Phỏng vấn Richie Kohler và John Chatterton ROBERT KURSON (thực hiện)
Robert Kurson: Bắt đầu từ Bill Nagle nhé. Anh ấy là nhân vật rất quan trọng trong những chương đầu của cuốn sách và, tôi biết, là người quan trọng với cả hai anh. Không biết giờ đây, khi anh ấy đã mất gần mười năm, các anh vẫn còn cảm thấy nhớ Nagle không.
Richie Kohler: Chắc chắn rồi, Rob. Với tôi, Bill là đại diện cho tất cả những gì tôi yêu ở môn lặn tàu đắm. Anh ấy biết cách tiệc tùng, biết tận hưởng thời gian trên thuyền. Không những thế, anh ấy đón chào thử thách của việc đẩy lùi giới hạn. Anh ấy không thích những thứ tầm thường, những chuyến đi trong ngày và luôn nhìn xa trông rộng. Ở buồng lái trên thuyền anh ấy còn đóng một tấm biển đề “Hướng về tâm của Mặt trời” câu đó phản ánh tương đối đầy đủ về con người anh. Tôi nhớ anh ấy.
John Chatteton: Tôi đã nhớ Bill Nagle ngay khi anh còn sống. Tôi muốn nói rằng đây là một người tôi biết trên tư cách một thợ lặn và là người bạn tốt. Bệnh nghiện rượu trầm trọng đến nỗi tôi hầu như không nhận ra anh ấy trong mấy năm cuối đời nữa. Bill chắc chắn sẽ rất trân trọng việc con tàu cuối cùng cũng được định danh, chuyện đó đã khó khăn nhường nào. Đây đích thị là thử thách Bill Nagle quan tâm. Richie ạ, khi anh nói về Bill Nagle và buồng lái… đúng là anh ấy đề “Hướng về tâm Mặt trời” tức là một lời hát của Pink Floyd, nhưng anh ấy sai chính tả từ “hướng” thành “h-ó-n-g”.
Kohler: Trước đó anh có nhắc đến một việc… là anh ấy rất muốn định danh con tàu đắm này. Anh chắc nhớ mỗi lần lặn anh ấy đều mong chúng ta tìm được câu trả lời. Bill còn vắt người qua lan can chờ chúng ta lên. Và có nhớ anh ấy đã bực bội thế nào khi chúng ta đi lên tay trắng không…
Chatterton: Tất cả những gì Bill Nagle quan tâm ở môn lặn đều quy tụ về những gì chúng ta làm với U-869.
Kurson: Tôi vẫn không thể bỏ qua được bao rủi ro các anh chấp nhận khi tìm lời giải cho bí ẩn này. Khi nghĩ lại, có ai trong hai người hối tiếc vì rủi ro mình đã đương đầu không?
Chatterton: Anh biết đấy, rủi ro là một phần cốt yếu của lặn. Nó là thách thức và thách thức xét cho cùng chính là việc xử lý được một mức độ rủi ro nhất định. Chắc chắn là sẽ có lúc anh nói: “Hừm, nhờ thế mình đã được một bài học. Mình sẽ không làm vậy nữa.” Nhưng cũng có những lúc anh nói: “Đây chính là con đường đúng đắn.” Cho nên quan trọng là phải thử nghiệm, thử những cái mới, phát triển những kỹ thuật mới. Và anh sẽ tìm được cái gì là thực sự hiệu quả và cái gì là cái khiến anh nói: “Mình sẽ coi đây là một định nghĩa mẫu mực về việc cần tránh.”
Kohler: Tôi nghĩ là John có khuynh hướng chấp nhận mạo hiểm và liều mình hơn, còn tôi thì thực tiễn hơn. Khi nhìn lại, tôi nghĩ việc lặn bằng không khí thường có lẽ là chuyện mạo hiểm nhất tôi từng làm trong xác tàu đắm đó. Tuy tôi có căng thẳng và tim muốn nhảy khỏi ngực khi thâm nhập vào, tôi luôn biết tôi có thể nhắm mắt và tìm đường ra theo đúng nghĩa đen. Và nhờ thế tôi thấy nhẹ nhõm. Tôi chưa từng bao giờ cảm thấy mình sẽ bị lạc. John luôn tìm tòi ứng dụng công nghệ mới: Mình có thể làm điều này tốt hơn bằng cách nào? Tôi thì luôn nói: “Đây là thứ có hiệu quả, vốn luôn có hiệu quả, mình được an toàn. Mình sẽ trung thành với nó. Mình sẽ để người khác liều lĩnh và khai phá lối đi mới, rồi mình sẽ theo chân họ.”
