HẾT NỢ
Việc cấp điền đáng lẽ độ bốn năm hôm mà kéo dài tới nửa tháng.
Chỉ vì những đám tranh giành nhau về ngôi thứ, cãi cọ nhau về ruộng nương làm ngăn trở.
Xã Chính mất hai sào của khán Kiệu, mất đứt, không còn cãi vào đâu, dẫu rằng bác đã có ông cựu nhà bác che chở. Người thuê tranh bác là xã Vịnh. Hắn khôn ngoan, đem theo tờ chứng nhận của tên Kiệu ra trình làng. Còn hai sào của lý Hảo, con ông Chánh Hẵng, thì bị ngay vào tay ông ấm Chuyên, một người tai mắt và có quyền thế trong làng. Bác ngắc cổ không còn kêu được một tiếng. Ông ấm đã được ruộng còn nói đãi bôi: “Nếu biết anh đã thuê của hắn rồi thì tôi thuê làm thèm vào. Tôi thiết gì hai sào ruộng nhép. Hắn van lạy, khẩn khoản mãi tôi mới thuê giúp cho hắn. Tám đồng đấy. Tôi trả cả trước rồi. Anh muốn cấy thì tôi nhường lại cho”.
Xã Chính gãi tai đáp lại:
- “Bẩm, cụ đã thuê thì con đâu dám.” Và bác nghĩ bụng: “Tám đồng thì bố ai dám động đến?…”
- Thế anh đã trả trước hắn bao nhiêu rồi?
- Bẩm… bẩm hai đồng rưỡi ạ.
Bác mừng thầm tưởng ông ấm thương hại mà bồi cho một nửa.
- Thế thì hắn tệ thật. Để rồi tôi bảo hắn hoàn lại cho.
- Vâng lạy cụ, trăm sự nhờ cụ, cụ thương đến nhà chúng cháu túng bấn.
Nhưng nếu bác nhìn rõ bụng ông ấm, nếu bác biết chung quy chỉ là lời hứa hão thì bác sẽ chán ngắt.
Thế là tất cả một mẫu hai, bác còn mang về được tám sào. Bác tự an ủi, cho như mình thuê đắt một tí vậy. Vả bác vẫn tự tin một cách chắc chắn rằng nhờ có ngôi mộ kết phát, nhà bác sẽ ngày một thịnh vượng. Rồi, không bao lâu bác sẽ có tiền dư thóc để. Bác sẽ dựng cơ nghiệp, tậu vườn, tậu ruộng, tậu trâu…
Bác vừa đi vừa nghĩ. Chợt bác thấy một con trâu của cán Thận nằm ung dung như nhai trầu ở trước cửa nhà hắn.
Con trâu ấy là một con trâu cái. Đã bao lâu bác hằng mơ ước một con trâu cái. Bác chăm chú nhìn từ cái mũi đen ướt cho chí những cái khoáy ở đầu, cái ngấn trắng ở cổ.
Con trâu nằm gập hai chân trước. Một chân sau hơi duỗi để lộ bộ vú hồng, phơn phớt lông tơ trắng. Nó không buồn để ý đến bác, tư lự như một nhà triết học, cặp mắt lờ đờ nhìn đâu đâu, hàm dưới ướt rãi với hàng răng liền sát, thô kệch, đưa đẩy một cách uế oải, hai tai phe phẩy và cái đuôi thong thả đập lên sườn đuổi muỗi. Bác mê man tự nhủ:
- Rồi ta cũng tậu một con như con này.
Từ hôm ấy, không mấy chiều là bác không dừng chân đứng ngắm con trâu của cán Thận, sau những buổi làm lụng vất vả. Bác mê nó như mê gái. Chiều nào không được gặp nó, bác nhớ, ngơ ngẩn như người thiếu thốn sự gì. Một con trâu cái! Ngoài vợ con ra, nó sẽ là người bạn thân của bác, bao giờ cũng sẽ theo lệnh bác, cùng bác phơi mình dưới mưa dầm, nắng gắt để làm giàu cho bác, để vợ con bác được mát mày mát mặt.
Hiện giờ nó là cái đích để bác theo tuổi. Suốt vụ chiêm, bác không bỏ một buổi nào. Sáng sớm tinh sương, bác đã vác cầy vác cuốc ra đồng làm việc với con trâu mà bác thuê được của bà cán Bột. Nói thuê thì không đúng. Bà cán Bột thấy bác hết cả, không còn tí gì, đem lòng thương hại. Một hôm bà gọi bác sang nói chuyện: “Này bác Chính ạ. Tôi thấy vợ chồng bác với lũ con mà ái ngại. Khốn nạn! ruộng nương bán sạch rồi… Tôi cũng chẳng có gì giúp bác. Có đồng nào, thằng con rể nó vơ vét cả… Bây giờ thì thế này: tôi có mười mẫu cho thuê đi tám còn hai. Tôi muốn cấy để lấy thóc ăn. Bác cầy bừa cho tôi hai mẫu ấy rồi tôi cho mượn con trâu hết vụ chiêm.”
