TẾT! TẾT!
Từ đầu làng đến cuối làng, chỗ nào cũng nhao lên về tết, tuy mới vào khoảng hai mươi, hăm mốt tháng chạp. Các bà đi chợ về, bà chánh, bà lý, bà khán, bà xã, bà nào cũng đội cái thúng trong để một “ông mũ” lấp lánh những mặt gương và trang kim, vài trăm vàng, một bó hương đen và một nải chuối còn xanh ngắt.
Bác xã Chính gái hôm ấy cũng đi chợ mua vàng mũ về cúng thổ công. Bác lên chức xã* là vì chồng bác vừa mới bầu xã* được hơn tháng nay, sau vụ mới rồi.
Chức vị trong làng xã, thường do nộp tiền mua.
Bầu xã (tiếng địa phương): mua chức xã.
Sao bác trai chịu bỏ ra hăm lăm đồng bầu xã mà lại không để tiền tậu ngay con trâu cái, con trâu cái mà bác hằng mơ tưởng, bấy lâu? Đó cũng là sự vạn bất đắc dĩ. Bác năm nay hơn bốn mươi tuổi đầu mà động có rước là bác đã phải ra cầm tán hay khiêng kiệu với bọn mục đồng; động có quan về là bác đã phải thân ra dọn đường, rẫy cỏ dưới con mắt hỗn xược của một anh quản xã chỉ lớn bằng chạc con bác. Động có việc gì nặng nhọc là đến tay bác. Trăm nghìn sự thiệt thòi đổ dồn cả xuống đầu bác, và đầu những kẻ bạch đinh như bác.
Lại còn một lẽ nữa: bác đi đến đâu cũng bị người ta chế giễu, khinh bỉ. Họ cho bác là keo kiệt, coi đồng tiền hơn phẩm giá. Bác động mở mồm là họ đã chặn họng: “Còn danh giá gì cái thằng bạch đinh mà cũng ăn với nói!”. Cái khổ tâm của bác là thế, nên bác bắt buộc phải nhắm mắt, vuốt bụng mà chạy cho xong cái xã nhưng. Thực ra, bác có thiết gì nắm xôi, miếng thịt trong làng!
Đã lên ông xã thì ai chẳng muốn trang hoàng cửa nhà cho ra vẻ nhà ông xã, trừ khi không tiền. Bởi thế phiên chợ Hạ Am vừa rồi bác đã sắm được bốn bức tranh tố nữ và tám bức tranh con gái Tàu về treo hai bên bức vách. Phiên chợ giáp tết, bác lại mua được một quả phật thủ, hai quả bòng với một chục cam sành về bày ngũ quả và đôi cành hoa giấy về cắm ống sơn. Bác phí phạm được thế cũng là nhờ mùa mới rồi.
Bác gái phí phạm chẳng kém gì bác trai. Bác sắm nào hài, nào mũ, nào vàng hàng muôn để đi lễ các đền, chùa. Bác mua hẳn một thúng hành về nén, mua cá về kho, mua thịt, gạo nếp về gói bánh.
Bác còn sắm cho Mít một cái váy lụa, cạp xanh, một chiếc dây lưng thiên lý, một chiếc áo tứ thân vải màu nâu non và một chiếc yếm trúc bâu trắng nõn. Thằng Chốc, thằng cu Nhớn, thằng cu Con, mỗi đứa được một chiếc áo chùng nâu xẫm và một chiếc quần vải thô. Còn về phần bác, bác chỉ may mỗi một cái váy bằng vải ruộm vỏ xó, ngả bùn dầy cộp như mo nang. Người ta có kêu thì bác trả lời gọn lỏn: “Ôi chao! làm lụng vất vả suốt năm, là lượt lắm cũng phí đi thôi!”