Chatterton: Đúng như thế đấy. Chúng ta luôn làm việc trong một vùng an toàn nào đó. Chỉ khác ở chỗ ta xác định ranh giới cho vùng an toàn như thế nào thôi.
Kurson: Anh biết đấy, John ạ, tôi viết về việc anh là một trong những người đầu tiên sử dụng trimix – thứ khí được coi là ma thuật thời đó, còn Richie thì thận trọng hơn và chờ một thời gian trước khi chấp nhận. Hôm nay, tôi lại được biết anh đang dùng một thiết bị gọi là rebreather (thiết bị thở tái tuần hoàn) để tăng hiệu quả hơn nữa trong nước, trong khi Richie chưa chấp nhận. Anh có thể cho tôi biết rebreather là gì và vì sao nó lại nguy hiểm như thế? Gần đây có rất nhiều thương vong liên quan đến rebreather phải không?
Chatterton: Rebreather là thiết bị tái sử dụng khí ta thở ra. Nói cách khác, thay vì thoát ra thành bong bóng trong môi trường dưới nước, khí ta thở ra sẽ đi qua một hệ thống khép kín. Tay lặn hít vào và thở ra, nhưng không có bong bóng nào hết. Tất nhiên là có những rebreather tiên tiến, tự động và có những rebreather thủ công, cơ bản. Nhưng thường thì thợ lặn hoặc máy điện toán sẽ bổ sung một lượng ôxy nho nhỏ để bù vào lượng ôxy mà cơ thể tiêu thụ và đâu đó trong mạch vòng có một thiết bị hấp thụ cacbon dioxit mà cơ thể tạo ra. Anh có thể sử dụng một lượng khí rất nhỏ thay vì lượng lớn dùng trong thiết bị tuần hoàn. Về mặt hậu cần mà nói thì đây là lợi thế lớn.
Kurson: Nhưng nếu nhiều người đã chết khi sử dụng nó thì sao anh vẫn dùng?
Chatterton: Thì cũng có nhiều người chết khi dùng trimix đó thôi. Thay đổi là thế. Đó là quá trình tiếp thu một công nghệ mới nên đương nhiên là có thách thức. Nếu anh không cẩn thận với công nghệ rebreather, nó sẽ giết anh trong nháy mắt.
Kohler: Tôi không có ý xen vào, nhưng anh nói nhiều có người chết khi lặn với trimix. Họ không chết vì trimix. Họ chết vì tai nạn khi lặn.
Rất nhiều thương vong với rebreather phát sinh từ lỗi cơ khí hay lỗi vận hành. Nó là một hệ thống bơm rất phức tạp và càng phức tạp thì càng dễ hỏng hóc. Khi tôi lặn kiểu tuần hoàn, tức là dùng bình khí cơ bản, tôi bơm vào bình cái gì thì tôi thở cái đó. Nhưng rebreather thì không thế. Có quá nhiều biến số. Tay lặn có thể mắc lỗi. Người vận hành có thể mắc lỗi về loại khí bơm vào. Nếu có gì đó ngăn quá trình bơm, anh sẽ không còn biết mình đang thở cái gì nữa. Anh có thể theo dõi nó, nhưng con số tử vong cao cho thấy vẫn còn những vấn đề cần được xử lý. Thế nên tôi vẫn tránh công nghệ đó.
Chatterton: Và nhiều người khác cũng thế. Làm tôi nhớ đến cảnh dân làng tập trung ở quảng trường, tay cầm đuốc sẵn sàng thiêu sống những kẻ dị giáo.
Kurson: Một trong những bất ngờ lớn nhất trong cuốn sách là việc các anh phát hiện ra lịch sử thành văn có sai sót và rằng lịch sử thành văn cũng có thể nhầm lẫn. Có anh nào nhìn nhận lịch sử thành văn khác đi sau trải nghiệm ấy không?
Kohler: Chắc chắn rồi, đặc biệt là về cuộc chiến bằng U-boat. Cuối cuộc chiến, thực sự các thẩm định viên chỉ muốn về nhà và với các U-boat vẫn còn mất tích trên biển, dù muốn dù không họ sẽ nhanh nhanh chóng chóng vẽ ra cho chúng một số phận. Và không chỉ ở Thế Chiến II đâu. Từ những năm 1990 trở về trước nữa. Nhưng tôi muốn nói chủ yếu về các tàu hơi nước và tàu kim loại khác vẫn còn tàn tích đâu đó ở dưới đáy biển. Có đến hàng ngàn (theo đúng nghĩa đen) xác tàu đang chờ được phát hiện mà chưa được biết tới. Mỗi khám phá sẽ viết lại lịch sử theo cách nào đó.
