CÔNG NỢ
Bĩ cực thái lai, bác Chính xem chừng đã đến vận đỏ.
Mọi năm cấy có dăm bảy sào. Năm nay cấy ngót ba mẫu thì vừa gặp năm phong đăng hòa cốc.
Cái sân đất tí hon không đủ chứa thóc, bác phải khẩn khoản nói mãi với ông từ mới mượn được sân đình để phơi phóng. Suốt mấy ngày, vợ chồng con cái làm lụng đầu tắt mặt tối, sáng đội thóc đi, tối đội thóc về.
Dưới ánh nắng chang chang, hai bu con cái Mít mặt đỏ tía tai, ôm những bó rơm ra đường gạch phơi cùng với họ hàng làng xóm. Mỗi người cầm một cái “nạng”* gẩy những sợi rơm tung lên cho chóng nỏ.
Dụng cụ gẩy rơm cỏ, là một thanh tre hơi cong, một đầu vót nhọn và chẻ ra làm đôi như hai chiếc ngà voi.
Tuy đã giao cho thằng Chốc vừa trông em vừa trông thóc, bác Chính vẫn thấp thỏm chạy đi chạy lại luôn. Thỉnh thoảng bác lại đến bừa thóc theo bề ngang, bề dọc sân đình. Bác vừa đi vừa cúi nhìn những hạt thóc rẽ ra hai bên bàn chân, óng ánh như những hột vàng. Ròng rã năm sáu tháng trời, bao nhiêu vốn liếng, nào tiền lãi hàng của cái Mít, nào tiền lãi vải của mình, nào tiền công mướn của chồng, đều đổ cả vào gốc lúa. Đến nay mới thấy kết quả thì mỗi hột thóc của bác là một hột vàng cũng đáng.
Một người đàn bà đi chợ, rướn cổ qua ngọn tường đình, gọi to:
- Bác Chính đấy phải không?
Bác Chính ngửng lên tủm tỉm cười:
- Vâng, bà lý đi chợ “sắng”* đồ nhắm cho ông lý hẳn thôi?
“Sắng”: sắm.
- Của đâu mà “sắng” mãi cho ông ấy nhắm để ông ấy say rồi ông ấy “chưởi” tam bành tổ họ nhà tôi lên ấy à.
Nói vậy mà chẳng ngày nào bà lý Chỉ không mua đồ nhắm cho ông lý. Hoặc khúc cá dưa, hoặc khúc cá thủ, cá vược về làm gỏi, hoặc mớ cá khoai, mớ tôm rảo về nấu canh. Không có thì ít ra cũng miếng thịt ba rọi. Bà rất đỗi chiều chồng lại vớ phải ông chồng quá tệ. Động say vào là thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh chưởi vợ. Mà dễ thường không mấy ngày là ông lý không say khướt cò bợ. Làng xóm, nhất bọn đàn ông, vẫn khen bà là người vợ hiền, nên bà cũng được mát mặt đôi chút. Hôm nay bà đi chợ hơi muộn song bà cũng đứng rốn lại nói nịnh bác Chính một câu:
- Năm nay bác Chính tiền dư thóc mục, tha hồ mà làm giàu. Giúp bà con với nhé!
Bác Chính nói nhũn:
- Thưa bà, của người ta cả đấy ạ.
Mà thật thế. Của người cả, của bác chẳng còn mấy hột, sau khi trang trải công nợ.
Thóc phơi xong, chưa kịp đổ vựa, bác sẽ phải trả ngay cái nợ của bà khán Thỗn. Vì tháng mười năm ngoái bác có vay của bà ta hai thúng thóc, lãi thành ba, hẹn đến hăm bảy, hăm tám, tháng chạp là cùng, mà mãi ba mươi tết bác vẫn chưa đào đâu ra được tiền.
Người ta vui mừng về tết bao nhiêu thì bác lo lắng khổ sở bấy nhiêu. Bác nhớ chiều ba mươi chợt nghe ngoài cổng có tiếng the thé của bà khán, hai vợ chồng bác giật nẩy mình, cùng nhau chạy trốn sang nhà hàng xóm, vì đã biết bà kia có tiếng nặc nô.
