Chương 14 Đạn chạy vòng
Kristiansand, Na Uy, ngày 4 tháng 12 năm 1944
MỘT TUẦN RƯỠI sau khi rời nước Đức, chỉ huy trưởng Neuerburg và U-869 cập bến thành phố cảng Kristiansand ở miền nam Na Uy để nạp nhiên liệu và nhu yếu phẩm. Chất đầy quân nhu, chiếc U-boat giờ có thể tham chiến ở bất kỳ đâu trên Đại Tây Dương. Nhiệm vụ đầu tiên của Neuerburg là men lên phía bắc dọc bờ biển Na Uy, sau đó ra ngoài khơi Đại Tây Dương qua khe giữa Iceland và quần đảo Faeroes. Anh sẽ chờ lệnh tiếp theo – mệnh lệnh tác chiến – khi con tàu ra đến ngoài khơi. Liên lạc điện đài giữa U-boat và bộ tư lệnh sẽ được giảm đến mức tối thiểu. Ở thời điểm này trong cuộc chiến, ngay cả những động tĩnh nhỏ nhất từ một U-boat cũng có thể bị quân Đồng Minh nghe lén.
Ngày 8 tháng 12, động cơ diezen của chiếc U-boat được khởi động và con tàu rời khỏi căn cứ U-boat ở Na Uy. Trong ba tuần, nó men theo bờ biển Na Uy và đi tiếp ra Đại Tây Dương, hầu như không có lúc nào ngoi lên khỏi mặt nước nhằm tránh tuần không và chiến hạm của Đồng Minh. Ngày 29 tháng 12, bộ tư lệnh truyền lệnh tiếp theo qua điện đài. U-869 sẽ tới ô tọa độ hải quân CA 53, với tâm cách New York khoảng 165 km về phía đông nam. Neuerburg được giao phó sứ mệnh có lẽ là cao cả nhất dành cho một U-boat: U-869 đã được cử đi tấn công Hoa Kỳ.
Chiếc U-boat chạy về phía tây. Theo điều lệnh, Neuerburg sẽ phải gửi một báo cáo hải trình ngắn qua điện đài về bộ tư lệnh sau khi U-869 ra được ngoài khơi Đại Tây Dương. Vốn chịu trách nhiệm theo dõi hành trình dự định của U-869, bộ tư lệnh dự kiến nhận được báo cáo đó muộn nhất là vào ngày 29 tháng 12. Không có báo cáo nào được gửi về. Vào ngày 30 tháng 12, bộ tư lệnh yêu cầu báo cáo. Họ vẫn không nhận được báo cáo nào. Bộ tư lệnh bắt đầu có “quan ngại” theo ghi chép trong nhật ký của các sĩ quan ở đó, tuy họ chưa coi sự im lặng này có nghĩa là đã mất U-869. Mùng 1 tháng một năm 1945, bộ tư lệnh yêu cầu báo cáo vị trí từ U-869 bằng mệnh lệnh quyết liệt. Họ không nhận được phản hồi. Bộ tư lệnh gửi yêu cầu thêm lần nữa và lại không được phản hồi từ chiếc tàu ngầm. Lúc này thì bộ tư lệnh hết sức quan ngại.
Bộ tư lệnh không rõ vì sao họ không nhận được tin từ U-869. Bốn giả thuyết khả dĩ đã được đưa ra. Đầu tiên là Neuerburg từ chối sử dụng điện đài chỉ vì sợ bị Đồng Minh phát hiện. Giả thuyết này có lẽ khó xảy ra vì các chỉ huy phải bất đắc dĩ mới lờ đi các yêu cầu khẩn cấp như vậy từ bộ tư lệnh. Thứ hai là thiết bị điện đài của U-869 có trục trặc, khiến việc nhận và/hoặc truyền tín hiệu không thực hiện được. Thứ ba là vấn đề khí quyển, vốn thường gặp ở khu vực ấy trên Đại Tây Dương, làm nhiễu tín hiệu điện đài. Thứ tư là con tàu đã bị tiêu diệt.
Trong vài ngày tiếp theo và có lẽ với ngôn từ ngày càng khẩn thiết, bộ tư lệnh yêu cầu báo cáo vị trí từ U-869. Vào ngày mùng ba tháng một, bộ tư lệnh ghi chú họ có “quan ngại nghiêm trọng” về sự im lặng của U-869. Cùng thời gian đó, tình báo Đồng Minh nghiên cứu các tín hiệu điện đài bắt chặn và nhận định như sau: “Một U/Boat (U-869) ước tính đang ở trung bắc Đại Tây Dương đã nhận lệnh tới một điểm cách luồng New York 120 km về phía đông nam.”
