← Quay lại trang sách

TỪ VIỆC NHÀ ĐẾN VIỆC LÀNG

Đấy lão đã bảo mà! Quanh quẩn rồi cũng đến phải theo chính sách của lão mới xong. Thế bà ta trừ nợ đi rồi, còn trả lại bác bao nhiêu!

Ông cán Bích nói có vẻ tự đắc lắm.

Bác xã Chính gãi tai, tủm tỉm cười:

- Dạ, còn được có bảy chục thôi ạ. Bẩm cụ, cháu bán, cháu cũng tiếc lắm…

Ông cán ngắt lời:

- Tiếc thì ai mà chả tiếc. Nhưng việc gì cũng vậy, phải biết suy hơn, tính thiệt. Để mà thiệt thì bán quách đi còn hơn… Ấy! Ngồi xuống chứ. Có ở chốn đình trung đâu mà phải khép nép, giữ lễ.

- “Dạ, xin phép cụ”, bác vừa nói vừa ngồi xuống mép phản, bác gãi tai nói tiếp:

- Dạ, bẩm cụ, chúng cháu…

Bác chưa nói hết câu, ông cán lại ngắt:

- Nhưng mà sao lại có bảy chục thôi? Tôi tưởng nhiều hơn chứ?

- Dạ… Vâng, cứ tính hai mươi lăm đồng một sào, thì bà Chánh còn phải trả lại nhà cháu tám mươi đồng nữa mới phải, nhưng mà…

- Hơn nữa chứ lỵ! Bảy sào, hử? Bảy sào vị chi đi một trăm… bảy mươi… lăm đồng. Thế là bác nợ bà ta cả vốn lẫn lãi là bảy mươi hai phương…

- Lạy cụ ạ, bác Chính gái ở dưới bếp lên, chắp tay vái chào rồi ngồi thụp xuống đất, bên cạnh chồng nghe chuyện.

Ông cán chào lại: “Không dám”, rồi nhắc câu trước:

- Bác nợ bà ta bảy mươi hai phương?

Bác gái cướp lời bác trai:

- Bẩm cụ, vâng ạ. Bảy mươi hai phương. Lúc đầu chúng cháu nợ bà ta có hai mươi bốn phương. Trong có ba năm mất mùa liền mà nó đẻ ra ngần ấy đấy, cụ ạ. Rõ điêu đứng khốn khổ.

Nói xong bác thở dài.

Bác trai nói xen:

- Bẩm cụ, giá biết thế chúng cháu bán ngay cái năm bị úng thủy đi hóa xong. Bán độ ấy được giá cao mà nợ không mấy hột.

Bác gái quay lên phía chồng, nói:

- Chuyện! Biết sự trời mười đời chẳng khó.

Bác quay sang phía ông cán:

- Có phải không, cụ nhỉ?

Trong lúc hai vợ chồng đương tranh nhau nói, ông cán thừa thì giờ, thông điếu hút thuốc. Ông vừa thở khói vừa trả lời bác gái:

- “Phải, bác gái nói phải. Ai biết trước được sự trời.” rồi ông trở lại bài tính của ông:

- Bảy mươi hai phương mà mỗi phương đồng hai, thành ra… Hãy cứ tính bảy mươi phương đã. Bảy mươi phương mà mỗi phương đồng hai…

Ông vừa nghĩ vừa gõ xe điếu vào thành bát canh cách.

Bác xã gái tính nhẩm quen; thấy ông cán nghĩ lâu, bác tính đỡ:

- Bẩm cụ, thế là đi tám mươi tư đồng, với lại hai phương lẻ nữa hai đồng tư, cộng tất cả là tám mươi sáu đồng… tư hào.

Bác trai dốt tính, ngồi thừ ra nghe.

Ông cán thò tay vào nách gãi sồn sột, rồi thản nhiên lấy móng tay cái búng ghét trong các móng khác. Đoạn, ông lại tính:

- Thế mà bảy sào của các bác những một trăm bảy mươi lăm đồng, trừ tám mươi sáu đồng, hai bác cũng còn được… hơn tám mươi đồng nữa kia mà.