Bác còn như văng vẳng nghe thấy những lời nguyền rủa dữ dội mà bà khán kéo dài mãi đến tối.
Đêm hôm ấy gần giao thừa, vợ chồng mới dám lóp ngóp về. Thấy mất cái bát hương, mà bà khán đã bắt nợ bỏ vào thúng mang đi, bác trai ứa hai hàng nước mắt, sụt sùi khấn trước bàn thờ, xin ông bà ông vải đại xá, chỉ vì nghèo túng mà đến nỗi để phạm đến danh dự gia tiên. Khấn xong bác xuống bếp chọn lấy một cái bát xích yêu lành lặn đem lên thay vào. Thế mà từ mồng một trở đi, hai vợ chồng cũng giữ được nét mặt tươi tỉnh, cười nói chúc mừng bà con như không hề có việc gì xảy ra. Song, mỗi lần bác trai quỳ khấn trước bàn thờ, trông bác có vẻ buồn vô hạn. Mấy hôm tết, hai vợ chồng không dám đi đâu, chỉ sợ gặp bà khán. Bà ấy mà “chưởi” thì rông cả năm.
Nhưng cũng may, ở đời có người ác thì lại có người thiện.
Người thiện ấy là bà khán Bột ở liền xóm với bác. Bà góa từ năm mười tám tuổi, được mỗi mụn con gái gả cho lý Cúc, con ông Chánh cựu. Nhà lý Cúc ba đời hào dịch, thực là tiếng tăm lừng lẫy trong thôn ổ. Chỉ hiềm một nỗi lý Cúc chơi bời quá quắt. Cô đầu, rượu chè, thuốc sái, cờ bạc, đủ thứ. Bao nhiêu ruộng ông cha để lại, một tay lý Cúc nướng sạch, nướng lây đến cả của mẹ vợ. Nhưng chẳng hề chi. Trong làng cốt có danh vọng là đủ, sau này nhờ trời, con cái ông nối được nghiệp bố thì bốn đời hào dịch rồi đấy. Tiền của nào bằng!
Bà khán không giàu lắm, nhưng mỗi năm cũng có dăm bảy nghìn thuốc lào, một cây thóc cao. Nếu không bị người trong họ xúc siểm vào hội Phật giáo, bầu hậu, bầu trùm, cúng vào đền này chùa nọ thì bà đã có thể giàu nhất nhì trong làng. Hiện giờ, họ đương khuyên bà bỏ tiền ra chạy lấy bốn chữ “tiết hạnh khả phong”. Song bà còn lưỡng lự.
Bà thương hại nhà bác Chính lắm. Tuy không cùng họ mà cùng xóm, bác thường đi lại nhờ vả. Ngày rằm, mồng một, bà hay gọi lũ trẻ sang ăn xôi chè. Lúc về, bà lại cho mỗi đứa một phẩm oản hay quả chuối. Có khi chúng ở lì cả ngày bên ấy.
Những món lặt vặt như thỉnh thoảng một rá gạo hay vài hào thì không kể làm gì, bà sẵn lòng cho không. Nhưng còn nhiều bận bác sang nhờ hàng đồng trở lên tính ra có đến ngót chục. Số tiền ấy, bà Khán đã cho vay không lời lãi, chẳng lẽ có thóc hẳn hoi mà không đem trả thì còn mặt mũi nào!
Ngoài hai món nợ bà khán Thỗn và bà khán Bột, bác còn thiếu chỗ một thùng, chỗ hai thùng, chỗ một đồng, chỗ dăm bảy hào…
Nhưng giá chỉ có thế thì, trừ cả mười hai phương thóc nộp về vụ chiêm cho bà Chánh Bá đi rồi, cũng còn đủ ăn cho đến vụ mùa. Khốn nỗi nào chỉ có thế. Lại còn tiền sưu thuế sắp sửa phải đóng, tiền mua phân bón ruộng vụ mùa, tiền quần áo cho mình, cho vợ con. Quần áo người nào cũng đã nát quá, không sao vá được nữa. Không lẽ rách rồi cởi trần!
Cách đó mấy hôm, bác Chính gái nhìn đống thóc vơi di, thở dài nói với chồng:
- Còn ít lắm nhỉ! Hay là thầy nó thử sang khất lại bà Chánh sáu phương.