Đến ngày 6 tháng một, bộ tư lệnh hẳn đã để tang U-869. Trong hầu hết trường hợp, nếu một U-boat trễ báo cáo năm ngày thì nó coi như đã mất. Tuy nhiên, bộ tư lệnh vẫn khẩn thiết yêu cầu U-869 trả lời. Ngày hôm đó, như một kỳ tích với bộ tư lệnh, U-869 gửi vị trí của mình qua điện đài. Tuy các sĩ quan của bộ tư lệnh hết sức vui mừng, họ cũng cảm thấy khó hiểu. U-869 hiện ở ô tọa độ hải quân AK 63, cách Iceland khoảng 900 km về phía tây nam. Chiếc U-boat, họ ghi chú trong nhật ký, “đáng lẽ phải ở cách xa hơn rất nhiều về phía tây nam”. Khi đó bộ tư lệnh có thể đã nhận ra Neuerburg đã có một quyết định lớn và táo bạo, một quyết định có lẽ không được lòng họ. Thay vì đi qua khe giữa Iceland và quần đảo Faroe – tuyến đường trực tiếp nhất từ Na Uy ra khơi Đại Tây Dương, anh đã đi tiếp rất xa về phía bắc, sau đó vòng qua Iceland trước khi chạy về hướng tây nam qua eo biển Đan Mạch. Không khó hiểu vì sao Neuerburg chấp nhận tiêu tốn nhiên liệu và thời gian vào tuyến đường dài: tàu và máy bay Đồng Minh ít tuần tiễu trên eo biển Đan Mạch hơn. Tuy một chỉ huy tàu được phép linh hoạt ra quyết định, bộ tư lệnh không bao giờ có cảm tình với việc đó: thêm một ngày di chuyển là bớt một ngày tham chiến. Mặt khác, đoàn thủy thủ của Neuerburg hẳn đã cảm tạ người chỉ huy của họ. Động thái đáng kể đầu tiên của anh trong chiến tranh là nhằm bảo vệ lính của mình. Điều không một ai, từ Neuerburg, đoàn thủy thủ đến bộ tư lệnh, biết là các chuyên gia giải mã của Đồng Minh đã bắt chặn liên lạc của họ và biết họ đang ở đâu.
Quyết định đi đường vòng qua eo biển Đan Mạch của Neuerburg khiến các chiến lược gia của bộ tư lệnh trở tay không kịp. Khả năng cao là họ ước tính anh đã đốt thêm ít nhất năm ngày nhiên liệu vì đi đường vòng, nghĩa là con tàu sẽ mất 100 ngày cho 14 ngày ngoài khơi New York – một tỷ lệ không thể chấp nhận được. Bộ tư lệnh yêu cầu báo cáo tình trạng nhiên liệu. Một lần nữa, họ lại không nhận được phản hồi nào từ U-869 “dù đã yêu cầu liên tục”. Vì Neuerburg cho thấy anh sẵn sàng sử dụng điện đài và điện đài có vẻ cũng đôi lúc có hoạt động, bộ tư lệnh hẳn đã đổ lỗi cho điều kiện khí quyển làm gián đoạn liên lạc với U-869. Không muốn chờ báo cáo nhiên liệu thêm nữa, bộ tư lệnh gửi lệnh mới qua điện đài cho Neuerburg: U-869 sẽ đổi hướng và hướng về Gibraltar để tuần tiễu bờ biển châu Phi. Bằng cách thay đổi hành trình của con tàu từ New York sang khu vực hoạt động gần hơn, bộ tư lệnh có thể kéo dài thời gian tuần tiễu của U-869.
Bộ tư lệnh không trông đợi U-869 sẽ khẳng định đã nhận lệnh. Việc Neuerburg dùng điện đài chỉ để xác nhận chỉ thị là quá nguy hiểm. Do đó, bộ tư lệnh cho rằng Neuerburg đã nhận được lệnh và bắt đầu theo dõi hành trình của U-869 đến Gibraltar, tính toán rằng con tàu sẽ tới đó khoảng ngày mùng 1 tháng hai. Nếu nhận được lệnh, Neuerburg chắc chắn sẽ tuân thủ. Tuy chỉ huy có thể linh động lựa chọn tuyến đường nhưng anh ta sẽ không thể linh động nếu nhận lệnh trực tiếp. Dù do vấn đề khí quyển hay thiết bị, gần như chắc chắn U-869 chưa từng nhận được lệnh mới đến Gibraltar. Neuerburg tiếp tục hướng về New York.