Cái Mít có vốn riêng, nên ngoài các thức mẹ sắm cho, nó còn sắm thêm một chiếc khăn sa tanh, một cái gương con bỏ túi và một hộp sáp “Cô Ba”. Nó giấu kín, đợi sáng mồng một mới đem ra trang điểm để tránh khỏi những câu mắng mỏ của mẹ.
Khác mọi năm, chỉ một con sào, trên buộc cành xương rồng, dưới treo “ông mũ ngô”, năm nay bác trai dựng ngay trước nhà một cây lồng đèn cao ngất, có những túm lông mã gà trên ngọn, có cờ vải tây điều bay phấp phới, có bầu rượu bện bằng rơm, có con rồng uốn khúc làm bằng mấy cành vạn tuế, có con cá nằm ngang để xỏ dây treo đèn.
Dựng xong, bác đứng giữa sân, tay vắt sau lưng, ngửng mặt lên ngắm:
- Trông có được không, mình?
Vợ đương cắt rễ hành với cái Mít ở thềm, ngoảnh ra nhìn:
- Thầy nó làm khéo đấy. Con rồng đẹp hơn con rồng bên cụ cán.
Vừa gặp ông cán ở bên cạnh sang chơi. Vợ nhìn thấy trước cất tiếng chào. Bác Chính trai vui vẻ chạy ra đón.
- Bác đứng ngắm cây nêu đấy à? Năm nay cây nêu nhà bác cao thế kia thì hẳn có thịt mỡ, bánh chưng xanh. Ông cán vừa nói vừa ngước mắt nhìn cây nêu.
- Không dám ạ. Thưa cụ, nhân tiện cháu mua cây bương về làm máng, cháu đem dựng trong mấy ngày tết. Thật không định mà được một công đôi việc. Hì!
Bác nói dối thế. Kỳ thực, hai vợ chồng đã bàn nhau từ mấy hôm trước mua cây bương về dựng lồng đèn rồi xong tết sẽ bổ ra làm máng cho khỏi phí.
- Rước cụ vào trong nhà xơi nước. Chúng cháu vừa nấu được ấm nước chè ngon đáo để. Mít, con đứng dậy xuống bếp bắc ấm nước lên đây nhé.
Hai người cùng vào. Ông cán đi trước, bác xã theo sau.
Ông đưa mắt nhìn khắp nhà, khen:
- Ồ! Lắm tranh đẹp nhỉ! Lại hoa hiếc nữa. Mua đâu thế?
- Dạ, bẩm cụ, cháu mua hôm phiên chợ Hạ Am vừa rồi. Có hào rưỡi một đôi.
- “Rẻ đấy!” Nói đoạn, ông đi lại ngồi xếp bằng trên chiếc phản kê ở trước bàn thờ để tết đến những người họ hàng quen thuộc đến lễ ông vải. Bác xã ngồi ghé vào một bên mép phản tiếp khách.
Bác gái vào buồng, têm trầu bày lên đĩa bưng ra.
- Rước cụ xơi trầu ạ.
- Được, mặc tôi, bác cứ để đấy, đi làm nốt mớ hành rồi chốc nữa hai bác với cháu Mít sang gói giúp chúng tôi ít bánh nhé?
- Vâng, chúng cháu cũng định chốc nữa sang làm giúp cụ đấy. Nhà cháu có mươi mười lăm chiếc định đem sang luộc nhờ cụ, có được không ạ?
- Sao lại chẳng được! Ừ, mà tết nhất cũng nên bày cho vui. Có nêu cao, phải có pháo nổ, bánh chưng xanh chứ lị.
Ông cán vừa nói vừa rung đùi ra vẻ đắc chí.
- “Dạ”. Bác gái cười tủm tỉm, trong lòng bác hoan hỉ lắm.
Bác ra ngoài hiên làm nốt mớ hành với cái Mít, để hai người đàn ông bàn bạc về tết.
Bác xã hỏi:
- Bẩm cụ xem lịch năm nay có tốt không ạ?
- Tôi cũng chưa xem nhưng thấy họ nói năm nay những mười ba con rồng lấy nước. Chắc là lụt to.
