KHÓA CẤP ĐIỀN
Theo tục làng, cứ ba năm lại có một khóa cấp điền. Bao nhiêu ruộng quan phân phát cho nhân đinh đều thu về để phân phát lại. Mỗi xuất hai sào, lần lượt, bắt từ trên trở xuống đến hàng xã nhép. Vì thế mà bao nhiêu nạc, các ông trên vạc hết còn xương xẩu vứt đi. Cũng vì thế mà xã Chính thường thờ ơ lãnh đạm trong khi các ông kia vồ vập như mèo thấy mỡ. Ấy là chưa kể các ông còn hý hửng được dự vào bữa chén của ông tiên chỉ mời làng, nghĩa là mời từ hương lý trở lên đến chức sắc.
Nhưng khóa này khác hẳn mọi khóa, ngót tháng trời, không mấy bác xã không nhắc nhỏm tới. Bác chờ đợi, mong ngóng như khi còn bé bác mong ngóng tết ngay từ hôm hai mươi tháng chạp. Đến nỗi vợ bác phát gắt: “Nó đến thì rồi tự khắc nó đến, việc gì mà mình cứ bồn chồn nhắc nhỏm luôn, mất cả công cả việc”.
Bác không cãi, chỉ mỉm cười yên lặng. Nhưng lòng bác không sao lặng được.
Bác mong ngóng không phải vô cớ: vợ chồng bác quẫn bách quá, đã phải bán sạch ruộng cho bà Chánh Bá. Bà ta vốn là một người làm ăn chắc chắn, cẩn thận, hay trông giỏ bỏ thóc. Thấy bác ngoài mấy thước đất ở không còn gì bảo lĩnh, bà ta không ngần ngại, đã thu về hai mẫu trước kia vẫn cho bác thuê, chỉ để lại cho bác lĩnh canh bảy sào ruộng cũ của bác. Bà thường nói một mình: “Thế cũng là tử tế lắm rồi. Chứ ai dại gì nắm dao đằng lưỡi”.
Xã Chính không lo phiền. Bác tin chắc ở lời thấy bói, ở ngôi mộ, ở lời ông lý Khóa mà bác cho là một vị thánh sống.
Vả lại xong công việc sang cát, còn bao nhiêu vốn liếng, bác đưa cả cho vợ con bôn tẩu. Nhờ cái thúng vải sồi của vợ, nhờ hai bồ hàng của con, nhà bác đủ ăn, lại để ra được ít lời. Sự may mắn ấy làm lòng mê tín của bác quên được nỗi lo phiền.
Nhưng bác chưa mãn nguyện. Bác thấy xã Bửng, xã Bật, người nào cũng cấy hàng bốn năm mẫu. Những ruộng ấy toàn là ruộng quan họ thuê được của các ông trên. Bác bắt chước, cũng đi khắp làng, chọn những ông nào mà bác cho là túng bấn nhưng đứng đắn, thực thà. Bác biết rằng phải thuê ngay từ hai năm, một năm hay ít ra bảy tám tháng trước ngày cấp điền. Không có thì họ thuê tranh mất. Còn giá ruộng cao, hạ là tùy từng thứ bậc. Có nhiều phần ruộng rẻ thối ra mà bác không dám màng tới. Vì nó là của những tay hóc búa, thường đã gán cho bốn năm người rồi cũng nên. Thế mà tiền thuê ruộng thì phải trả trước hoặc cả, hoặc nửa, hoặc một phần ba, phần tư, tùy theo sự khẩn cấp của nhà có ruộng.
Bác tính ra bác thuê được của ông hàn Năm hai sào thuộc vào số thượng đẳng điền. Ông ta đòi tám đồng. Bác vật nài mãi, bớt được năm hào và đã trả trước bốn đồng. Bác lại thuê được của hai cha con ông Chánh Hẵng bốn sào thuộc vào trung đẳng điền, nhưng cũng tốt chẳng kém gì hạng thượng đẳng. Bác trả trước một nửa là năm đồng, còn bác sẽ giao lại sau khi bắt ruộng. Bác đắc chí cho là bốn phần ruộng ấy bác thuê được rẻ quá. Ngoài ra, bác còn thuê được của ông lý Cốc, ông hương Canh, ông khán Kiệu sáu sào đều thuộc hạng trung đẳng. Bác trả trước người một đồng, người đồng rưỡi, người hai đồng, tính ra bác thuê tất cả được mẫu hai và ba chục bạc thuê bác đã trả được mười hai đồng rưỡi.