Chatterton: Tôi nghĩ bài học lớn nhất của tôi từ toàn bộ dự án này là lịch sử là một công trình dở dang. Sau khi định danh được con tàu, tôi nhận ra là có những người luôn cố kiểm soát và thao túng lịch sử. Đương nhiên các thẩm định viên tuy đúng là rất muốn xong việc sớm để về nhà, không quyết định tất cả. Chính phủ các nước Đồng Minh không muốn họ nắm được thông tin giải mã Enigma, nên về cơ bản, việc ghi chép lịch sử đã bị các thế lực thời ấy chi phối. Thế nên hiện nay, hơn nửa thế kỷ sau, chúng ta đang có những cái nhìn đầu tiên về một số khía cạnh lịch sử.
Kurson: Trong hai anh có ai còn lặn xác U-boat đắm đó không? Nếu không thì vì sao?
Chatterton: Tôi quay về U-boat ấy một lần kể từ khi chúng tôi định danh nó và mục đích là để đặt vòng hoa lên xác tàu đắm. Tôi cảm thấy mình đã làm tất cả những gì cần làm. Giờ không còn gì cho tôi làm ở đó hết. Khi còn chưa xong việc với nó, tôi chỉ ước định danh được con tàu luôn để không phải quay lại đó nữa. Bây giờ đã định danh được nó thì tôi không cần quay lại nữa.
Kohler: Tôi vẫn hành hương tới đó mỗi năm một lần. Nó như kiểu một người bạn cũ. Tôi thường tha thẩn quanh đống tàn tích. Tôi có hy vọng nho nhỏ một ngày nào đó tôi có thể tìm thấy và chụp ảnh quả ngư lôi. Tôi vẫn thích lặn xác tàu đắm đó, vẫn là một điểm lặn đầy thách thức. Tôi chỉ dạo chơi quanh đó và không đi vào trong, tôi không định tìm hiện vật. Tôi chỉ thích ngắm nhìn nó và lọ mọ trên nền cát.
Kurson: John này, chúng ta đã nói chuyện rất nhiều về quãng thời gian của anh ở Việt Nam khi còn trẻ và có những chuyện tôi nghĩ là anh không dễ kể lại. Anh có cảm thấy khó khăn với đề tài đó không và bây giờ anh còn cảm thấy khó khăn khi hồi tưởng không?
Chatterton: Phải. Tôi không thích trưng ra ký ức về Việt Nam. Có một quãng thời gian tôi nghĩ về Việt Nam hằng ngày nhưng đã qua rồi. Tôi mừng là tôi không phải bận tâm đến nó mỗi ngày nữa. Với tôi thì không dễ để tách bạch Việt Nam khỏi tư tưởng cá nhân về chính trị và khi nhìn vào Hoa Kỳ ngày nay, tôi có hồi tưởng lại không chỉ trải nghiệm của riêng tôi ở Việt Nam, mà còn là trải nghiệm của cả đất nước chúng ta ở Việt Nam. Cuộc phỏng vấn với anh là lần đầu tiên tôi thực sự ngồi xuống và nói đến chủ đề ấy. Khó khăn ư? Có. Nhưng tôi nghĩ bằng cách nào đó, tôi đã sống sót ở Việt Nam và tình trạng của tôi khi ra khỏi cuộc chiến tốt hơn nhiều người khác. Tôi chắc chắn rằng nhiều người sẽ đá đít tôi và mắng: “Bỏ qua đi, đừng lấn cấn nữa.”
Kurson: Các thuyền lặn và thuyền trưởng thuyền lặn có còn ganh với nhau không? Đó là một trong số những điều khiến tôi ngạc nhiên nhất và không biết liệu những cuộc đua tranh đó vẫn tiếp diễn đến ngày nay không?