- Chết! Chết! Thế thì xấu lắm cụ nhỉ!
- Đâu lại còn ôn dịch và lắm bệnh nguy hiểm nữa.
- Chết! Chết! Thế thì xấu lắm cụ nhỉ!
- Ấy, còn tùy xem chân giò đầu năm thánh dạy thế nào đã chứ. Có khi thiên hạ loạn mà làng ta yên cũng nên.
- Vâng, bẩm cụ dạy chí phải. Thôi thì nhờ trời, nhờ phật, nhờ thánh tổ, làng ta yên là phúc, có phải không cụ nhỉ?
Ông cán Bích đã làm ba bát nước chè nóng. Ông cầm miếng trầu không, tháo ra xem vôi mặn hay nhạt rồi cuốn lại kèm với miếng cau tươi bỏ vào nhai giòn rau ráu. Ông đã sáu mươi ba tuổi, nhưng còn mạnh khỏe, chưa rụng cái răng nào.
Bác Chính nghĩ một lát rồi bỗng hỏi:
- À này, thưa cụ, mồng một năm nay xuất hành vào giờ nào thì tốt ạ?
- Tôi cũng chưa xem, nhưng thấy người ta bảo: nên xuất hành vào giờ dần; đi về chính nam thì gặp tài thần, về đông nam thì gặp hỉ thần, về đông bắc thì gặp quí thần.
- Chết chửa, cổng nhà cháu lại quay ra tây bắc. Biết làm thế nào hở cụ.
Bác nói và trông bác có vẻ bối rối.
- Rầy thật đấy nhỉ?
- Vâng, rầy thật! Làm thế nào hở cụ?
Bác vừa nói vừa ngơ ngác nhìn ông cán, mong ông nghĩ ra được kế gì hay hay.
Ông cán với cái điếu hút. Ông há hốc mồm cho khói đặc cuồn cuộn tuôn ra. Nửa chừng, ông ngậm mồm nuốt rồi thở mạnh ra đằng mũi…
- À, tôi nghĩ ra rồi.
- Ồ, thế thì hay quá! Quí hóa quá!
- Thế này, ngõ sau nhà bác chả là hướng nam à. Vậy thì sáng sớm ngày ra là giờ dần, bác đi ngõ sau sang xông nhà cho tôi, rồi chúng ta cùng đi ra ngõ nhà tôi quay về đông nam. Cứ thế chúng ta tiến thẳng đến miếu Hai lễ thánh. Đấy có cả đa lẫn xương rồng. Tha hồ mà nẩy lộc.
- Vâng, nhưng cháu xông nhà liệu có được không?
- Sao lại chẳng được. Bác dễ dãi, con cái nhiều, làm ăn may mắn, còn đâu bằng!
Ông cán đứng dậy, nói tiếp:
- Vậy, cứ thế nhé?
- Vâng, mời cụ xơi trầu.
- Đã, tôi đã ăn rồi.
- Cụ xơi miếng nữa.
Ông cán nể lời cầm lấy. Ra đến cổng, ông nhắc lại việc gói bánh. Cả hai vợ chồng bác Chính đi tiễn sau, cùng nói:
- Vâng ạ, thế nào chúng cháu cũng phải sang làm giúp cụ.
Vợ nói thêm:
- Thế cụ cho cháu luộc nhờ mươi chiếc nhé?
- Được!
Hai vợ chồng trở vào. Vợ vừa ngồi xuống cắt vài củ hành, chồng vừa đem được ấm nước xuống bếp, ông cán đã lại sang:
- Này bác, tôi, tôi hỏi cái này tí.
Bác Chính trai hấp tấp chạy ra ngõ:
- Việc gì thế, cụ?
- Bác có chung không?
- Chung gì cơ, cụ?
- Chung bò. Bác có chung thì để tôi bảo quản Sang tậu con to một tí.