Nhưng hôm nay chính là ngày cấp điền thì bao nhiêu mong mỏi, chờ đợi đã đổi ra lo lắng vẩn vơ. Bác lo và bác đâm ra ngờ vực, ngờ vực cả những người mà bác chắc chắn là tử tế thật thà xưa nay. Không sao được, bác đành vin vào số mệnh: “Á sà! Số mình khá thì vạn sự đều nên”.
- Này bác Chính! Đi đâu mà hấp tấp, vội vàng đầu cúi gầm xuống thế kia?
Xã Chính giật mình, ngửng lên, thấy xã Bửng, xã Bật ngồi ở trong quán nước.
Bác rẽ vào ngồi cạnh xã Bửng và nhếch mép cười một cách nhạt nhẽo. Bác lật ngửa cái bát sành úp trên chõng tre: “Bà hàng cho tôi bát nước”. Rồi quay sang hỏi xã Bửng: “Thế nào, khóa năm nay cũng như mọi khóa chứ?”
Xã Bật gác một chân lên đùi, trả lời:
- Rắc rối lắm!
Xã Chính sửng sốt:
- Sao? Sao lại rắc rối?
Xã Bật đắc chí rung đùi cười:
- Rắc rối là rắc rối, chứ còn sao nữa! Rắc rối ngay từ chóp bu trở xuống.
Xã Chính dương to đôi mắt như đợi cái nguy hiểm sắp tới.
Xã Bửng phì cười, rồi giảng giải:
- Bác nói như thế thì bác ấy hiểu thế nào được. Để tôi kể cho mà nghe. Thế này này: vừa rồi hai quan tại chức có gửi thiếp về trình làng. Một quan mới thăng Thị độc học sĩ đối hàm chánh ngũ.
Xã Chính hỏi:
- Sao bác biết là chánh ngũ?
- Thì các cụ bảo thế, chứ mình biết quái gì. Còn một quan thăng Hàn lâm Thị độc đối hàm tòng ngũ*.
Chánh ngũ (chánh ngũ phẩm), tòng ngũ (tòng ngũ phẩm) là hai hạng trên dưới của phẩm trật thứ năm (ngũ phẩm) trong hệ thống tước vị phong kiến gồm chín bậc.
Xã Chính ngắt lời:
- Các quan người thăng hay không thăng thì người vẫn ăn liền dưới cụ lớn tuần chứ sao?
Xã Bửng cười:
- Nếu thế thì đã chả rắc rối! Đằng này còn vướng cụ lãnh, người lại tòng tứ* mới chết chứ.
Tòng tứ: tòng tứ phẩm.
- Thì cụ ăn trên hai quan… cho khỏi rắc rối.
Xã Bửng trợn mắt, cãi:
- Ăn trên thế quái nào được! Một đằng văn, một đằng võ. Thế mà võ bao giờ cũng kém văn những hai trật.
- Rầy nhỉ! (xã Chính bấm đốt tay) chánh ngũ rồi đến…
Xã Bật tính giúp:
- Rồi đến tòng tứ, rồi đến chánh tứ.
Xã Chính mừng rỡ, cười nói:
- Thế thì quan… quan phủ người ăn trên cụ lãnh đứt đi rồi còn rắc rối gì nữa.
Xã Bửng:
- Đã đành rằng thế, nhưng còn quan huyện người tòng ngũ, bước lên hai trật nữa thì cũng tòng tứ như cụ lãnh.
Xã Chính vốn tính nhu nhược và thích hòa bình:
- Thế thì cụ lãnh người cứ nhường quan huyện ngay đi có hơn không? Một đằng tại chức hàm mỗi năm một thăng. Một đằng hàm cứ thế cho đến suốt đời.
Xã Bật ngửa mặt vừa nhổ râu cằm vừa cãi:
- Nếu cụ nghĩ như bác thì đã chả rắc rối. Đằng này cụ lại cho là khóa trước cụ vẫn ăn trên, ăn trên cả quan phủ nữa. Vậy bây giờ có nhường thì cụ chỉ nhường một quan phủ thôi.
Xã Chính vẫn giọng hòa giải:
- Thế thì quan huyện nhường cho cụ lãnh để người hả dạ… mà tôi thiết tưởng cụ lãnh người tuổi tác, quan huyện cũng nên nhường là phải. Rồi khóa sau…
Xã Bửng ngắt lời:
- Ai chả muốn thế, nhưng mà ông cựu nhà bác có nghe đâu. Ông cựu hình như có thâm thù gì với cụ lãnh hay sao ấy. Ông vin lấy câu ví: văn thời ngũ phẩm đã sang, võ thời tứ phẩm còn mang gươm hầu. Ông vịn vào đấy mà nhất định bắt cụ lãnh phải nhường. Chứ quan huyện người cao xa, biết đấy là đâu, còn cái trình hàm là theo lệ làng đó thôi.