- Ừ phải đấy. Nhưng mà khó lắm, mình ạ.
- Thì hãy cứ cố nài xem. Không có, bốn phương cũng được.
- “Ừ, thế tôi đi nhá”. Chồng vừa nói vừa vào buồng mặc cái áo lương đã bạc vai, sờn khuỷu và chụp cái khăn gián nhấm lên đầu rồi cắp cái ô tã đi thẳng ra cổng.
Chồng đi được một lát, vợ đã thấp thỏm chốc chốc lại ra ngõ ngóng đợi…
- “Không xong rồi, phải không?” Vợ nhác thấy chồng về đã hỏi thế, vì trông thấy mặt chồng buồn thỉu.
Chồng nhếch một bên mép cười như mếu và nói:
- Chỉ tại cái Ngẩn nhà bá Rụt. Ra ngõ gặp gái, súi thật!
- Tại mình không khéo nói chứ gì.
- Nào người ta đã nói được câu quái gì mà bảo khéo với chẳng khéo. Vừa trông thấy mặt mình họ đã mắng như tát nước… Mà sao họ biết mình đã trả những người kia rồi? Lạ thật!
Chồng đi lủi thủi vào trong nhà. Vợ theo liền hai tay chắp sau lưng, vẻ mặt tư lự. Bỗng bác đứng thẳng người lên nói bằng một giọng quả quyết:
- Được rồi. Để tôi đi.
Bác Chính gái vừa nghĩ ra: Cậu Thanh, con một bà Chánh Bá thích đệ nhất chim bồ câu tây. Cậu đã đi chợ Hạ Am nhiều lần, lùng mãi mà không thấy. Cậu lại khẩn khoản nói với ông quản Sâm để cho một đôi, đắt mấy cũng mua, nhưng ông này ương ngạnh, cậu càng vật nài ông càng nhất định không bán. Bây giờ bác chỉ việc đến nhà ông, nói rõ đầu đuôi ông nghe, tất ông sẽ thương tình, để lại cho.
Nghĩ vậy, bác vội đi ngay. Chồng ngạc nhiên hỏi:
- Mình đi thật đấy à?
- Ừ, tôi đi đây. Hễ Mít nó về, mình bảo nó luộc rau ăn trước đi. Tôi ăn sau.
Bác gái đi rồi, bác trai thất vọng thơ thẩn đến nằm xoài trên chiếc chõng kê ở thềm, hai cánh tay khuỳnh dưới gáy làm gối. Bác thở dài yên lặng nhìn lên mái hiên một lúc rồi lẩm bẩm nói một mình:
- Ừ, mà mình rõ lẩn thẩn. Năm ngoái, năm kia, năm kìa, năm kĩa, nợ đìa như chúa Chổm thì sao? Năm nay trả được sạch nợ lại còn thừa ít đỉnh! Còn mong thế nào nữa? Việc gì mà phải khất với khứa lôi thôi. Hừ! Mình rõ lẩn thẩn.
Bác chồm dậy, vội chạy ra cổng định gọi giựt vợ lại. Nhưng bác gái đã đi xa quá rồi. Bác đứng vơ vẩn nhìn ra đường, nghĩ thầm: “Nó có đi cũng vô ích. Mà không được cũng chẳng cần”. Thế là bác hết băn khoăn, hết buồn.
Bác Chính gái vào đến sân, thấy ông quản đương đứng ngắm nghía con họa mi nhảy nhót trong chiếc lồng son. Ông vừa đi thăm một người ốm về, vì ông làm quản xã kiêm thầy lang. Ông vốn thâm nho, đã đỗ khóa sinh, thi trường Nam mấy khóa đều bị trượt: số ông thế, biết làm thế nào? Ông xoay ngang ra học thuốc, mua những pho Lãn Ông, Hải Thượng và Phùng Thị về nghiên cứu. Chẳng cử, tú thì ông làm ông lang vậy. Ngoài việc thăm bệnh cho thuốc, sở thích độc nhất của ông là chơi chim. Nhà ông nuôi đủ thứ chim: nào họa mi, thanh ca, bách thanh, khướu mun, khướu bạc má, sáo, yểng. Ông chuyên dạy sáo nói. Có con ông bán tới mười lăm đồng. Ấy là ông khoe thế. Thực ra thì ông chưa bán cho ai được con nào. Ông có tính ương ngạnh với những kẻ giàu sang và hay thương kẻ nghèo khó.
