- IV -
CHÚNG tôi vừa xuống ga Sàigòn thì gặp ngay anh Phúng và anh Thúc là hai người ‘‘tài-phú’’ của tôi ngày trước, hiện nay làm ở nhà Descours Cabaud ở Sàigòn. Chúng thấy hai vợ chồng tôi thì chúng mừng quýnh. Chúng lần này mới thấy công chúa, nhưng có lẽ hẳn đã nghe nói đến sự tác hợp của tôi với công chúa. Ý chừng chúng tưởng tôi vào đây là làm một cuộc du lịch ghê gớm của một ông Phò mã, của một vị đại thương, vì chúng đã tầng thấy thời oanh liệt của tôi. Chúng dẫn chúng tôi tới khách sạn V. N. là một khách sạn về hạng lớn nhất ở châu thành, hẳn chúng nghĩ : chỉ có khách sạn như thế mới xứng với một ông chủ và một bà chúa như vợ tôi. Tôi đã toan nói cả sự thực cho chúng hay, nhưng tôi kịp thấy ngay rằng mình trong lúc này - hơn bao giờ hết - phải giữ lấy cái vẻ sang trọng bề ngoài, phải giữ hào nháng, cái hào nháng cần thiết cho sự làm ăn ở một xứ lạ lùng. Nếu một khi đã biết cả sự thực, chúng - dầu là những kẻ làm công của tôi ngày trước - cũng có thể trở mặt với tôi, và sẽ bỏ tôi lập tức. Cái giống người vẫn thường như thế. Vả tôi còn nghĩ như thế này: Biết đâu hai thằng này làm ăn khá, muốn làm hoang, đãi chủ cũ của chúng, nên mới đưa mình tới đây ! Phải, biết đâu chúng muốn đãi tôi. Dầu sao, khi chúng tôi bước vào khách sạn V. N. giao cái valise cho người bồi thì chúng tôi đã hơi lo ngại, không còn thể nào yên tâm được nữa. Nhưng biết làm thế nào được, âu cũng nhờ trời, đến đâu hay đấy. Ở khách sạn V. N. đã được năm hôm, ngày nào khi đi làm về Thúc và Phúng cũng lại dẫn chúng tôi đi chơi. Hôm nay xem bến tàu, ngày mai xem sở thú. Chúng khoe mãi cái sang trọng, cái xa hoa của Sàigòn, khiến cho chúng tôi lại càng thêm nóng ruột. Nhưng cũng may, từ tiền xe kéo cho đến tiền giải khát ở tiệm, chúng cũng giành nhau trả cả. Dầu thế nào, chúng tôi cũng vẫn hơi lo, vì tôi nghe người bồi nói rằng : buồng chúng tôi nằm, một ngày đến năm đồng, chưa kể ăn uống. Chỉ mấy ngày đầu là chúng tôi ăn ở khách sạn mà thôi. Sau này, hai vợ chồng tôi đến bữa, thoái thác là đi ăn cơm khách, rồi ra chợ Bến thành ngồi ăn, đã rẻ mà lại ngon. Bấy giờ, tôi nhớ như là đã đến ngày thứ mười ở khách sạn, tôi thấy Phúng và Thúc đã hơi thưa đi lại với tôi. Nếu một ngày kia, chúng không lại thì là chết cả nút. Nhưng không có cái triệu chứng gì chúng đã thay đổi thái độ với tôi cả. Sáng ngày thứ mười một ở khách sạn, lại được gặp ngày chủ nhật, Phúng và Thúc đến gõ buồng chúng tôi sớm, mang tới cho chúng tôi một gói những lê, táo và nho tươi. Tôi và công chúa mừng khấp khởi, cùng nhìn nhau và như có ý bảo :‘‘ Không, chưa đáng lo, chúng vẫn tử tẽ với mình’’. Nhưng dầu sao. tôi cũng không muốn kéo dài cái tình thế nguy hiểm này ở khách sạn. Vì tuy rằng mình có thể khỏi trả nhưng rồi đây để cho Thúc và