Xã Chính hỏi:
- Thế việc đã ra đến làng chưa?
- Hôm nay đây. Rồi phải đến quan xử mới xong, vì ông lý Cúc muốn để quan phân xử.
- Phiền nhỉ!… Nhưng mà dẫu thế nào cũng chẳng thiệt hại gì đến cánh mình.
- Sao lại không thiệt hại? Thiệt hại lắm chứ! Nếu việc ấy cứ kéo dài mãi. Đến lượt chúng mình bắt ruộng thì liệu còn đủ thời giờ mà cấy được không?
Xã Chính muốn bàn sang chuyện khác:
- Thế ngoài việc rắc rối ấy còn việc gì ngăn trở nữa không?
Xã Chính hỏi và trong lòng nơm nớp sợ.
Xã Bửng ngậm hụm nước chè, hút thuốc xong quay nhổ toẹt ra ngoài đường rồi thủng thỉnh nói:
- Còn khối việc… Việc lấy trộm đất ruộng quan này. (Xã Chính giật nẩy mình, mặt tái mét. Vì bác cũng có lấy trộm vài chục viên đất về đắp các gốc cau. Bác không dám hé răng, sợ vỡ lở). Việc phân chia ruộng cho bọn xã mới bầu cữ nọ để lấy tiền sửa sang văn chỉ này. Việc ấy mới lại càng rối bét… Bác tính, ruộng quan bao giờ cũng chỉ có ngần ấy mà bọn xã cứ càng ngày càng đẻ mãi ra thì lấy ruộng cóc đâu mà phân phát cho đều… Nghe đâu các cụ bàn định tống họ ra ngoài bãi. Nhưng khó lắm, vị tất họ đã chịu, nhất họ lại có bọn tây học về xúi ngầm. Các cụ cho bọn ấy toàn là tay cộng sản và rồi thế nào các cụ cũng kêu quan bỏ tù. Phải đấy! Cứ bỏ tù tuốt cả cho đỡ rắc rối.
Xã Chính không sao bỏ được câu chuyện trộm đất bèn hỏi:
- Thế còn việc đào trộm đất, các cụ bàn ra sao?
- Việc ấy nghe đâu các cụ định bắt lỗi đương thứ, nhưng mà đương thứ khi nào họ chịu. Rồi họ sẽ lôi những người lấy trộm đất ra trình làng. (Xã Chính run cầm cập). Vả lại, các cụ có ra lệnh cấm và bắt họ trông nom đâu?… Thế mà việc cũng khó phân xử đấy nhé. Mắc cái những người phạm vào lỗi ấy phần nhiều là những người tai mắt cả.
Xã Chính nghe câu ấy sung sướng như người vừa thoát nạn. Bác đã nhìn thấy chỗ dựa. Sau này, dù có thế nào, đã có các ông ấy ra đương đầu.
Nhưng bác vừa đổi buồn ra vui, thì câu nói vô tình của xã Bật lại làm cho bác đổi vui ra buồn:
- Có! Họ dại gì lại đem những ông ấy ra trình làng. Rồi các bác xem, họ sẽ lôi những anh thấp hèn, “nép” vế như hạng cánh mình. Làm thế, họ sẽ vừa được lòng các ông ấy, vừa tránh được lỗi của họ.
Ngoài đường, kẻ đi người lại mỗi lúc một đông.
Xã Chính ngồi không yên. Bác lo và bác tưởng như ai cũng để ý vào bác. Câu chuyện còn dở dang, bác đã vội đứng dậy ra về.
Xã Bửng cầm tay Chính giữ lại, nói:
- Đi đâu mà vội, việc bắt ruộng còn xơi mới đến bọn mình, không biết chừng, có khi hàng tháng… À này, tôi nghe thấy họ đồn đằng ấy cũng thuê ruộng quan cấy phải không? Bao nhiêu cả thảy?
Xã Chính bất đắc dĩ lại phải ngồi xuống, trả lời.
- Hơn mẫu. Đằng ấy cũng thuê bốn năm mẫu như mọi khóa chứ?