Xã Chính cảm động ứa nước mắt. Bác không biết tìm câu gì để cảm tạ lòng tử tế của bà cán, chỉ láy đi láy lại: “Cụ thương chúng cháu quá.”
Mít thương cha đã nắm sẵn nắm cơm từ tối hôm trước để cạnh đĩa vừng rang.
Vợ thấy chồng lao lực quá, thường khuyên can:
- Này mình, mình xốc vác vừa vừa chứ, lỡ ốm thì khổ.
Bác tủm tỉm cười trả lời vắn tắt:
- Mình chỉ nói dại!
Bác xốc vác quá thật. Suốt từ sáng sớm cho đến tối mịt, không lúc nào người ta thấy bác rời con trâu với cái cầy.
Trưa, trời nắng chang chang, cánh đồng như hun như đốt, mặt nước ruộng loang loáng bắt những tia lửa chói lên mắt. Hơi nước hôi hổi xông lên, bao bọc lấy người. Mồ hôi từ trán chảy ròng ròng hai bên má, rỏ từng giọt xuống như giọt tranh. Khắp mình mẩy đỏ tía và bóng như pho tượng đồng tắm ánh sáng. Con trâu thở phì phì, bước những bước nặng nhọc, cặp sừng đập hết bên nọ sang bên kia. Bùn đầy mình phơi dưới lửa hè, bong ra từng mảng. Cả người lẫn vật mệt nhoài. Mặc những bọn thợ khác nằm sóng soài dưới gốc đa, dưới khóm tre nghỉ mát, bác và con trâu cứ cắm đầu cắm cổ, mải miết làm.
Có lần chiều về mệt lử, thở hơi tai, mờ cả mắt, nhạt cả miệng, bỏ cả ăn, bác nằm vật xuống phản ngủ thiếp đi cho đến sáng. Vợ và con gái chỉ còn cách thở dài, vì đã nhiều phen tìm lời can ngăn mà bác nhất định không nghe. Bác đã quả quyết cho tới đích; con trâu của cán Thận còn nằm sờ sờ đây kia để nhắc nhỏm dìu dắt bác.
Một hôm đương trưa, trời oi ả khác thường. Không một mảy gió, cây cối im phăng phắc. Cánh đồng vắng tanh. Cả đến chim chóc đều yên lặng ẩn núp dưới vòm cây.
Bỗng tối sầm lại. Từ phương đông mây đen kịt, nặng trĩu, đủ các hình kỳ quái, đem lên rất mau và che khuất mặt trời.
Một luồng gió lạnh thổi. Rồi nổi theo những luồng gió khác. Xã Chính ngừng cầy, lấy khăn nâu buộc trên đầu lau mặt và khắp mình mẩy. Bác khoan khoái thở ra hai tiếng: “Phúc đức!” Con trâu được nghỉ ngơi, cũng thở phì một tiếng dài như để đáp lại tiếng thở của chủ nó.
Gió mỗi lúc một mạnh. Những ngọn tre ngả nghiêng, và lá khô bay tán loạn.
Phút chốc mây đen kéo đầy trời. Chớp sáng loáng. Sấm sét vang động.
Khắp vùng quê thức dậy sau một giấc ngủ nặng nề. Xã Chính đứng sững lưỡng lự. Ngót tháng nay, bác đã đổi làm công nhật ra làm khoán. Vì bác thấy bác làm gấp đôi người ta. Bác có ý kiến ấy là nhờ mấy buổi làm cho bà cán Bột: Mọi người đều bảo cho bác biết rằng bác làm vừa mau vừa cẩn thận kỹ càng. Vì thế, bác ngỏ ý xin làm khoán và các chủ điền thấy bác chịu khó xốc vác đều bằng lòng ngay.
Lúc này bác toan nghỉ nhưng lại tiếc, tiếc một quãng thời giờ bỏ không, thiệt cho bác mất năm sáu xu. Nghĩ vậy, bác quả quyết. Sau một cái chậc lưỡi, bác dõng dạc hô: “Vatt! Đi! Đi…! Đi nào!”
Con trâu ngạc nhiên trong giây phút rồi theo mệnh lệnh, ngoan ngoãn bước những bước nặng nề trong bùn lầy. Người và vật lại cặm cụi làm việc, làm việc trong mưa.
Một giờ sau, mây tan dần, mưa mỗi lúc một thưa hạt rồi tạnh hẳn. Mặt trời lại rực rỡ, rực rỡ có phần hơn trước. Khi nóng hơi nước bốc lên làm mờ những lũy tre đằng xa.
Một vài con chim hót rời rạc, người ra đồng lẻ tẻ…
Bác xã thấy choáng váng. Ngực như bị sức nặng đè ép làm cho khó thở. Bác cố gượng, tự nhủ:
- Chà! Tại mưa xuống, nắng lên người có mệt qua loa rồi lại khỏi, can gì!
Bác vẫn không chịu rời con trâu với cái cầy. Nhưng chân bác lội trong bùn mỗi lúc một chồn thêm. Tay bác rời rã, cầm cán cầy không chắc. Hơi nước bùn nồng nặc xông lên mặt mũi bác.