Vợ nghe thấy, và sợ chồng nhận lời, chạy vội ra nói:
- Bẩm cụ, nhà cháu làm gì sẵn tiền mà dám chung.
- Một đồng cũng được. Bỏ ra một đồng mà được tái bò, xào xáo trong mấy hôm tết lại chả hay lắm ru?
- Vẫn biết thế, nhưng nhà cháu quả thật không có tiền. Cụ tính không công nợ là may cho chúng cháu lắm rồi.
Chồng thấy vợ viện lẽ để từ chối, cũng nói thêm:
- Thưa cụ, nhà cháu cũng đã chung lợn với bà Rụt, bà Nhiêu rồi ạ.
- Cái đó thì đã hẳn. Tôi muốn hai bác có lợn lại có bò cho thể tất nữa cơ chứ. Thôi thế chào hai bác.
Ông cán đi khỏi rồi, hai vợ chồng thì thầm:
- Ông lão sung sướng thật!
Chẳng biết ông lão có sung sướng không, nhưng ông có hai ông con cùng ra làm lý thôn đã mãn khóa. Hiện nay cũng có cửa hàng bán thuốc lào trên Phùng và cùng khá cả.
Thời còn trai trẻ ông đã từng đi lại trên ấy buôn bán. Bao nhiêu khách hàng của hai con đều là khách hàng của ông khi trước.
Từ ngày lo xong công việc lão sáu mươi, ông ở hẳn nhà để mặc hai con bôn tẩu.
Ông nghiện rượu. Ông uống không mấy, mỗi ngày độ nửa chai bố thôi. Nhưng cơm không có rượu, ông không sao nuốt đi được. Ông thường nói vậy nhưng cũng chưa bữa nào ông thiếu rượu để ông có thể chứng thực được lời nói của ông.
Không như ông Lý Chỉ, động say vào là đánh vợ, ông say chỉ hay nói chuyện địa lý và làm thơ.
Môn địa lý, ông cho là rất dễ, không học cũng biết. Còn thơ thì ông mới sính làm trong hai năm nay, từ ngày ông đâm ra lẩn thẩn.
Một lần ông ngồi nhắm rượu thịt chó với ông khóa Ngoạn. Lúc ngà ngà say, ông cao hứng rung đùi đọc một câu thơ mà ông cho là có hậu lắm:
Còn nước, còn non, vẫn còn còn,
Có cây, có lá, sẵn sàng sàng.
Đọc xong, ông hỏi ông khóa nghe có được không? Ông khóa tủm tỉm cười khen cho ông lão sướng. Song lời khen của ông khóa không khỏi ngụ vẻ nhạo báng:
- Thơ cụ thì thế nào mà chả hay. Dẫu có thất luật thất niêm cũng chẳng hề gì. Nhàn nhã như cụ thỉnh thoảng cũng nên thơ thẩn cho nó đỡ buồn. Chả hơn những cụ khác, động say vào là đi tìm thú xóc đĩa, có phải không cụ?
Những câu thơ hay ho như trên ông tuôn ra rông rỗng mỗi khi tửu nhập, rồi ông bắt thằng cháu chép vào những tờ giấy dán la liệt trên tường hoa.
Thế mà ông vẫn tự cho ông là học dốt. Ông kể chuyện ngày xưa ông học cụ cử. Đến sách Hán, ông chịu, không sao nhai được nữa, phải bỏ về đi buôn vậy. Ông nói chẳng ngày nào là ngày ông không phải đòn về không thuộc. Có lần thầy đánh rồi, ông còn xin thêm mấy roi nữa để trừ vào ngày hôm sau, vì ông biết trước: hôm sau ông lại không thuộc. Thì ra thơ không cần phải thông minh, chữ nghĩa khá mới làm nổi. Chỉ cần có khiếu như ông là đủ.
Đêm ba mươi có khác. Trời, đất một màu đen xẫm đến nỗi hai người đi sát cạnh mà không nhìn thấy nhau.