- Không. Khóa này hai chúng tôi cũng chỉ thuê mỗi đứa có hơn một mẫu như đằng ấy thôi, vẫn biết thuê được nhiều thì lợi đấy, nhưng mà nguy hiểm lắm. Sợ lại như lão xã Khán độ nào. Hắn thuê những năm mẫu mà rút cục chỉ bắt được bốn, còn một mẫu bị họ tranh cướp mất cả. Cánh mình “nép” vế, hễ bị họ tranh là cứ việc mất đứt, không còn kêu vào đâu được… Thế đằng ấy thuê của những ai?
- Của ông hàn Năm…
- Thôi, ông ấy thì chắc chắn lắm, nhưng mà đắt. Tám đồng phải không?
- Bảy đồng rưỡi. Trước ông ta cũng đòi tám đồng, đằng này vật nài mãi ông ta mới bớt cho năm hào.
- May cho đằng ấy gặp lúc ông ta dễ tính. Đằng này cũng đã đi bốn năm lần khẩn khoản mãi mà ông ta nhất định không chịu bớt… Thế còn những ai nữa?
- Bố con ông Chánh Hẵng, ông…
Xã Bửng ngắt lời:
- Ông bố thì chắc, chứ ông con thì nguy hiểm lắm. Hắn cờ bạc, nợ đìa, có khi đã cho thuê ba bốn chỗ rồi cũng nên. Sao mà đằng ấy táo bạo thế? Ai lại không biết rằng hắn ta liều lĩnh, bạt mạng.
Xã Chính chưa hết lo việc trộm đất, bây giờ, lại lo thêm việc ruộng. Song bác cũng cãi gượng:
- Có thế nào thì đã có ông bố chịu.
- Phải, rồi đằng ấy cứ ra mà bắt ông bố chịu. Còn những ai nữa?
Xã Chính giọng rầu rầu:
- Ông lý Cốc, ông hương Canh, ông khán Kiệu.
Xã Bật từ nẫy vẫn ngồi nghe, cất tiếng:
- Ai chứ khán Kiệu thì mất gió. Hắn vào Thanh từ hôm kia rồi, còn đâu. Bác này mới học đòi có khác, bạ ai cũng chộp lấy.
Xã Chính ngồi ngây ra, mặt tái xanh:
- Bây giờ làm thế nào hở hai bác?
Xã Bửng không để ý đến nỗi khổ của Chính nói luôn:
- Mất gió chứ còn làm thế nào. Thế đằng ấy đã trả trước bao nhiêu rồi?
- Bác bảo trả ai?
- Trả khán Kiệu.
- Hai đồng.
- Hai đồng thì mất đứt hai đồng. Cũng may đấy, nếu trả cả thì mất hết.
Xã Chính không dám ra “từ” nữa, đi thẳng về nhà, vừa đi vừa phàn nàn:
- Rõ dại quá, tự nhiên mua cái lo vào mình.
May cho xã Chính, cả ngày hôm ấy các ông bên trên chén vào rồi mải cãi nhau về ngôi thứ, về ruộng nương, về bọn xã mới, quên bẵng việc trộm đất.
Tuy vậy, bác vẫn không dám bén mảng ra “từ” sợ quan viên trông thấy mặt mà nhớ đến chăng.
Suốt ngày hôm trước, suốt ngày hôm sau, bác thơ thẩn trong xó nhà, hết nằm thở dài lại ngồi dậy hút thuốc vặt.
Chiều, vợ đi chợ Sóc về, thấy chồng không vui bèn hỏi:
- Mình làm sao thế? Người ta đến đông chật cả “từ” kia mà! Sao mình không ra bắt ruộng?
- Họ ra xem đấy, chứ đã có trông bắt ruộng đâu. Mà có bắt thì đâu đã đến lượt mình.
Bác không dám nói đến việc thuê ruộng, nói ra sợ vợ buồn, bác cũng không dám đả động đến việc trộm ruộng đất, sợ vợ lo.
Bác ngóng suốt hai ngày liền, chỉ nghe thấy một tiếng trống mà bác đoán là tiếng trống bắt ruộng của cụ tiên chỉ.
Theo lệ làng, cứ mỗi khóa, làng lại cắt một người xướng danh và ngôi thứ của từng nhân đinh. Và mỗi khi một nhân đinh bắt xong hai phần ruộng của mình hay phần ruộng của người cho mình thuê thì người kia điểm một tiếng trống. Chiếc dùi đã nện xuống mặt trống rồi, bất cứ ông nào quyền thế đến đâu cũng không thể bắt lại hay ra tranh cướp được.