Nghe thấy tiếng chào, ông ngoảnh ra sân:
- Kìa! chị Chính, có việc gì cần mà trông bộ vội vàng thế? Anh ấy cảm phỏng?
- Bẩm nhà cháu có tí việc, chỉ có cụ mới giúp được. Bác vừa nói vừa ngồi xuống thềm, hai tay khoanh trên đầu gối.
- Cụ với kiếc gì. Ô hay! Sao lại ngồi đây, vào trong này chứ?
- Bẩm nhà cháu không dám ạ.
Rồi bác kể lể…
Ông quản chưa nghe hết câu chuyện đã hiểu. Liền gọi con bắt lấy đôi chim mới ra ràng bỏ vào chiếc lồng đan bằng nứa, đưa cho bác Chính.
Bác đỡ lấy đứng dậy:
- Nói khí không phải, bẩm cụ dạy cho bao nhiêu tiền để nhà cháu xin nộp cụ.
- Đã bảo đừng gọi tôi bằng cụ mà lị. Giá nó thì vô kể. Nhưng mà tôi biếu không chị đấy.
- Ôi chao! Thế thì quí hóa quá. Cụ thương cháu quá. Thôi thế bây giờ xin lạy cụ ạ.
- Ấy đấy lại cụ. Thì cứ gọi tôi là ông có được không?
- Ấy chết, cháu đâu dám thế. Lạy cụ ạ.
Bác Chính chào lại lượt nữa rồi khúm núm xách lồng ra cửa.
Ông quản chau mày nói lẩm bẩm một mình:
- “Sao mà lắm người ngớ ngẩn thực thà, cổ lỗ đến thế? Chả trách được!” rồi ông đi ngắm các lồng treo dưới mái hiên, không bận gì đến việc người nữa.
Bác Chính gái hớn hở xách lồng chim đến nhà bà Chánh Bá. Tới cổng, bác ngó xem cậu Thanh có nhà không thì vừa may gặp cậu đương cho chim ăn thóc ở sân. Bác cất tiếng gọi. Cậu chạy ra.
- “Lạy cậu ạ, cháu có đôi chim tây đem đến tết cụ”. Bác vừa nói vừa giơ cái lồng ra trước mặt Thanh.
- Ồ! Đôi chim tây trắng đẹp nhỉ. Chị mua ở đâu đấy? Tôi đi lùng mãi mà không được.
Cậu sung sướng cầm lấy lồng đi trước, mắt nhìn chòng chọc vào đôi chim.
Mấy con chó xồ ra sủa.
Bác Chính hoảng hốt, bíu chặt lấy tay Thanh:
- Cậu coi chó cho cháu với. Khôn… khôn!… Kìa cậu, nó mà cắn cháu thì thật khổ cháu.
Bác vừa nói vừa kéo cậu giật lùi.
- Cộc chạy! Mực! Liệu hồn! Xuống bếp! (Cậu miệng quát, chân đá). Được! Đã có tôi, chị cứ đi.
Mấy con chó trước khi lủi xuống bếp, còn gừ gầm, nhe bộ răng trắng nhọn, giương đôi mắt dữ tợn nhìn bác Chính.
Bà Chánh đương ngồi têm trầu trên phản đứng dậy đi ra thềm.
- Cái gì thế, con? Kìa, con mẹ Chính! Lại đến khất bà phỏng? Không được đâu!
Thanh sợ mẹ không nhận lễ, bèn khẩn khoản:
- Thôi mẹ ạ, mẹ cho chị ấy khất. Đôi chim tây của chị ấy đẹp quá. Con đi lùng khắp nơi mà không mua được đấy, mẹ ạ.
Thanh đăm đăm nhìn đôi chim bằng con mắt đầy thèm muốn. Bà Chánh vốn chiều con thấy thế cũng dịu giọng:
- Mụ định thế nào? Liệu mà trả tôi chứ. Trong khi Thanh nhấc lồng lên ngắm, lại đặt lồng xuống, mồm nấc nỏm khen, thì bác Chính đứng gãi đầu gãi tai:
- Bẩm cụ, nhà cháu đã đến xin khất lại cụ một nửa đến vụ mùa xin trả, không dám để lâu.