Phúng phải nai lưng cùng chịu thì thật cũng tội nghiệp cho chúng. Tôi bèn kéo Thúc và Phúng đi ra ngoài buồng, để nói chuyện. Sau khi đã nói cả sự thực cho chúng nghe, tôi nhìn thẳng vào đôi mắt của chúng để ‘‘xem chừng’’. Thúc ra dáng không tin. Phúng có chiều cảm động và ái-ngại. Phúng nói trước: - Thật cũng may, ông nói sớm chứ chậm thì thật là nguy hiểm. Chắc ông cũng có thể đoán được: lương chúng tôi chẳng được bao lăm. Lương hai đứa góp lại chỉ được bảy mươi sáu đồng, mà cái tiền ở khách sạn có lẽ quá số tiền ấy. Vả bây giờ, chúng tôi cũng chưa sẵn mà nếu đến kỳ lương, tiền buồng ở khách sạn lại tăng lên nhiều nữa. Tôi nghĩ: thế nào cũng phải đi khỏi khách sạn ngay từ bây giờ. Tôi nghe Phúng nói mà mình toát cả bồ hôi. Tôi hỏi Thúc : -Thế bây giờ các anh tính sao ? Trời, Phật chứng cho lời chân thực của tôi : quả khi tôi bước vào khách-sạn V. N. là chúng tôi cứ tin là ý hai anh muốn tôi ở đây... Tôi biết rằng tôi lỡ lời, lẽ ra không nên nói như thế mới phải. Tôi bèn kiếm cách chữa lại : -Các anh lương ít thế thì lấy gì mà đãi chúng tôi, kể tôi cũng quá khờ. Bây giờ việc đã lỡ thì mình phải tìm cách thu xếp cho yên. Tôi thấy vẻ lo âu của hai người mà ái ngại. Nếu tôi đã nói thực ngay từ khi mới gặp thì đâu để chúng hiểu lầm một cách tai hại thế này. Phúng đưa mắt hỏi ý Thúc rồi nói : -Thôi thì ông hãy yên tâm để chúng tôi thử về bán ‘‘lương non’’ Còn thiếu bao nhiêu chạy sau. Tôi ái ngại : -Nhưng bán lương đi rồi thì đến tháng, hai anh sẽ lấy vào đâu mà ăn tiêu? Hai người cùng đứng im không đáp. Tôi cho rằng là khó có cái hi vọng hai người ấy giúp, và tôi cũng còn đủ lương tâm để tránh đừng phiền họ một cách vô lý như thế. Tôi cố vui và nói với hai anh ấy : -Thôi, hai anh không phải lo. Tôi đã có cách rồi, chiều nay, chúng tôi sẽ ra khỏi khách sạn. Hai anh chịu phiền thuê cho tôi một gian nhà nhỏ. Nào tôi đã có cách gì mới đâu. Tôi chỉ lấy số tiền còn lại của chúng tôi ra trả cho khách sạn. Công chúa bảo tôi : -Đã nghèo lại còn eo. Tôi cười : -Trời sinh voi, trời sinh cỏ. Trời đã trót sinh chúng mình, trời phải lo. Mọi việc rồi cũng thu xếp được cả. Nhưng đã bắt đầu thấy có một sự khó khăn, một sự hình như không thu xếp được là vấn đề thuê nhà ở Sài-gòn. Suốt mấy ngày, chúng tôi lùng khắp hết đường, hết ngõ, mà chúng tôi không tìm đâu ra được một cái ổ nho nhỏ, tồi tàn, vì chúng tôi chỉ cần có thế. Cái gian nhà nhỏ xỉu mà tôi tìm được ở ngõ L. T. là một gian nhà có lẽ rẻ tiền nhất : mười lăm đồng một tháng. Mười lăm đồng một tháng với một người thất nghiệp ! Trời ôi ! thật là một sự mỉa mai. Nhưng chúng tôi cho đó là một điều may mắn vô cùng, vì thế nào chúng tôi được nằm ở trong nhà với một sự lo âu cũng còn hơn là nằm ngoài hè với một sự vô tư lự. Theo cái cách làm