Vì thế mà lắm khóa xảy ra nhiều việc tức cười: ông cầm trống đọc xong tên và chức người có ruộng, vừa dơ dùi chực nện thì ba bốn người chạy sấn lại giữ lấy tay. Rồi người này cãi: “tôi thuê trước”, người kia cãi: “tôi thuê trước”. Có khi việc kéo dài hàng bốn năm hôm, nếu ba bốn người cãi nhau cùng là tay sừng sỏ. Việc ấy hiếm lắm, vì thế nào rồi cũng có một đàn anh, như lý Cúc chẳng hạn, tranh được. Cố nhiên là anh có ruộng cho thuê chằng ấy biệt tăm, mất tích. Không nghe thấy tiếng trống kế tiếp, bác xã đoán chắc làng còn đợi tin tức ông lý Cúc ở huyện về.
Sáng hôm sau, bác nóng ruột quá, không thể ngồi ỳ ở nhà mãi được, liền đánh bạo ra từ lẩn lút vào đám đông.
Thì ra bác đoán lầm. Lý Cúc, vì nhiều đàn anh trong họ đến tận nhà can ngăn, đã thuận nhường cho ông lãnh ăn trên, và lúc này đương ngồi cạnh cái trống để chốc nữa xướng danh. Trước mặt ông, một chiếc án thư trên để hai quyển sổ: sổ đinh và sổ điền.
Chức ấy không phải nhỏ. Làng thấy ông “nhún nhường” thì thưởng cho ông đấy thôi. Chứ thực ra không phải ông to tát hơn, đứng đầu hàng lý dịch.
Xã Chính vui mừng như mở cờ. Ông cựu của bác mà ngồi cầm trống thì bác vững tâm. Có lẽ ông sẽ che chở nếu có người ra tranh cướp.
Tò mò muốn biết tại sao chưa bắt ruộng, bác hỏi nhỏ người đứng cạnh. Người ấy trả lời: “Vì bọn xã mới nhất định không chịu nhận bãi, lấy cớ rằng: họ cũng đóng góp sưu thuế như mọi người nên họ không chịu thiệt. Hai phần ruộng bãi chỉ để trồng cói được thôi. Các cụ đã giàn xếp, hứa sẽ kê họ vào với bọn vô sản để được đóng một đồng và đánh nhẹ thuế ruộng bãi. Nghe đâu họ đã thỏa thuận, chỉ còn đợi cụ huyện thay mặt cụ tiên chỉ ra nữa là bắt đầu nổi trống phát ruộng.”
Bỗng hai anh đương thứ chạy lại báo trước. Mọi người giãn ra. Một ông đầu bạc phơ: cụ huyện đến. Một lát, lý Cúc cất tiếng đọc; bác Chính nghe vang như tiếng chuông:
“Thị độc học, Tri phủ, Hoàng quý chức.” Một người trong họ thông thạo về ruộng nương, chạy lại chọn sổ điền. Lý Cúc hô tiếp: “Nhạc phi nhất đạc” - Nhạc phi là tên thửa đất ở cạnh đầm. Ruộng ở đấy tốt có tiếng, không bao giờ lụt hay cạn. Đoạn ông khuyên lên đầu đánh dấu rồi nện một tiếng trống thật mạnh.
Hết ông phủ, đến ông lãnh, ông huyện tại chức, các ông huyện trí sĩ, ông đốc, ông tham, cứ thế mãi đến ông hàn Năm thì vừa xâm xẩm tối.
Đọc đến tên ấy, xã Chính giật mình, dạ một tiếng thật to. Bác đẩy hết người này người nọ, len lóc từ đám đông ra. Bác luống cuống, quên mất cả khu đất mà bác định chọn từ trước.
Lý Cúc tủm tỉm cười, cầm dùi trống chỉ vào sổ điền, nói sẽ: “Đường Vọng.”
Phải, đường Vọng, thế mà bác quên lú đi mất.
Bác sung sướng, hớn hở về nhà. Vợ săn đón hỏi:
- Thế nào, mình bắt được bao nhiêu rồi?
- Mới bắt được hai phần ruộng của cụ hàn Năm. Tôi bắt ở đường Vọng. May quá mình ạ, chỉ còn vừa bốn sào. Chậm tí nữa mình phải chọn chỗ khác.
- Ồ, thích nhỉ! Mít ạ! thầy bắt được ruộng đường Vọng.
Mít đi hàng về, đương ngồi đun bếp, chạy vội lên, quên cả dập tắt lửa:
- Thầy bắt được gì cơ, bu?
- Thầy bắt được ruộng đường Vọng.
Mít tủm tỉm cười, vừa nói vừa trở xuống bếp:
- Con tưởng thầy bắt được bạc.