Bác gái chữa lại:

- Bẩm cụ còn tám mươi chín đồng.

- Ừ, tám mươi chín đồng. Thế sao hai bác lại nhận có bảy chục, chả hóa ra thiệt lắm ru.

Bác gái thấy mình nói nhiều quá, ngồi lặng yên để nhường chồng trả lời:

- Bẩm cụ không nhận cũng không xong. Chả thế mà bu cháu vừa ngỏ ý muốn bán cho người khác, bà ấy nổi khùng lên, dọa đi kiện. Bà ấy bảo: ba sào ruộng đã cầm cho bà ấy rồi, bà ấy chỉ kiện về tội lật lọng cũng đủ tù…

Vợ ngồi nghe, cáu tiết, ngắt lời chồng:

- Thưa cụ, nhà cháu nhút nhát quá. Bà ta nói thế mà đã vội cuống lên, xin nhận ngay bảy chục. Cứ những như cháu thì chả tám mươi chín đồng, cũng phải tám chục mới xong. Kiện! Đã dễ mỗi lúc mà kiện được nhau!

Chồng thấy vợ chê mình nhút nhát cũng tức, cãi lại:

- Sao người ta lại không kiện được? Mà kiện thì chẳng gì đi lại trên quan cũng hãy tốn kém vào đấy đã. Họ giàu, những tiền ấy họ kể vào đâu. Còn nhà mình, một cái bát chẳng có, lấy đâu ra mới được chứ? Nói… nói thì cũng phải nghĩ nữa chứ, cứ nói phứa phựa như mình thì ai chả nói được!

Vợ ngồi thừ ra một lúc, rồi:

- Phải, mình thì biết nghĩ… biết nghĩ như mình thì cả đời chỉ chịu phần thiệt.

- Chả đi đâu mà thiệt… Tuy mình không được thêm chục bạc, nhưng mình đã không phải chịu tiền đóng triện, tiền chước bạ, tiền duyệt… lại còn được cấy lĩnh canh ruộng của bà ta. Kể bà ta còn tử tế chứ.

Vợ vẫn ngồi thừ, hạ thấp giọng, nói sẽ:

- Tử tế… Mình thì ai cũng là tử tế… giá họ có cướp không ruộng đất cũng còn là tử tế!

Chồng gắt:

- Mình nói dở như đấm vào tai người ta ấy. Ai lại cướp không của nhau bao giờ!

Từ nãy, mải cãi nhau bác quên bẵng ông khách, bác vội quay ra nói với ông cán:

- Thưa cụ, bu cháu dở dở ương ương thế đấy. Động tí gì thì là cãi chầy cãi cối.

Ông cán chừng thấy hai vợ chồng sắp mất vẻ hòa thuận, bèn giảng giải:

- Thôi, việc đã qua nhắc đến làm gì nữa. Kể thì bác trai nói cũng phải, bác gái nói cũng phải. Hai bên cùng phải cả.

Ông cán tuy ở ngay sát nách mà ông cũng không khỏi lầm. Cặp vợ chồng ấy không bao giờ giận nhau.

Nếu ông cứ để cho hai bên cãi vã, rồi rút cục thế nào cũng có bên nhịn. Chẳng vợ thì chồng. Và sự hòa thuận vẫn lành lặn như cũ.

Câu chuyện bán ruộng vừa kết liễu thì có hai người đương thứ, khán Đê và quản Giáp, đến mời.

Mỗi anh cầm một cái roi bằng tre tươi tuốt lá để đánh chó và để cho oai nữa.

Hai anh tiến gần đến ông cán Bích vái chào.

Khán Đê nhanh miệng, gãi tai nói (ở thôn quê, gãi tai là một tục lệ bất di dịch của kẻ dưới nói với bề trên):

- Bẩm cụ, việc làng hôm nay có cụ lớn tuần, mời cụ ra sơm sớm tý.