Kohler: Tất nhiên rồi. Không những các cuộc ganh đua cũ vẫn còn nóng hổi, mà các cuộc mới cũng ra đời. Tôi nghĩ đó là chuyện dĩ nhiên đối với một cộng đồng nhỏ. Có những cãi vã nhỏ nhặt. Có những tranh cãi về chuyện kinh doanh. Ngay khi Bill Nagle qua đời, tôi tin chắc rằng Steve Bielenda sẽ tìm được mục tiêu khác để gây căng thẳng. Có những vấn đề nóng bỏng trong cộng đồng lặn tàu đắm vùng đông bắc. Khi nói chuyện với người nước khác, tôi thấy chỉ có ở đây mới có chuyện như thế. Tất nhiên là ở châu Âu, ở Anh đó, cũng có vấn đề riêng, bên phía California cũng có vấn đề, nhưng không có gì sánh nổi những mối nợ máu huyền thoại trong cộng đồng lặn tàu đắm ở miền đông bắc này.
Chatterton: Tôi nghĩ chuyện ganh đua là chính, còn chủ đề ganh đua là phụ! Là phụ thật đấy. Tôi nghĩ vẫn còn nhiều chuyện inh ỏi. Tôi không còn quan tâm đến mấy chuyện đó lắm, nhưng tôi dám chắc là vẫn có. Tôi nghe được là “Tay này đang điên tiết với tay kia” hay “Billy quấy nhiễu tôi”… kiểu kiểu như thế.
Kurson: Hai anh có ai cảm thấy bất ngờ khi đọc những đoạn trong sách về người còn lại không?
Chatterton: Khi đọc, tôi hiểu được nhiều điều về cội rễ của Richie và cách anh ấy nhìn nhận mối liên hệ giữa bản thân và những người Đức khác. Đối với anh ấy đó là chuyện không nhỏ.
Kohler: Đọc sách xong tôi nghĩ thầm: Tay này đúng là một người hùng. Tôi đã biết John nhiều năm nay và tôi biết anh ấy đã ở Việt Nam. Tôi đã chứng kiến anh ấy cố cứu Chris Rouse trong tuyệt vọng. Tôi chứng kiến anh ấy đeo ống nghe trên cổ, theo dõi diễn tiến của Lew Kohl trên thuyền sau khi cú lặn cắm. Tôi biết anh ấy từng là y sĩ ở Việt Nam. Tôi biết anh ấy có chuyên môn y tế và tôi biết một người cực tếu táo giây trước giây sau có thể trở nên hết sức nghiêm túc về tính mạng của một con người khác. Nhưng đến khi đọc câu chuyện về anh ấy ở Việt Nam tôi mới biết, anh ấy chẳng bao giờ nói về chuyện đó. Và chúng ta đang nói về một người mà, đến tôi cũng ngạc nhiên, đã dang tay ra với tôi khi chính anh đang trong giai đoạn đen tối của cuộc đời, khi hôn nhân của anh đang đổ vỡ. Tôi không bao giờ nghĩ anh ấy sẽ làm thế. Nhiều khi mình cứ nghĩ người khác không có bí mật. Nhưng chuyện đó khiến tôi… nói sốc thì không đúng… nhưng tôi đã rất bất ngờ, vì rõ ràng chuyện đó có tác động lớn đến cuộc đời anh ấy.
Kurson: Richie này, anh luôn coi trọng việc giải đáp bí ẩn và xác định danh tính các thủy thủ, trả lại tên tuổi cho họ và khép lại vấn đề cho gia đình họ. Anh còn giữ liên lạc với các gia đình ấy không, hay anh đã xong việc khi kết thúc chuyến lặn?
Kohler: Tôi sẽ đi từ đầu. Tôi bắt đầu lặn xuống con thuyền đó vì tôi muốn kiếm một cái đĩa. Tôi muốn có một hiện vật. Và thay đổi diễn ra trong tôi hết sức từ từ. Mấy ai nhìn thấy di thể người trong tàu đắm. Nhưng khi anh đi vào các khoang bên trong tàu ngầm, anh không thể không thấy di thể. Xác người khắp nơi. Rồi điều này bắt đầu tắc động lên tôi và bằng cách nào đó, như một cái bóng quá khứ, cội rễ Đức của tôi bắt đầu sống dậy và tôi cảm thấy tôi nợ họ điều gì đó. Xác định danh tính con tàu xong, chúng tôi cũng tìm được một người ở ngay Hoa Kỳ đây, là em gái của một thủy thủ. Tên cô ấy là Barbara Bowling và anh của cô – Otto Brizius – đã làm việc trên U-869. Tôi gặp cô ấy và đó là lần đầu tiên tôi tiếp xúc trực tiếp với một người sống có mối liên hệ với con tàu. Tôi cùng cô Bowling tới Đức và gặp các gia đình khác.