Tuy thế, Đồng Minh đang bắt chặn hầu như mọi liên lạc. Vào ngày 17 tháng một, tình báo của họ viết: “Chiếc U/Boat đang hướng đến luồng New York – U-869 (Neuerburg) – hiện ước tính cách Flemish Cap 290 km về phía nam đông nam… Tàu dự tính sẽ đến khu vực New York đầu tháng hai.”
Ngày 25 tháng một, tình báo Hoa Kỳ chốt nhận định: “Một U/ Boat có thể ở phía nam Newfoundland hướng về luồng New York, tuy vị trí tàu không được xác định rõ do có chỉ thị lẫn lộn và bộ tư lệnh cho rằng tàu đang hướng về Gibraltar”.
Sau đó, bằng ngôn ngữ chiến tranh thực tế đến lạnh lùng, tình báo Hoa Kỳ đưa ra kế hoạch xử lý U-869: “USS Core sẽ bắt đầu rà tìm U/Boat này ngay trước khi đối phó với các U/Boat quan trắc thời tiết ở bắc Đại Tây Dương.”
Hoa Kỳ sẽ phái một nhóm tìm-diệt đến tiêu diệt U-869. Họ biết con tàu đang hướng về đâu.
Suốt thời gian đó, Neuerburg và các thủy thủ tiếp tục hành trình dài tới New York. U-boat ít khi bị quấy rối khi ở ngoài khơi Đại Tây Dương. Các nhóm tìm-diệt thường đợi chúng đến những vùng nước nông gần bờ, nơi U-boat khó chạy trốn hơn. Để giết thời gian, các thủy thủ có lẽ đã tổ chức một giải đấu cờ đam, hội thơ con cóc hoặc thi nói dối, tương tự như trên các chuyến tuần U-boat khác. Một người có thể thua hết khẩu phần cả ngày nếu không biết mình biết người. Hoặc có lẽ họ đã tuyển chọn một linh vật. Có U-boat từng chọn một con ruồi, đặt tên nó là Emma và cả tàu hết sức quan tâm theo dõi sinh hoạt hằng ngày của nó.
U-869 khả năng cao đã tiếp cận ven biển Hoa Kỳ vào đầu tháng hai. Từ thời điểm đó, Neuerburg chắc chắn giữ tàu dưới mặt nước toàn thời gian, sử dụng ống thở để lấy không khí nhằm chạy động cơ diezen dưới nước. Lúc này thì nhóm tìm-diệt của Hoa Kỳ đã bắt đầu truy tìm U-869. Biết rõ khả năng dò tìm và rình rập U-boat của Đồng Minh, Neueuburg chắc chắn đã điều khiển tàu một cách vô cùng kín đáo. Nhóm tìm-diệt không tìm thấy gì ngoài hàng sải nước biển trống không.
Giờ thì U-869 đã ở trong lãnh hải Mỹ và nhắm về luồng cảng New York. Mục tiêu của Neuerburg sẽ là bất cứ tàu địch nào mình gặp. Thần kinh của các thủy thủ hẳn là căng như dây đàn vì họ biết cơ hội của mình được bao nhiêu. Một ngày trôi qua, hoặc vài ngày trôi qua. Rồi, qua đường chỉ chữ thập trên kính tiềm vọng, Neuerburg hẳn đã phát hiện một tàu địch. Khi ấy, anh sẽ lệnh cho lính của mình vào vị trí chiến đấu. Các thủy thủ sẽ giữ im lặng. Từ lúc này, mọi mệnh lệnh sẽ chỉ được thì thầm.
Khi U-869 trườn về trước với tốc độ khoảng hai nút, các thủy thủ chắc đã nghe được tiếng nước bên ngoài tàu, tiếng ro ro của động cơ điện, thậm chí cả tiếng chân vịt của tàu địch xa xa. Còn lại đều im ắng. U-869 đã sẵn sàng đột kích. Lúc này, Neuerburg, Brandt và các thủy thủ còn lại đã biết chắc một số điều. Họ biết nước Đức thua cuộc chiến này. Họ biết các U-boat không quay về nữa. Họ biết chính Neuerburg, chứ không phải bộ tư lệnh, mới quyết định khi nào chuyến tuần của U-869 sẽ chấm dứt.
Không ai biết Neuerburg đang nghĩ gì. Anh vẫn giương kính tiềm vọng. Các thủy thủ vẫn nguyên vị trí chiến đấu. Vài giây sau, Neuerburg thì thầm một lệnh như thế này bên trong chiếc vỏ sắt hình xì gà của U-869:
“Ống một sẵn sàng… bắn.”