Nói rồi anh chắp tay đứng đợi lệnh.

Quản Giáp chẳng lẽ đứng không, tưởng cũng nên nói thêm một câu:

- Bẩm cụ, chúng con đã đến đằng nhà. Cụ… cụ bà bảo cụ ở bên bác xã. Chúng… chúng con vội sang đây trình cụ.

Bác gái thấy có đương thứ đến, đứng dậy đi vào buồng têm trầu. Bác trai cũng đứng dậy. Vì chức bác còn kém hai anh kia tuy họ mới là đương thứ.

Cứ kể chức họ hơn cả chức ông cán: khán xã, quản xã rồi mới đến cán xã. Nhưng ông cán đây lại khác, tuy chức ông nhỏ mọn, song ông đã được hai ông con cùng là lý cựu. Bởi thế, trong thôn ổ, người ta vẫn trọng vọng ông, tôn ông vào bực đàn anh, ngồi ngang hàng với ông hội, ông chánh và các bực chức dịch có tuổi.

Thấy hai anh đến mời, ông đã biết làng họp về việc gì rồi, nhưng ông cũng hỏi lấy lệ:

- Việc gì thế, hai anh?

Quản Giáp sợ khán Đê tranh lời nói trước:

- “Bẩm bẩm…” nhưng anh vốn chậm chạp lại lắp, ấp úng mãi không nói được một câu, để khán Đê lại phỗng tay trên:

- Bẩm cụ, chúng con nghe đâu các cụ bàn về việc sửa lại văn chỉ và xây giếng giếc gì.

Quản Giáp cố nói tiếp một câu cho đỡ tức:

- Bẩm… bẩm làng họp về việc sửa sang văn… văn chỉ.

Khán Đê bưng mồm cười. Chẳng biết hắn không nhịn được hay là cười để trêu tức quản Giáp.

Ông cán không cười, đĩnh đạc nói:

- Được, cho các anh về.

Hai anh chào, sắp lui ra thì bác Chính gái ở trong buồng đem trầu ra mời. Hai anh cầm trầu và muốn đáp lại lòng tử tế của bác gái, quay ra mời bác trai:

- Chốc nữa, mời ông ra việc làng (Lệ họ không phải mời từ ông cán trở xuống. Những ông ấy đã có mõ rao).

Bác xã Chính cũng biết thế, nên nói lại:

- Tôi đâu dám để các ông mời… Vâng, rồi tôi đi theo hầu cụ cán tôi nhân thể.

Trước khi ra về, hai anh đương thứ chào ông cán lần nữa.

Hai anh vừa bước chân xuống thềm, con chó Mực ở đâu xồ ra. Hai anh lấy roi vụt lấy vụt để. Ừ có thế chứ! Chả nhẽ cái roi nãy giờ để không? Bác gái chạy ra đuổi chó.

Bác trai vào buồng, lục trong thúng, lấy chiếc quần trúc bâu mới, chiếc quần mà bác chỉ dám mặc vào những ngày đình đám hội hè hay những ngày tết. Bác mặc chiếc áo lương ra ngoài áo cộc nâu và đội cái khăn chụp bác sắm từ dạo đình đám nào, nhưng bây giờ hãy còn mơi mới. Bác không dám sỏ chân vào đôi guốc sợ lộp cộp trước mặt cụ tuần coi bất tiện.

Ông cán nhìn xuống thấy quần mình cháo lòng quá, cũng trở về thay quần mới.

“Phải, mấy khi có cụ lớn tuần chủ tọa”, cụ nghĩ thế.

Việc làng hôm nay đông đúc và có vẻ đặc sắc hơn mọi lần, đặc sắc vì có cụ lớn tuần, một ông tiên chỉ mà phẩm tước đã làm nên danh nên giá cho xã Cầm Ô.

