào lại trong khoang động cơ diezen và Kohler lơ lửng bên ngoài, tiếp tục chờ chỉ để cảm thấy bất lực. Lần này cái máy quay hoạt động. Chatterton đi qua cửa sập chữ nhật vào khoang động cơ điện. Bùn lắng nửa thế kỷ qua dâng lên xung quanh anh. Chatterton nhắm camera về hướng mà nghiên cứu cho thấy sẽ tìm được các hộp phụ tùng thay thế có gắn nhãn định danh. Ở dưới nước, camera luôn có khả năng nhìn tốt hơn mắt người. Khi tầm nhìn về zero, Chatterton ra khỏi khoang động cơ điện, bơi về phía Kohler rồi chuyền máy quay cho anh. Anh tháo bình khí − thao tác anh ngày càng quen thuộc − và ra khỏi khoang động cơ diezen. Anh chưa lấy lên bất kỳ hiện vật nào. Anh suýt mất mạng trong lần lặn đầu. Nhưng giờ thì anh đã có video. Trên thuyền, khi các thợ lặn tháo đồ và thuyền quay vào bờ, anh cảm ơn Kohler đã hỗ trợ.

“Chuyến tiếp theo tôi sẽ lấy được mấy cái hộp” Chatterton nói. “Tôi có linh cảm như thế. Chuyến tiếp theo sẽ nên chuyện.”

Chuyến tàu thuê tiếp theo tới U-Gì được xếp lịch sau đó một tuần vào ngày 31 tháng tám năm 1997. Chatterton dành những ngày trước chuyến đi để nghiên cứu đoạn băng video đã quay. Anh nhìn thấy một chỗ có vẻ có một chồng ba, bốn hộp. Giờ thì anh chắc chắc chuyến lặn tiếp theo sẽ nên chuyện.

Ở nhà, Kohler tranh đấu với chính mình. Người bạn cũng là người đồng đội của anh chỉ còn một phút nữa là chết đuối. Tệ hơn, chủ nhật tới Chatterton sẽ quay lại tìm hộp phụ tùng thay thế. Kohler biết khoang động cơ điện là một khu rừng đầy những dây, ống, kim loại lởm chởm, bùn lắng đầy nguy hiểm. Anh cũng hiểu tấm lòng của Chatterton. Bạn của anh sẽ thà hít cạn khí trong bình chứ không chịu đi ra trắng tay. Bạn của anh sẵn sàng chết trong xác tàu chủ nhật tới.

Kohler quyết định bỏ cuộc. Dù anh có mãn nguyện như thế nào khi được đem đến đáp án cho gia đình các thủy thủ và cho lịch sử, điều ấy cũng không thể xoa dịu sự bất lực của anh trước một người bạn chết đuối.

Nhưng mỗi khi anh nhấc máy để thông báo quyết định của mình, anh lại gác máy xuống. Biết đâu, anh nghĩ, vẫn còn một tình huống tồi tệ hơn là nhìn bạn mình chết trên xác tàu. Khi gần tới ngày Chủ nhật, anh biết tình huống tồi tệ nhất là để bạn mình chết khi anh ngồi nhà ngóng tin tức.

Tối thứ bảy, ngày 30 tháng tám năm 1997, Seeker rời bến tới U-Gì. Chatterton và Kohler không nói gì nhiều với nhau, họ đều biết đây là một ngày trọng đại.

Sáng hôm sau, thời tiết êm đềm hoàn hảo. Trong bữa sáng với ngũ cốc, Chatterton hỏi Kohler đã sẵn sàng nhận những hộp phụ tùng thay thế mà anh kỳ vọng sẽ lấy được và chuyền qua khe hở bên trên két nhiên liệu chưa. Kohler gật đầu. Một giờ sau họ đã ở trong xác tàu. Chatterton tháo bình khí, đưa nó ra trước, vươn người như Siêu nhân, trườn qua khe giữa chướng ngại vật và trần. Kohler bật đèn pin và giơ lên khoảng không làm đèn hiệu để Chatterton quay lại.