việc của tôi là trước hết muốn có một cái gì, phải liều mà có, rồi sẽ kiếm cách sau mà giữ cho được. Nói rõ hơn, phải có một gian nhà ở trước hết đã, sau này sẽ lo chạy tiền sau. Công chúa cũng ý hiệp với tôi về chỗ đó. Cho nên hôm dọn nhà, nàng nói một câu rất vui vẻ, chẳng khác nào một đứa trẻ con. ‘‘Bây giờ mới thật là sung sướng ! Mới thật là yên thân’’. Ấy là nàng tưởng thế thôi, chứ bây giờ mới là cái lúc bước vào sự gian nan, một cuộc đời vô định, không chắc ở ngày nay, không tin ở ngày mai. Một gian nhà mười lăm đồng, trời ôi ! chỉ bằng một xó. Nếu chúng tôi có được năm ba cái đồ thì không thể để đâu cho hết. Cũng may, chúng tôi chỉ có một cái chõng tre, mượn tạm ở nhà hàng xóm, với lại một manh chiếu mà chúng tôi vừa mua ở chợ. Ngoài ra còn một ít chén bát nồi niêu và một cái vò con để đựng nước uống. Giang-sơn chúng tôi chỉ có thế. Sau khi trả liền nhà rồi, - vì ở trong Sàigòn người ta lấy tiền nhà ngay sau khi mới dọn tới - chúng tôi còn được hơn ba mươi đồng. Ba-mươi đồng đối với chúng tôi lúc bây giờ thật là một số tiền lớn, chẳng khác nào ba ngàn bạc lúc còn phong-phú. Chúng nó như là một vật bảo đảm cái sự sống của chúng tôi trong một thời gian ngắn dài mà chúng tôi không thể liệu trước được. Một vài đồng hào hoang phí đi trong lúc này, có thể là một ngày không cơm sau này. Nghĩ vậy nên chúng tôi hết sức tặn tiện: một đồng chẻ làm ba làm tư. Ngoài những cái vào hạng tối cần thiết, chúng tôi không dám mua sắm một vật gì. Hộp phấn coty của công chúa hết đã hai hôm rồi mà tôi cũng không dám mua cho nàng một hộp khác, thật là thê thảm! Ngày hai buổi, ăn xong, tôi lại xách nón ra đi mà thật không hiểu tôi đi đâu vậy. Nhưng không phải là không có một chương trình nhất định : tôi chia thành phố Sàigòn ra thành từng khu-vực. Hôm nay tôi đi những khu vực này, hôm mai tôi lại đi những khu vực kia. Vào giờ người ta đi làm thì tôi đi và khi tôi về cũng là vào giờ các công sở bãi. Ngày nào cũng đúng đắn như vậy, khiến cho người hàng phố phải tưởng tôi đi làm mà không biết làm ở đâu. Đã hơn một tháng rồi, tôi cứ lùng khắp Sàigòn để đi tìm kiếm một cái gì không bao giờ tới, một người bạn, một công việc, một chút ít tiền, một tí may mắn. Không, tôi không bao giờ thấy những cái ấy. Tôi không hề nản chí, nhưng tôi chỉ sợ công chúa trí nhàn rỗi quá, lại nghĩ đến chuyện không hay. Chẳng hạn nàng chán cái cảnh đời vô định và cực khổ này, rồi bấy giờ sẽ không còn có cách gì có thể lấy lại lòng nàng được nữa. Cái nguy hiểm là ở đó. Nàng là một con chim có tánh thất thường, nếu tôi không có cái gì để giữ nàng, thì một ngày kia nàng vỗ cánh bay đi, không phải là một sự không thể xảy tới. Một hôm, vào giờ phố tôi ở, đã thiêm thiếp trong một giấc ngủ kỹ, thì tôi thức dậy, cùng gọi nàng