Năm lá cờ chuột gậm, mọi lần vắng mặt, bay phất phới trước cửa văn chỉ, có lẽ cũng là biểu hiệu cho phẩm tước ấy. Phải, một vị đại thần đứng đầu, hiếm có lắm chứ! Thử nhìn khắp các làng chung quanh xem đã làng nào có một quan nhỏ, như ông phủ, ông huyện chẳng hạn. Họa chăng có một ông hàn hay một ông cử, ông tú, cũng là danh giá lắm rồi.

Nghĩ ông trời cũng chơi khăm. Làng Cầm nhan nhản những văn vật, cử tú hàng sốc, hàn hiếc hàng xiên, sao trời chẳng đem rải rác đi các làng cho đều, để nơi thì thiếu, nơi thì thừa, thừa thãi danh giá.

Chắc xã Chính, xã Bửng, xã Bật nghĩ thế, và các ông cựu cũng nghĩ thế nên người nào người ấy đều đổi lốt ăn mặc lịch sự như trong những ngày hội. Trời rét buốt ruột mà nhiều ông vẫn phong phanh chiếc áo the thâm. Họ biết rét cả đấy. Họ có phải là người ở Nam Cực hay Bắc Cực đâu mà bảo không biết rét. Nhưng khốn lắm, chẳng lẽ khoác cái áo bông rách tả tơi ra trước mặt cụ lớn tuần thì coi sao tiện?

Không kể những ông già nua tuổi tác, mặc luộm thuộm thế nào xong thôi và các ông nhà giàu thôn quê mặc những chiếc “ba đờ suy” khố tải sắm từ đời tám hoánh nào. Họ cho có “ba-đờ-suy” là sang rồi, dù chiếc áo ấy trông không được đẹp mắt. Ngoài ra, họ còn vài chục vuông nhiễu vàng như nghệ, hoặc chiếc “phu-la” đủ các màu sặc sỡ quấn ở cổ hay bịt lên đầu.

Lại những đôi guốc sơn. Không biết ở đâu đẻ ra lắm thế! Từ ông lý, bà lý trở xuống ông xã, bà xã, ông nhiêu, bà nhiêu cho chí bọn cùng đinh đều kéo lê đôi guốc.

Trước kia chưa đầy mươi năm, ông lý, ông xã thường lẹp kẹp đôi dép quai ngang hay những khi mưa lội, xỏ chân vào đôi guốc tre cong tớn, quai mây và cao lênh khênh. Người nào đi không quen ngã bổ chửng.

Thời những đôi guốc mới còn hiếm, các ông chức sắc, các ông con nhà thế phiệt thường vác nó ra đình ra đám. Đến nay nó thông dụng quá, bình dân quá, nên các ông đã bỏ nó, để trở lại với đôi giày Chí long, Gia Định. Các ông chỉ đi guốc ở trong nhà hay bất đắc dĩ đi ra đường những hôm trời mưa.

Hai chiếc sập gạch dài ở hai bên giải võ văn chỉ đã chật ních. Sập bên đông toàn lý dịch, sập bên tây cán, xã đông quá đến nỗi xã Chính và những bọn xã nhép phải đứng cả hai bên đầu hồi.

Hai chiếc sập giữa, chiếc cao chiếc thấp, để không, chưa có ai ngồi. Chắc các ông cử, ông tú, ông hàn, ông hiếc còn đến cả đằng cụ tuần để đợi đi sau cụ thành một chuỗi dài cho trọng thể.

Các đương thứ chạy lăng xăng, gọi nhau rối rít. Giá có ai giữ họ lại mà hỏi họ đi đâu thì họ không biết trả lời ra sao. Họ chạy đi chạy lại như có việc. Thực ra, họ chẳng có việc gì cả.

Xã Chính và xã Bật đứng không cũng buồn, đem câu chuyện lẩn thẩn ra thì thầm.

Xã Chính nói:

- Này bác, không biết cụ lớn tuần người đi ra đây bằng “tô vin”* hay bằng võng điều?

Tô vin: ô tô.