Tầm nhìn bên trong khoang động cơ diezen khá tốt. Chatterton đeo lại bình khí và bơi qua cửa sập hình chữ nhật dẫn vào khoang động cơ điện. Quang cảnh y hệt như trong băng video. Anh nhìn về bên phải. Ở đó, xếp thành hình một kim tự tháp, là bốn hộp phụ tùng thay thế với kích thước tăng dần, sau nhiều thập kỷ thì hộp này dính chặt vào hộp kia vì gỉ sét và đóng vảy. Hộp nhỏ nhất chỉ lớn hơn hộp giày một chút. Chúng đích xác là thứ Chatterton cần tìm.

Chatterton nhích về bốn chiếc hộp. Nằm chéo 30 độ bên trên hộp trên cùng là một thứ trông như một đoạn ống dài mét rưỡi, cõ lẽ đã bị gãy khỏi máy móc trong khoang và rơi xuống. Chatterton đẩy nhẹ những cái hộp. Thanh ống đè chặt chúng xuống và không cái gì xê dịch. Anh ấn hai bàn tay kiểu tiền vệ bóng bầu dục vào chồng hộp. Không di chuyển. Giờ anh hiểu là đường ống đã ghim chặt chồng hộp vào một chỗ. Anh lấy con dao và tìm cách nạy cái ống ra. Nó không xê dịch. Bùn cuộn lên ở trên đầu, giảm tầm nhìn về gần không. Chatterton quay lại và ra khỏi khoang. Anh đã hiểu yếu tố cuối cùng của kế hoạch. Anh sẽ phải có biện pháp quyết liệt.

Trên thuyền, Chatterton cập nhật cho Kohler.

“Những chiếc hộp dính chặt vào nhau và bị ghim bằng một cái ống to đùng” Chatterton nói. “Nhưng đó chính là hộp mình cần, Richie ạ. Nếu có nhãn định danh thì chúng ở trên những chiếc hộp đó.”

“Tuyệt” Kohler nói. “Nhưng nếu chúng không chịu nhúc nhích thì anh làm thế nào?”

“Dùng búa tạ. Tôi sẽ mang một cái búa tạ cán ngắn xuống đó. Những chiếc hộp sẽ là của tôi.”

Vung búa tạ ở độ sâu 70 mét là cách tốt nhất để thợ lặn đốt cạn khí. Kohler không buồn phản đối. Chatterton đang thực thi một sứ mệnh nằm ngoài các lời khuyên.

“Tôi sẽ kiếm búa tạ cho anh” Kohler nói.

Bốn tiếng sau, Chatterton và Kohler vỡ nước. Nhẹ nhàng như cởi áo, Chatterton tháo bình khí duy nhất ra và nhét bình khí cùng cái búa và cơ thể anh qua khe hở giữa két nhiên liệu rơi và trần tàu. Bên trong, anh đeo lại bình và bơi về khoang động cơ điện. Kohler theo dõi đồng hồ. Anh lầm bầm một lời cầu nguyện đầy những từ làm ơn.

Chatterton nhanh chóng vào khoang động cơ điện. Khoang vẫn còn mờ mịt bùn nâu từ lần lặn đầu, nhưng anh vẫn thấy được hộp và ống. Cách tiếp cận của anh rất đơn giản: anh sẽ dùng búa để đập cho cái ống rời ra, rồi lấy xà beng nạy những chiếc hộp rời khỏi nhau.

Chatterton trườn đến cách cái ống hơn nửa mét. Anh doãi ngón tay ra đặt trên cán búa. Dùng búa dưới nước đòi hỏi kỹ thuật khác so với trên bờ: thợ lặn sẽ đẩy bằng ngực thay vì dùng lực vung của cánh tay. Anh tì gối trái vào nền trước chồng hộp và bàn chân phải vào máy móc bên kia lối đi. Rồi bằng một thao tác mạnh bạo, dứt khoát, anh đập đầu búa vào đoạn ống dính vào hộp. Chấn động làm rung chuyển cả khoang, các mảnh vỏ hà bắn ra và khuấy lên một cơn lốc gỉ sét. Chatterton bất động. Khi tất cả lắng xuống, anh đứng đó, sững sờ nhìn. Đoạn ống không nhúc nhích. Và nó không phải là ống. Không còn vỏ hà, nó hiện nguyên hình là một bình ôxy nén cao mét rưỡi. Đây là phiên bản khổng lồ của chiếc bình khí mini đã phá nát gara của Chatterton. Việc cái bình không nổ là một phép màu.

“Mình cần ra quyết định” Chatterton nhủ thầm.