Đến hôm nay tôi vẫn giữ liên lạc với hầu hết trong số họ. Tôi đưa cho mỗi người một ảnh chụp vòng hoa tưởng niệm mà chúng tôi đặt lên con tàu đắm. Và tôi cũng giữ liên lạc với thủy thủ sống sót là Herbert Guschewski.
Kurson: Có điều gì vẫn là bí ẩn với các anh về con tàu không?
Chatterton: Chắc chắn rồi. Tôi nghĩ khó có thể phản bác giả thiết một ngư lôi dẫn hướng bằng âm thanh T-5 đã đánh đắm con tàu. Nhưng nếu tàu đã phóng ra một ngư lôi dẫn hướng bằng âm thanh T-5 nhắm vào mục tiêu thì mục tiêu đó là gì?
Kohler: Vẫn còn một, hai điều ám ảnh tôi, mà tôi nghĩ chúng ta sẽ chẳng bao giờ làm rõ được. Điều đầu tiên là ở boong trên, có một hộp chứa xuồng cứu hộ mở một phần. Nhìn vào nó sẽ thấy trên hộp có đai ốc tai hồng và đó không phải là thứ tự nhiên vặn là ra. Với tôi thì điều đó có nghĩa là chắc ai đó đã cố mở nó ra. Có những hiện vật khác John Yurga tìm thấy ở bên ngoài, ở mặt trên xác tàu. Tất cả đều là bí ẩn. Con tàu đã nổi trên mặt nước sao? Ai đó đã thoát ra sao? Ai đó đã tìm cách dùng xuồng cứu hộ sao?
Chatterton: Chính vì thế mà lịch sử là một công trình dang dở. Anh biết đấy, có lẽ có những điều có thể được làm sáng tỏ. Nhưng với đa số thì tôi nghĩ là cả đời của chúng ta cũng sẽ không có câu trả lời.
Kurson: Số phận xác tàu này sẽ như thế nào? Liệu nó có tồn tại vĩnh viễn không? Xác tàu có hỏng không và có nhanh không?
Kohler: Ai cũng biết câu chuyện Titanic và cảm thấy rất ngạc nhiên khi xem đoạn phim của TS. Ballard quay phần mũi tàu còn tương đối nguyên vẹn nằm trên đáy biển. Người ta cảm thấy ngạc nhiên với cảnh đó và nghĩ các xác tàu sẽ trường tồn như lăng mộ. Nhưng không phải thế. Chiếc U-boat nằm nông hơn nhiều, chịu bão và các điều kiện khác cùng nồng độ muối cao và tất cả các yếu tố đó tổng hợp lại khiến lớp vỏ thép bị gỉ sét ở tốc độ chóng mặt. Không những thế, lưới và cáp từ các thuyền cá đôi khi vô tình quét vào con tàu, xé từng mảnh ra rồi kéo đi. Cuối cùng sẽ chẳng còn gì ngoài vết gỉ sét trên đáy biển. Tất cả các con tàu đắm sẽ quay lại với tự nhiên và, tôi không muốn mở miệng ra là Kinh Thánh, nhưng cát bụi lại về với cát bụi. Tôi đoán có lẽ trong vòng một 200 năm nữa sẽ chẳng còn gì ngoài thủy tinh và sứ.
Chatterton: Con tàu đắm đã thay đổi đáng kể trong vòng mười năm kể từ khi chúng tôi lặn xuống với nó. Bản vẽ gốc của Danny Crowell vào năm 1991 hoàn toàn không giống với xác tàu ngày nay.
Kurson: John này, có chỗ trong sách, khi anh đang bế tắc cực độ vì không giải được bí ẩn, anh chuyển hướng và gần như với năng lượng sáng tạo bùng nổ, đã phát hiện và/hoặc định danh bốn xác tàu quan trọng. Anh có đang tiếp tục tìm kiếm các con tàu mất tích không và nếu có, anh và Richie có thể tiết lộ cho chúng tôi biết các anh đang tìm kiếm kiểu hình gì?
Chatterton: Hồi đó, tôi như kiểu một gã trai cãi nhau với bạn gái và bắt đầu hẹn hò với cả tá phụ nữ khác. Tôi muốn phân tán sự chú ý khỏi việc lặn xuống U-869. Tôi nghĩ toàn bộ chuyện đó đã cho tôi thấy hành tinh này thật là nhỏ và có những dự án tôi tham gia không đạt kết quả. Một trong số đó là tìm xác tàu Struma ở Biển Đen. Nhưng tôi cũng nghĩ thời điểm tôi đến đó vào năm 2000 chưa thích hợp. Tôi chắc chắn không quên chuyện đó, nhưng không xác tàu nào cho tôi cảm xúc như với U-869.