dậy, và vui vẻ bảo nàng : - Mình ơi ! tôi vừa nằm thấy một chuyện ngộ quá. Chúng ta đã gần sự vui mừng, gần sự sung sướng lắm. Chỉ còn vài bước nữa, là chúng ta có thể hái được hạnh phúc. Tôi mộng thấy một ông cụ già tóc bạc phơ, đi tới gần tôi, đưa cây gậy song, chỉ lên một cuốn lịch và nói với tôi như vầy : ‘‘Cái ngày phong trần của mày đã sắp hết. Cứ vào những ngày lẻ thì bảo vợ mày ra sân quay đủ tám phương mà lạy tám lạy. Cứ thế khi nào đủ một trăm hai mươi lạy thì Thần Tài sẽ đến nhà mày.’’ Tôi ngẩng lên tấm lịch xem, thì bấy giờ là mười bốn tháng sáu và khi tôi quay lại, thì ông già đã biến đâu rồi ! ‘‘Mình ạ ! Tôi tỉnh dậy đã gần hơn một giờ đồng hồ, nghĩ mãi mới đoán ra lời thần mộng Thì ra chẳng có gì khác là Trời Phật muốn cho ta trúng số mà thôi. Tôi nghĩ rằng trong tháng này, nghe đâu hội Cá Ngựa Sàigòn có mở một cuộc xổ số, mà số đặc biệt là một vạn đồng. Tôi thấy nói ngày xổ là hôm 14 tháng 7. Vậy tôi tính ra từ ngày 14 tháng 6 đến ngày 14 tháng 7 là 30 ngày, ông già trong giấc chiêm bao bảo ta mỗi ngày lẻ lạy tám lạy, thì từ 14/6 đến 14/7 là 15 ngày lẻ, rất đúng với số lạy mà thần đã dạy, Mình nghĩ coi, không tin thế nào được ? Nếu chỉ là một giấc chiêm bao như trăm nghìn giấc chiêm bao vô nghĩa khác, thì làm chi có sự trùng hợp ấy? Không đâu mình ạ ! Không có cái gì đến ở trong đời ta mà không phải là do ý chí của Trời Phật’’. Vợ tôi nghe tôi nói, ngồi thần ra dáng suy nghĩ lắm. Tôi biết nàng không thể không tin lời tôi được. Nàng chỉ là một người đàn bà, lại là một người đàn bà trong cơn đau khổ, nàng phải tìm ra cớ để hi vọng, để an ủi mình. Quả đúng như tôi mong ước, sau khi nàng nghe tôi kể cái giấc mộng của tôi, nàng vui vẻ lên như một đứa trẻ con, và ngoan ngoãn làm theo lời thần dạy: mỗi đêm khi mọi người ngủ, nàng ra sân đứng vái. Và cái giấy số ấy chính nàng thân hành đi mua lấy, và thành kính giấu ở một chỗ rất kín đáo. Ở đời, tôi nghĩ không có cái gì mạnh hơn hi vọng. Một khi người ta đã hi vọng, cuộc đời trở nên đẹp và đáng sống vô cùng. Mọi vật dưới mắt như sơn một màu tươi vui. Và những cái mà người ta gọi là âm u, là đen tối, là buồn thảm, sẽ bị tan rất mau dưới luồng ánh sáng. Vì hi vọng chính là ánh sáng, là bình minh, là sự trở lại, là sự bắt đầu, là ngày mới. Có thể như thế không ? Người ta chỉ là một vật không ra gì, trong tay của Hi vọng và Mộng tưởng. Một khi hai bà tiên ấy không còn nữa, thì không còn phép thần diệu nào đáng kể. Trong lúc nàng công chúa yêu quí của tôi vui vẻ đếm tầng ngày một, thì tôi vẫn nện gót giầy ở trên các phố Sàigòn, với một sự lo ngại, một ngày một tăng. Tôi sợ rồi đây cái ngày ‘‘ vui sướng’’ ấy đến, thì tôi sẽ nói với công chúa thế nào ? Nhưng cái ngày ấy đến mau quá tựa hồ như ngựa phi. Trước cái ngày ấy một