Anh xem xét các lựa chọn của mình: chỉ có hai. Anh có thể quay lại và rời khoang. Hoặc anh có thể đập cái bình ôxy khổng lồ thêm lần nữa và anh sẽ phải đập vào nắp − chỗ nguy hiểm nhất − để nó long ra.

“Nếu cái này nổ, mình sẽ không nghe thấy gì” Chatterton nghĩ. “Mình sẽ chết và tan tành trăm mảnh.”

“Nếu đi về bây giờ, mình sẽ còn nguyên vẹn.”

Anh bước lên trước và lấy chân tìm điểm tựa.

Khi mọi thứ dễ dàng thì người ta sẽ không hiểu chính mình.

Anh giơ tay ra nắm lấy cái cán búa tạ dài nhẵn nhụi.

Chính hành động của con người ở thời khắc chật vật nhất mới cho anh ta thấy mình là ai.

Anh nâng búa lên ngang ngực.

Một số người không bao giờ có được thời khắc ấy.

Anh thở một hơi sâu nhất cuộc đời mình.

U-Gì là thời khắc của mình.

Anh lao đầu búa vào nắp bình ôxy.

Hành động của mình lúc này cho thấy mình là ai…

Cái búa tạ đập vào bình. Căn buồng rung chuyển. Bùn bay tứ tung. Chatterton chờ đợi tiếng nổ của một vạn cây thuốc nổ. Anh chỉ nghe thấy tiếng bọt khí thoát ra từ bộ điều áp và tiếng lanh canh của kim loại rơi. Anh nhìn qua màn bùn. Bình khí đã rời khỏi mấy cái hộp. Anh vẫn sống.

“Ôi Chúa ơi” anh nói thành tiếng.

Chatterton tới chồng hộp, kéo cái nhỏ nhất ra và nhét vào túi lưới. Anh kiểm tra đồng hồ: anh còn năm phút. Anh bơi ra khỏi khoang động cơ điện về phía ánh đèn pin của Kohler. Tuy cái hộp khá nặng, anh vẫn chuyền được nó qua khe hở cho Kohler. Kohler lại chuyền nó cho một thợ lặn khác để mang lên thuyền và tìm nhãn. Đáng lẽ Chatterton phải ra khỏi khoang động cơ diezen lúc này, khi anh vẫn còn ba phút. Anh không thể. Hộp đầu tiên hoàn toàn có khả năng không chứa cái nhãn nào. Vẫn còn những hộp khác trong khoang động cơ điện. Anh phải lấy cái hộp thứ hai. Kohler khẩn khoản nháy đèn. Chatterton quay đi.

Một phút sau, Chatterton tìm thấy chiếc hộp thứ hai. Nhưng hộp này nặng hơn hộp đầu, anh không thể cầm nó lên và bơi đến chỗ Kohler. Thay vào đó anh lăn nó ra khỏi khoang động cơ điện. Tầm nhìn giảm còn zero. Chatterton rọi đèn lên đồng hồ nhưng không thấy gì: cả khoang đã đen kịt. Anh hì hục đẩy hộp đi tiếp chỉ để nó gần Kohler thêm chút nữa. Anh áp đồng hồ vào mặt nạ. Anh chỉ nhìn thấy lờ mờ thiết bị báo giờ. Anh đã ở quá thời gian cho phép. Anh bỏ cái hộp lại.

“Mình phải biến khỏi chỗ này” anh nghĩ.

Chatterton bơi lên trần khoang động cơ điện để có thể lần theo cấu trúc trần mà ra ngoài trong không gian đen kịt. Anh điều hướng hoàn hảo, tới được cửa sập dẫn ra khoang động cơ diezen. Anh chỉ còn cách Kohler vài cú đạp chân. Anh bơi lên trước. Đột nhiên đầu anh bị giật lại. Một cái thòng lọng đã tròng vào cổ anh. Chatterton đang bị siết cổ.

Anh thử nhẹ nhàng bơi ngược lại. Anh không thể di chuyển thêm. Trong chuyển động nhỏ vừa rồi, thiết bị trên lưng anh đã mắc vào cáp điện tủa ra từ vách. Anh hiện bị khâu chặt vào con tàu. Chatterton biết anh không có thời gian để thả lỏng và đảo ngược diễn biến, như phải làm trong những tình huống tương tự. Anh biết mình sẽ phải chiến đấu. Tại vị trí của mình, Kohler kiểm tra đồng hồ. Chatterton không phải đã trễ mà là cực trễ.