Trên các đường làng, trong các ngõ xóm, những ngọn đèn đỏ nhấp nháy như ma trơi. Ấy là đèn chai của những chủ và khách nợ đi lại đòi, khất.
Trong yên lặng, thỉnh thoảng vang lên những tiếng nguyền rủa, những tiếng cãi cọ lẫn những tiếng chó sủa. Từng hồi tù và inh ỏi tiếp sau những tiếng trống cầm canh. Thực là khác thường, một đêm can hệ nhất trong tháng củ mật, một đêm khốn khổ cho những nhà có nợ, một đêm lo sợ cho những nhà có máu mặt. Quân gian thường nhân dịp các cụ ra đình đánh chén, lẻn vào nhà trộm cướp. Lắm người khánh kiệt vì thế. Có khi cả nồi bánh chưng cũng bị chúng cuổm mất.
Đêm khuya, các tiếng thưa dần rồi im bặt… Một hồi trống tế giao thừa vừa rung lên, vang động cả khu xóm. Bác xã Chính vội vã ra đình lễ thánh rồi ăn cỗ. Bác không phải ra đình từ trước, vì làm lễ chưa đến thứ bác. Đã có các cụ ở trên.
Bác sung sướng, hớn hở như mở cờ trong lòng. Không bạch đinh, không công nợ, không lo lắng sự gì khác, bác chỉ việc để bụng vào bữa chén. Bác chén mãi đến tang tảng sáng mới về.
Cả nhà cũng đã dậy. Thằng Chốc, thằng cu Nhớn, thằng cu Con hí hửng trong bộ quần áo mới, đi đứng nghiêm chỉnh như các cụ lý sắp ra đình họp việc giáp.
Cái Mít trang điểm rõ ra phết một cô gái quê đỏm dáng: chiếc khăn sa tanh vấn ngay ngắn trên mớ tóc bóng mượt và thơm hắc những mùi sáp “Cô Ba”. Hai vạt áo tứ thân buộc lỏng ra ngoài chiếc dây lưng thiên lý, chiếc yếm trúc bâu trắng nõn căng trên bộ ngực nở nang. Chiếc váy lụa đen mềm bay về phía sau, in hẳn cặp đùi mập mạp mỗi khi Mít chạy lên chạy xuống dọn cỗ.
Bác xã hơi men chếnh choáng, bông đùa luôn miệng, quên cả kiêng. Bác nói lắm câu dớ dẩn làm vợ phát ghét. Muốn chồng đi khỏi trong lúc say, bác gái nhắc tới việc xông nhà ông cán và việc xuất hành đầu năm.
- Mình sang đi thôi kẻo muộn rồi.
- Ờ nhỉ, bà nó không nhắc thì ông nó quên đấy, bộ tịch đâu? Sao lại ăn mặc như nái xề thế kia? Trông con nó làm đỏm đẹp như cô tiên non bồng thế kia cơ mà. Họ hàng sắp sửa được chén rồi!
Mít xấu hổ đỏ mặt, chạy xuống bếp.
Vợ gắt:
- Năm mới, khéo ỡm ờ lắm! Hễ cứ say vào là thế.
- Mẹ mày bảo tao say à? Tao say…
- Thôi xin ông sang xông nhà cho người ta đi.
Vợ vừa nói vừa ẩy lưng chồng ra cửa. Chồng ngất ngưởng qua cổng cái. Vợ đứng trên thềm réo to:
- Ô hay! Cụ cán bảo đi cổng sau kia mà!
- Ờ nhỉ, tớ quên, xuất hành về đông nam lại chực đi về tây bắc. Say thì sao nhớ được rành rọt thế?
Vợ lẩm bẩm:
- Động say vào là chẳng biết trời đất gì cả.
Bên kia cụ cán cũng vừa ở đình về và cũng say chẳng kém bác xã. Cụ đương ngồi rung đùi ngâm thơ. Thấy xã Chính sang, cụ vồn vã:
- Ấy kìa, bác xã sang xông nhà cho lão đấy, phỏng?