Xã Bật, ra mặt thạo:

- Bác nói dở lắm. Từ nhà cụ đến đây xa xôi gì mà phải đi “tô vin”. Cụ lớn người cũng chả đi võng điều. Việc làng chứ có phải hội quan lão đâu.

- Thế thì có lẽ cụ lớn người đi xe tay. Một anh đương thứ chạy xồng xộc vào, hớt hơ hớt hải nói:

- Bẩm các cụ, cụ lớn đến.

Mọi người nhớn nhác nhìn ra sân… rồi đứng dậy một loạt. Những tiếng “lạy cụ lớn” ồn ào.

Cụ tuần xòe tay ra hiệu bảo cứ ngồi.

Nhưng họ vẫn đứng, đợi bao giờ các ông cử, tú, ông hàn ngồi cả xuống rồi mới dám ngồi.

Mấy anh đương thứ cắt việc nhau. Một anh khoanh tay đứng hầu sau cụ tuần. Một anh chạy lên chạy xuống, sai bảo thằng mõ. Một anh bưng khay nước, khay trầu. Họ chỉ soắn suýt chung quanh cụ tuần và các ông bên trên. Còn các ông cán xã đã có thằng mõ.

Xong tiệc nước, tiệc trầu, sau khi những cái điếu truyền hết tay này sang tay nọ, cụ tuần cất giọng khàn khàn, thong thả nói:

- Hôm nay đông đủ mặt làng, tôi muốn bàn đến việc sửa sang văn miếu.

- “Dạ”. Mọi người cùng thưa một lúc.

Cụ tuần giơ tay với cái điếu ống đồi mồi. Anh đương thứ đứng hầu đằng sau bước vội lại lom khom thông điếu, bỏ thuốc rồi bật diêm đợi.

Cụ tuần uốn cong xe trúc xuống, mím môi hút.

Tiếng lách tách trước còn rời rạc, sau nhanh dần, đổ hồi réo rắt.

Ông cán, ông xã ngồi ngây ra, chăm chú nhìn cụ tuần và cái điếu. Họ để ý đến từng lời nói, từng cử chỉ của cụ, hình như mỗi lời nói, mỗi cử chỉ ấy là quan trọng.

Cụ tuần hút xong, uống một hụm nước chè nóng nhấp giọng rồi nói tiếp:

- Việc sửa sang tôi đem ra bàn đây không phải là việc sửa chữa những tòa nhà đồ sộ và kiên cố kia. Vả lại những tòa nhà ấy là di tích công cuộc to tát của cụ lớn thượng cố khi xưa, ta đâu dám phạm tới… Nhưng các ông, các thầy thử nhìn cái sân ngay trước mặt ta. Cỏ mọc, rêu phong. Ngày nắng nôi đã vậy, đến những ngày mưa thì thực là lầy lội, không còn chỗ bước. Giá phỏng những ngày ấy nhằm vào ngày đại tuyết thì đi lại có vất vả, khổ sở không. Vậy bây giờ tôi muốn cho lát gạch sân và xây tường bao bọc chung quanh văn miếu, thay vào những bụi tre trống trải cho nó vừa kín đáo vừa ngoạn mục. Văn miếu là chỗ quan chiêm, có ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của làng, tôi tưởng nên làm. Các ông, các thầy nghĩ sao?

Trong khi cụ tuần diễn thuyết, các quan viên đông, tây ngồi xếp bằng, hai tay chấp lấy nhau, mình thưỡn ra như bụt mọc… trông như những thầy khóa ngồi nghe cụ tuần giảng kinh nghĩa.

Chợt thấy cụ tuần hỏi ý kiến, các ông nhìn nhau không biết trả lời thế nào cho phải phép.

Các ông cử, tú đều hoan nghênh, cho việc sửa sang văn miếu là cần kíp. Các ông vốn là chân khoa mục, là môn đồ cụ Khổng. Các ông muốn văn chỉ ngày một thêm rực rỡ, uy nghiêm để cho thanh danh của các ông khỏi bị hao mòn trong cái thời buổi mới mẻ này.