Chatterton kéo dây thòng lọng quanh cổ và tìm được cách tháo nó ra. Hơi thở anh càng gấp hơn. Anh với tay giằng dây cáp đang mắc vào thiết bị. Không ra. Anh không di chuyển nổi. Anh giật mạnh hơn. Chúng rít lên kháng cự và không chịu giãn ra. Anh dùng hết sức để kéo. Cuối cùng chúng cũng rời ra. Trở về với tự do, anh tìm Kohler. Anh biết rằng chỉ thêm một lần mắc kẹt nữa là anh sẽ chết. Một thoáng sau anh đã tới cái khe. Tất cả những gì anh cần làm là tháo bình và bơi qua khe. Anh hít một hơi khi với tay cầm bình. Không khí nhỏ giọt qua bộ điều áp. Chatterton biết cảm giác này. Anh chỉ còn một hơi thở nữa là cạn khí.

Chatterton tháo bình khí và nhét nó qua khe, rồi tự mình lao qua. Khi sang được phía bên kia, anh hít nhưng không có gì đi ra từ bình. Anh đã cạn kiệt hoàn toàn khí.

Chatterton nhả bộ điều áp ra. Hy vọng duy nhất của anh là bình phụ, nhưng chúng nằm ngoài khoang, bên trên xác tàu, cách ít nhất 15 mét. Anh không dám thở chung khí với Kohler, vì chỉ một sự chậm trễ hay hiểu nhầm trong liên lạc có thể dẫn đến cái chết. Với miệng giờ hoàn toàn hở trong nước biển, Chatterton đạp chân mạnh mẽ và bình tĩnh. Anh đã nhìn thấy người khác vùng vẫy để rồi thiệt mạng. Anh đang cận kề cái chết. Anh sẽ không vùng vẫy.

Chatterton lao ra khỏi khoang động cơ diezen lên đỉnh xác tàu. Sửng sốt trước cảnh tượng bạn mình không có bộ điều áp, Kohler đuổi theo. Phổi của Chatterton gào thét khi các bình dự phòng hiện ra trước mắt. Anh đạp mạnh hơn. Mọi tế bào trong cơ thể anh kêu gào đòi ôxy và chực kéo miệng anh ra để thở. Anh mím chặt miệng. Anh với lấy bình dự phòng. Bằng một thao tác duy nhất, anh lấy bộ điều áp của một trong hai bình, nhét vào miệng và mở van. Khí tươi tràn vào phổi. Chatterton lúc ấy chỉ còn một hơi thở duy nhất.

Mấy giây sau, Kohler đến chỗ Chatterton. Anh nhìn vào mắt Chatterton rồi chỉ vào ngực, ra hiệu “Anh vừa làm tôi lên cơn đau tim. Giờ thì tôi sẽ chết ở đây chứ không phải anh.” Các thợ lặn bắt đầu hành trình dài nổi giảm áp. Trong gần hai giờ, Chatterton chỉ nghĩ về những rủi ro đáng sợ anh đã đối mặt trong khi lặn. Nhiều lần anh nói thành tiếng “Mình sẽ không giờ để chuyện đó lặp lại.” Từ lâu, anh quên khuấy chiếc hộp phụ tùng thay thế đã lấy được. Kohler đã chuyển cái hộp cho một thợ lặn khác để mang lên thuyền tìm nhãn.

Gần cuối quá trình giảm áp, Chatterton và Kohler thấy một thợ lặn khác − Will McBeth − bơi xuống theo dây neo. McBeth đưa cho Chatterton cái bảng y hệt như bảng có chữ “SUB” mà Chatterton đã viết trong chuyến lặn khám phá ra con tàu sáu năm trước. Lần này, tấm bảng có một dòng chữ khác. Lần này, nó đề:

U-Gì đã có tên: nó là U-869. Chúc mừng.

Ở cái tuổi trẻ trung hơn, Kohler hẳn đã nhảy lên hoan hỉ và vỗ lưng Chatterton. Chatterton có lẽ đã giơ nắm đấm mừng chiến thắng. Hôm nay, họ nhìn vào mắt nhau. Rồi, cùng lúc, họ chìa tay ra. Hai người bắt tay. Hôm nay, họ đã tìm thấy một thứ quan trọng. Hôm nay, họ đã có câu trả lời mình kiếm tìm.