- Vâng ạ, cháu sang xông nhà cho cụ đây ạ. Cháu mà xông nhà thì hẳn cụ làm ăn may mắn, con cái, cháu chắt đầy đàn.
- Thế thì tốt lắm. Năm mới lão cũng chúc bác làm ăn phát tài bằng năm bằng mười năm ngoái. Lý ơi! Đem pháo ra đốt đi mày!
Tràng pháo nổ ran, khói xanh bay vào trong nhà, quyện với khói hương. Cụ cán đọc hàng tràng thơ. Bác xã say, quên cả phép tắc, ngồi rung đùi khen phứa.
Cụ cán cao hứng:
- Đem mâm cỗ cúng thổ công ra đây tao, mày! Để tao ăn mừng năm mới. Xã còn uống rượu được chứ?
- Dạ, được ạ. Cháu thì bao nhiêu cũng vừa.
- Gớm nhỉ, thế thì ngồi đây tiếp lão.
Cụ cán bà ra can:
- Thôi, ông vừa uống rượu ngoài đình về. Mà bác xã cũng đã say mềm rồi đấy nhé.
Bác xã cãi lại:
- Thưa cụ, chả có, cháu chả bao giờ say.
Cụ cán ông nói gắt:
- Thì uống rồi lại uống nữa, không được à? Mấy khi, năm mới, bà cụ cứ hay lôi thôi.
Cả nhà, từ bà cụ cho đến con cái, cháu, chắt đều sợ ông cụ. Thế là mâm cỗ bưng lên, chai rượu “Văn Điển” để cạnh. Hai người ngồi chén tì tì. Ông cán cứ việc ngâm, bác xã cứ việc khen cho đến khi hai người cùng say khướt. Ông cán nói lảm nhảm một lúc rồi gục ngay xuống ngủ. Bác xã thất thểu trở về quên cả xuất hành xuất hiếc. Bác làm một mạch cho đến xế chiều mới dậy. Bác gái tủm tỉm cười nói mỉa:
- Thế nào, thầy nó xuất hành những đâu?
Bác trai hơi ngượng nói chữa:
- Xuất hành thế cũng đủ rồi. Còn hơn cụ cán chẳng xuất hành được tí nào.
Bỗng bác hốt hoảng: “Chết chửa, mình chưa đi lễ đâu cả!”
- Thế thì còn ngồi đây làm gì? Người ta đến lễ nhà mình đông rồi đấy.
Bác xã ra bể múc nước rửa mặt quàng qué rồi vội vã ra cổng.
Ngoài đường kẻ đi người lại nhộn nhịp. Người nào cũng quần chùng áo dài mới mẻ, sạch sẽ. Họ chào nhau, chúc nhau. Chốc chốc lại một tràng pháo nổ mừng xuân.
Bác xã cắm đầu đi. Gặp ai, bác cũng chỉ chúc qua loa mấy câu, rồi bác rảo bước tiếp luôn: “Xin phép ông, tôi chưa đi lễ đâu cả”. May cho bác, đến nhà nào, họ cũng đi vắng, chỉ có bà chủ ra tiếp. Bác vội vàng lễ bốn lễ, có khi ba cũng nên, đoạn, bác vừa cầm lấy miếng trầu trong cái đĩa của bà chủ bưng ra mời, vừa nói: “Xin lỗi bà, tôi còn phải lễ nhiều nơi lắm”.
Bác lại tất tả sang nhà khác. Mãi tối mịt bác mới về. Tính ra, bác còn phải đi lễ dăm sáu chục nhà nữa. Đành để hôm mồng hai vậy. Chỉ để được đến hôm mồng hai thôi, vì mồng ba đã là ngày cúng cơm, hóa vàng. Cũng như hôm ba mươi, ngày ấy dành riêng cho những họ đương gần gũi.