Cụ tuần ngồi xếp bằng, vuốt lại bộ râu bạc, rồi hai khuỷu tay chống xuống hai đầu gối, hai bàn tay chắp lấy nhau, quay sang bên đông, bên tây hỏi:

- Các ông đã vậy, còn các thầy nghĩ sao? Có nên không?

Một vài ông trong hàng lý dịch đứng dậy, gãi tai, nói:

- Bẩm cụ lớn với các cụ dạy thế nào, chúng con cũng xin theo.

Nói xong, các ông lại ngồi xuống, vẻ mặt kiêu hãnh như đã làm một việc hệ trọng.

Cụ tuần yên trí rằng lời mình nói ra không còn ai dám phản đối. Nhưng cụ cũng hỏi đi hỏi lại cho mọi người bằng lòng, thỏa thuận:

- Còn thầy nào có ý kiến gì hay, cứ đứng lên mà biện bạch, không việc gì phải e lệ. Thế nào gọi là việc làng. Phải có người nọ người kia bàn ra bàn vào cho vui chứ.

Yên lặng một lát, lý Cúc đứng dậy. Bao nhiêu con mắt ngạc nhiên đổ dồn cả vào ông. Xã Chính sẽ bấm xã Bật đứng cạnh thì thầm: “Cụ cựu! Cụ cựu ta! Ừ, có thế chứ!”

Bác hối hận, nhìn ngang nhìn ngửa, sợ họ nghe thấy.

Lý Cúc đứng thẳng người. Tuy ông không bỏ được cái lệ gãi tai, nhưng ông không rụt rè, sợ hãi như mọi người. Ông nói dõng dạc:

- Bẩm, trên có cụ lớn cao xa rồi đến các cụ và các quan vơn làng. Cụ lớn và các cụ có rộng phép thì chúng tôi mới dám thưa.

- Được, thầy cứ nói.

Cụ tuần cũng hơi ngạc nhiên, tuy cụ đã biết tiếng lý Cúc là một tay ăn nói.

Lý Cúc hắng dặng mấy tiếng để lấy giọng:

- Bẩm cụ lớn, trong ba việc: việc sửa sang văn chỉ, việc xây giếng, việc tu bổ chợ mà các cụ đã từng bàn đến một vài lần, chúng tôi thiết tưởng việc xây giếng và việc tu bổ chợ là quan hệ và cần kíp hơn. Vì những lẽ này: bốn thôn hiện nay không có một cái giếng nào gọi là có thể dùng được. Thế mà làng thì xa sông, xa ngòi, chỉ toàn thị những ao tù nước hãm, không hợp vệ sinh. Còn chợ Cầm ta, cụ lớn đi qua cụ lớn đã biết, trơ trọi độc mỗi một cái quán nhỏ. Ngoài ra, toàn thị những túp lều chống bằng những hàng cột tre mảnh khảnh, chỉ thổi cũng đổ, không cần phải gió bão lớn.

Các ông cử, tú chau mày, có vẻ khó chịu.

Ông cử Hạ định ngắt lời, cụ tuần vội xua tay:

- Được, ông cứ để thầy lý nói nốt. Thầy ấy có nhiều ý kiến hay đấy.

Lý Cúc tự nhủ: “Đã nói thì nói cho hết, kẻo lại mang tiếng với ông giáo Rao rằng mình chỉ bẻm mép, không dám đem ý kiến của ông ra ngỏ cho làng hay”. Nghĩ vậy, ông lại quay mặt ra đằng sau, hắng dặng mấy tiếng cho tốt giọng rồi nói tiếp:

- Bẩm cụ lớn, cụ lớn đã cho phép, vậy chúng tôi xin trình bày ý kiến của chúng tôi, còn nên hay không là tùy ở cụ lớn và các quan vơn làng… Ý chúng tôi muốn trước hết hãy tu bổ chợ, làm thêm vài cái quán ngói để những khi mưa lội, hàng họ có chỗ trú ẩn. Rồi bao nhiêu hiệu khách, xin cụ lớn cho họ ra cả đấy buôn bán, làm nhà cho họ thuê. Tiền thuê nhà, tiền thuế chợ, làng sẽ thu lấy, sau này đem ra làm việc khác…

Lý Cúc đang hoạt giọng còn muốn nói nữa, nhưng ông lý Hạt vội níu vạt áo kéo xuống.