- Hắn có nói gì với tôi đâu? Không được, khất thì không được.
- Lạy cụ thương cho. Chúng cháu vì công nợ mấy năm dồn lại, phải trang trải nên mới dám đem đầu đến khất cụ.
- Sao mụ không khất họ mà trả tôi trước đi, có được không. Phải sòng phẳng, mùa nào dứt mùa ấy thì rồi mới hòng về sau được chứ. Chưa chi mụ đã lừa bửa như thế thì hỏng. Tôi lại đến phải lấy ruộng về thôi.
- Bẩm lạy cụ, thật quả họ đòi rát quá, mà chúng cháu nợ họ cũng đã lâu lắm rồi… Vả lại cụ giàu có, thiếu gì. Cụ cho khất cũng như cụ cứu giúp chúng cháu. Sau này nhờ trời, chúng cháu khá lên cũng là nhờ hồng phúc cụ.
Bà Chánh đứng lưỡng lự. Thanh vật nài mẹ: “Thôi, mẹ cứ cho chị ấy khất, nhà mình thiếu gì!”
- Phải, cứ nghe cậu thì rồi đổ thóc giống ra mà ăn. Bà quay sang bảo bác Chính gái:
- Thôi thế này: tôi cho vợ chồng nhà mụ khất lại bốn phương lãi chục sáu. Người ta thì chục tám hay nhất bội nhị kia đấy.
- Lạy cụ, cụ thiếu gì. Thôi thì xin cụ chục ba. Chúng cháu làm ăn nó cũng chật vật lắm cơ. Chị vừa nói vừa bẻ mấy ngón tay kêu răng rắc.
- Thôi thế cứ nhất định bốn phương thành sáu. Tôi cho thế là nhẹ lắm rồi. Người ta thì không khi nào được như mụ.
Bác Chính gái chẳng biết tính ra sao nhưng cũng cố nài xin bớt. Bà Chánh phát gắt. Bác Chính sợ, xin vâng và hẹn sáng mai gánh đến nộp tám phương. Trước khi trở về, bác gãi tai nói:
- Bẩm, chúng cháu gọi là có đôi chim vi thiềng cụ.
- Cứ bầy vẽ ra làm gì. Thôi mụ đã cho, tôi cám ơn.
Bác Chính gái đi rồi, Thanh chạy vội đi lấy thóc cho chim ăn.
Bà Chánh thấy con hớn hở vì đôi chim, cũng không tiếc cái số lãi mình hạ nhẹ xuống nữa. Nhưng bà nói mấy câu để tỏ cho con biết rằng vì yêu con mà bà chịu thiệt mất ít lãi.
Bác Chính gái về nhà, chưa bước qua ngưỡng cửa đã khoe cái chước khôn khéo của mình. Chồng sửng sốt hỏi:
- Chết chửa! Thế đôi chim mình đã mặc cả với ông ấy chưa? Chim tây hiếm và đắt lắm đấy, chả như chim thường đâu. Tôi nghe người ta nói có tới đồng rưỡi hai đồng một đôi kia đấy.
- Ông ấy cho không.
Chồng ngạc nhiên:
- Cho không? Khéo ỡm ờ lắm!
- Thật đấy mà. Tôi nói dối mình làm gì?
- Thế họ cho khất bao nhiêu?
- Bốn phương lãi thành sáu. Trước họ đòi chục sáu, tôi vật nài mãi mới được ngần nấy. Thế thì thành chục mấy nhỉ, mình nhỉ?
- Thế thì thành chục… (Chồng nhẩm tính) chục tư, à à chục năm…
- Những thế cơ à mình, tôi cứ yên trí là chục hai. Họ gớm thật!
Bác gái buồn rầu nhắc đi nhắc lại mãi câu: họ gớm thật.
Bác trai đã sẵn có ý tưởng ban nãy nên cứ thản nhiên như thường. Bác có băn khoăn thì cũng chỉ băn khoăn về con trâu cái bác sẽ tậu sau vụ này.