Bác nhớ lại lời khuyên của vợ:
- Mình xốc vác vừa vừa chứ, lỡ ốm…
- Ừ, mà lỡ ốm… - bác tủm tỉm cười - ốm thế quái nào được. Đừng có mệt thì phải nghỉ… nhưng mà ta hãy cầy hết luống này đã rồi nghỉ một thể.
Bác vừa cầy được một luống, bỗng chân tay bác bủn rủn, mắt bác hoa lên, tối sầm lại. Bác ngã xuống bờ ruộng ngất đi.
Bác xã gái nước mắt dàn dụa, vừa nói vừa khẽ lay vai chồng:
- Này mình! Mình ơi! Mình mê đấy à? Ô hay! Trâu nào? Mà tôi vẫn buôn vải buôn sồi đấy nhé.
Bác quay ra nói với ông cán Bích ngồi bên cạnh, hai tay nâng vạt áo úp lên mặt lau nước mắt:
- Cụ ơi, khổ quá cụ ạ. Nhà cháu cứ mê man ba bốn hôm liền thế này thì có việc gì không, cụ?
- Chả việc gì. Ai lúc sốt quá cũng mê như thế. Rồi hết cơn sốt, bác ấy lại tỉnh như thường. Chả việc gì. Bác cứ yên tâm, đừng khóc lóc thế này, người ta kiêng đấy.
Tuy lời nói của ông có vẻ vững chãi, nhưng cặp mắt ông rầu rầu nhìn xã Chính đủ tỏ rằng ông cũng lo ngại.
Từ hôm nằm vật ra bờ cỏ và được Chắt và Tửu khiêng về, bác xã Chính không mấy lúc tỉnh. Bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng. Hai ông lang, mỗi ông cắt mấy thang thuốc không thấy chuyển, sợ phải bỏ. Hôm qua ông lang Tại, có tiếng là danh sư, bao đời làm thuốc, sau khi cầm mạch, cũng phải nói lưỡng lự:
- Bác ấy bị thương hàn nặng lắm. Việc tôi chữa thì tôi cứ chữa, còn nhờ ở số mệnh. Nếu có phải là tại số thì thuốc hay đến đâu cũng chịu, sức cụ Biển Thước cũng phải bó tay nữa là tôi.
Bác Chính gái níu lấy vạt áo ông lang Tại, năn nỉ:
- Lạy cụ, cụ thương cháu, cụ cố chữa cho nhà cháu, nhà cháu mà mệnh hệ nào thì cháu cũng chết mất.
Trông nét mặt bác thảm thiết quá mọi người đến thăm cũng rơm rớm nước mắt.
Mít ba bốn hôm bỏ cả “hàng hóa” ngồi ủ rũ ở xó nhà. Nó không để ý đến kẻ ra người vào, cả đến thằng Tửu mấy hôm vẫn quanh quẩn bên cạnh thầy nó. Nó thương xót thầy nó quá. Mỗi lần nó nghĩ đến bệnh trạng, nghĩ đến cái chết ác nghiệt sẽ cướp thầy nó đi, nó thổn thức, khóc nức lên làm thằng Tửu băn khoăn khổ sở.
Hôm nay bác xã Chính đã uống hết hai thang của ông lang Tại mà bệnh không giảm, lại còn tăng lên mãi. Một vài người đến thăm, lúc ra khỏi buồng, lắc đầu thở dài và nghĩ thầm:
- Hỏng mất! Mắt đã dại, tay đã bắt chuồn chuồn. Thánh cũng chẳng cứu được.
Bác Chính thiếp đi mấy ngày; mấy lần vợ con tưởng bác chết, òa lên khóc. Bác tỉnh lại, nhưng tinh thần càng bạc nhược thêm.
Về chiều, bác chỉ còn thoi thóp thở. Cả nhà đều tuyệt vọng. Luồng tử khí như từ thân thể bệnh nhân lan khắp chung quanh, thấm vào các tâm hồn, làm lạnh lẽo cả ba gian nhà yên lặng.
Bỗng đôi mắt xã Chính sáng lên thu hết tinh thần còn lại, cặp môi mấp máy như muốn nói, bàn tay gần đờ dại khẽ nắm lấy tay vợ.
Bác gái hiểu ý, ghé tai xuống tận mặt chồng, cố gắng nghe. Một lát bác ngửng đầu lên, nước mắt đầm đìa. Mít đứng cạnh vừa sụt sịt vừa nói:
- Bu ơi, thầy dặn dò gì thế, bu?
Bác gái thở dài, nói có vẻ mệt nhọc:
- Con ạ, thầy bảo thầy đi… rồi bu chỉ nghe thấy tên con với tên Tửu. Bu đoán là thầy muốn hai đứa lấy nhau trước khi thầy nhắm mắt… Bu còn nghe thấy thầy nhắc đi nhắc lại mãi “con trâu cái, con trâu cái”, bu chẳng hiểu thầy con định nói gì.
Đăng dần trên báo Ngày nay, 1939.
Nhà xuất bản Đời nay, Hà Nội, 1940.