Cụ tuần không để cho cái yên lặng khó chịu nó bao trùm cả ba gian giải võ, vội nói ngay:

- Lý, lý…

Một ông đỡ lời:

- Bẩm lý Cúc ạ.

- Ừ ờ lý… lý Cúc nói phải lắm, hay lắm… Nhưng mà việc ấy to tát quá, lý ạ. Ít ra phải vài nghìn mới thành… Nhưng mà rồi ta cũng làm, rồi ta làm cả việc xây giếng nữa. Làng ta phong phú, việc to thế nào mà chả xong. Bây giờ thì ta… ta hãy làm việc nhỏ đã, việc sửa sang văn miếu đã, có phải không lý? Có phải không các ông, các thầy?

Cụ khéo lắm, cụ hỏi ý kiến lý Cúc trước hết mọi người để lý Cúc hài lòng mà không nghĩ gì đến phản đối nữa, tuy lời phản đối của một mình lý Cúc không đủ ngăn cản công việc của cụ.

Lý Cúc sung sướng đâm ra nể nang, trả lời:

- Bẩm cụ lớn dạy phải lắm.

Các ông cử, tú trở lại tươi tỉnh và khâm phục cụ tuần khéo dàn xếp.

Hàng lý dịch đua nhau nói nịnh:

- Bẩm cụ lớn dạy chí phải. Cả làng đều thỏa thuận.

Ông lý Hiểu bàn thêm:

- “Bẩm cụ lớn bây giờ đến việc tiền nong, cụ lớn định thế nào để chúng tôi xin… ạ…” Đến đây, ông lúng túng chưa biết tìm tiếng gì nói cho hết câu thì may sao cụ tuần nói luôn:

- Còn tiền nong tính toán về việc tu sửa thì đã có ông hội Nghị là tay thạo… ông hội đâu?

Ông hội Nghị (không phải ông hội thôn Tiền, người loắt choắt như con chuột) đứng dậy thưa:

- Bẩm cụ lớn, chúng tôi đã tính với thợ ngõa rồi. Tất cả hết linh bảy trăm. Bẩm, nó tốn về những bức tường xây chung quanh. Bẩm, nhìn thế mà lúc đo có tới vài ba trăm thước đấy ạ. Bẩm nhân tiện, cụ lớn cho xây lại cả bức tường giải võ bên kia nữa. - Ông vừa nói vừa chỉ. - Bẩm, nứt toát sắp đổ cả.

Ông hàn Lành quay lên nói:

- Bẩm cụ lớn, linh bảy trăm, cho là bảy trăm rưởi, số tiền ấy xin bổ cho bốn thôn: thôn Trung to hơn cả thì phải chịu hai trăm rưởi. Thôn Thượng và thôn Tiền, mỗi thôn hai trăm. Còn thôn Hạ bé nhất, chịu một trăm…

Ông tú Cầm nói thêm:

- Bẩm cụ lớn mỗi thôn chỉ bán vài ngôi xã nhưng hay một ngôi hương chánh là thừa thãi chán.

- “Phải, tôi cũng nghĩ vậy… Bây giờ cả làng đã thỏa thuận, ta giải tọa đi thôi. Tôi có tuổi, ngồi lâu mỏi lắm”. Cụ tuần vừa nói vừa đứng dậy.

Mọi người cùng đứng dậy một loạt. Đợi cho cụ tuần và các ông cử, tú, các ông hàn đi rồi, họ lại ngồi xuống, nói ba hoa một lúc rồi mới giải tán để sáng sớm hôm sau ra đình họp việc thôn.