Kohler: Sau khi định danh U-869, một số người bạn đã chuyển về Anh liên lạc với tôi, mời tôi thành lập một hội của Mỹ để lặn U-boat đắm ở eo biển Măng-sơ và định danh. Từ lúc đó, tôi cũng dành tâm huyết để tìm những con tàu khác mà John và tôi từng cho là U-869, cụ thể là U-857 và U-879. Chúng ở đâu đó ngoài kia; người ta nói một chiếc có thể nằm ở vịnh Maine. Tôi cũng dành thời gian để tập hợp một chuyến đi tìm U-215 và đó sẽ là một chuyến lặn kỹ thuật khá gian nan. Tôi cũng làm một số công tác ở đây, gần nhà. Hồi năm 2000, một thuyền trưởng thuyền lặn phát hiện ra phần nửa trước của một tàu khu trục Hoa Kỳ và với một chút sáng tạo cùng sự giúp đỡ Christina Young bạn tôi, tôi đã xác định được xác tàu đó là USS Murphy. Tôi khá tự hào về vụ đó. Ngoài ra thì tôi cứ tiếp tục lặn thôi. Tôi lặn với gia đình. Tôi lặn với vợ. Con trai tôi cũng sắp lặn. Và tôi mong đợi được tiếp tục công việc riêng và chia sẻ đam mê với vợ con.
Kurson: Trải nghiệm trên U-boat có thay đổi gì cách anh lặn ngày nay không?
Kohler: Chắc chắn rồi. Cũng như cách hội Atlantic Wreck pers kết nạp gã choai choai lặn vo săn cá ở Florida và cho hắn một trận nên hồn! Atlantic Wreck pers nói: “Cậu làm như này và cậu làm thế vì lý do như này.” John thì dẫn dắt bằng tấm gương. Anh ấy không cố khuyến khích ai cả. Y hệt chuyện rebreather. Nếu anh tiếp xúc với người khác và thấy họ đang làm gì đó có hiệu quả hơn thì tất nhiên là anh không thay đổi mới là dốt. Trong quá trình chúng tôi làm việc với U-boat, cách lặn của tôi gần như thay đổi hoàn toàn, chỉ trừ bộ đồ lặn khô cùng mặt nạ và chân nhái là vẫn thế. Nhưng về cơ bản, tất cả những thứ khác, từ cách đeo bình khí lên người, bộ điều áp mà tôi dùng để thở, khí tôi thở, kích cỡ bình tôi mang, đều thay đổi. Trước đó tôi lặn với hai bình nhôm 11 lít, cho tôi dung lượng 4.554 lít khí thở khi xuống đáy. Khi chuyển sang bình khí dung lượng cao hơn, tôi có tới 6.796 lít khí thở đáy. Đó là khác biệt lớn và một yếu tố quan trọng về an toàn. Tôi nghĩ không những tôi thay đổi thiết bị mà còn thay đổi phương thức và kỹ thuật nữa.
Chatterton: Tôi nghĩ mọi thứ đều thay đổi. Thiết bị thay đổi, nhưng chỉ là nhất thời. Thứ thực sự biến hóa là quan điểm, cách tiếp cận của anh. Tôi nghĩ ý nghĩa của U-boat cho ta cởi mở với ý tưởng và kỹ thuật mới và hiểu rằng thời gian không ngừng trôi. Hiểu thế nào là tiến bộ thì anh sẽ thành công và có hiệu quả khi ở dưới nước. Kinh nghiệm trên U-boat càng củng cố quan điểm của tôi về việc cởi mở với ý tưởng mới.
Kohler: Tôi có một phương châm cá nhân muốn chia sẻ. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã đến tận nhà gặp nhiều chỉ huy U-boat và trong số họ có một tay xuất sắc. Người đó là Erich Topp và ông ấy là một trong những chỉ huy U-boat giàu thành tích nhất trong Thế Chiến II. Để hiểu được Topp, tôi tìm tòi và có được bản dịch của lời ông nói, thật ra là một trích dẫn, từ năm 1943 khi ông ở thời đỉnh cao, khi còn là một trong các chỉ huy U-boat được ca tụng nhất tại Đức: “Cuộc đời là chuyện may rủi và ta chắc chắn không thể nâng cao cơ hội thành công bằng sự thận trọng quá đà.” Câu đó luôn ở trong tâm trí tôi suốt từ đó đến nay và tôi nghĩ đó là một cách sống thật tuyệt.