hôm, khi tôi vừa ở phố về, thì vợ tôi vội chạy ra nói với tôi như một đứa trẻ con: -Chiều hôm nay, tôi muốn chúng mình đi xuống tiệm, ăn một bữa no say. Tôi vui vẻ nhận lời, nhưng khi thấy đồng tiền của chúng tôi sẽ đi ra trong lúc này, như thế, lòng tôi như se lại. Công chúa ăn một cách ngon lành, và uống rất nhiều rượu - đến nỗi hai má nàng đỏ bừng lên như hai quả đào tiên. Nàng vui vẻ quá, cười nói huyên thiên ; tôi cũng cố vui vẻ như nàng nhưng mỗi khi nàng ngừng nói, là tôi thấy ái ngại vô cùng. Tôi thương hại cho cái tuổi ngây thơ của nàng quá. Nhưng dầu sao, khi cái sự thực vẫn chưa đến, tôi vẫn muốn giấu cái sự thực. Có một bận, nàng ngả vào đầu tôi, và nói bằng một giọng ngà say: -Mình ạ ! người ta thường ao ước một túp lều tranh và một tấm lòng. Nhưng cái quan niệm người đời nay đã thay đổi. Người ta cũng ước một tấm lòng, nhưng không phải là một cái lều cỏ nữa, mà là một cái xe hai chỗ ngồi. Rồi nàng say sưa như nói trong mộng : -Một cái xe mở hết máy - gió thổi vào trong tóc ta như nói với ta những lời kiều diễm. Phải, một cái xe rất xinh như tình của một thiếu nữ sẽ mang ta khỏi thành phố, đến những nơi đồng rộng mênh mang. Nó sẽ thả ta xuống, trên những bờ ruộng. Ta sẽ nằm lăn trên những đám cỏ xanh mởn như tình yêu - và nhắm mắt lại, ta tận hít các mùi lúa vừa chín, thơm ngát... Ồ ! bây giờ cuộc đời sẽ đáng sống biết ngần nào, mình hỉ? Rồi nàng ngẩng lên nhìn tôi, và trong mắt nàng, thấy long lanh một ước muốn có chiều lơi lả. Nghe nàng nói, lòng tôi như thắt lại, và bồ hôi tôi rỉ lạnh ở trên hai vai tôi. Cái hi vọng ở trong óc nàng có lẽ đã mãnh liệt hơn sự thực và cái vui của nàng không phải là một cái vui trộn trạo, nó hồn nhiên và thuần túy như tâm-hồn một đứa trẻ thơ. Tôi vừa nói, vừa cười như để thử lòng nàng : -Giá như lời thần mộng chỉ là một lời dối trá? Nàng vội gạt đi: -Mình đừng nói tầm bậy, mà có tội với Thần Phật. Rồi nàng hơi chau mày, có vẻ không bằng lòng lắm. Chính nàng, hơn tôi, còn sợ cái ngày ấy đến. Nếu như, trời ôi ! cái ngày ấy không mang lại cho nàng một cái gì cả, thì tôi sẽ nhìn nàng với đôi mắt nào ? Tôi sẽ hối hận biết bao khi đã đánh lừa một ‘‘ đứa bé’’ như thế ! Vì than ôi ! nàng công chúa chỉ là một đứa bé trọn đời. Nàng xuống cõi trần gian là để sống giữa những đồ chơi vô tội, giữa những mộng ảo hiền lành, giữa những con vật ngây ngô. Nhưng một cuộc đời nghiêm trọng, sâu hiểm sẽ làm cho nàng không thể chống chọi nổi, cất mình nổi... Nàng chỉ biết đùa mà thôi, biết vui mà thôi. Nàng dám vui đùa với những sự đau khổ, với cuộc đời ! Tôi biết làm thế nào mà ngăn cản được thời gian ? Cái ngày báo trước bởi thần mộng đã đến. Lẽ ra ngày hôm ấy, tôi phải ở nhà để mà đợi tin mừng - nhưng mà tôi đã dậy trước mặt trời mọc, và đi dạo trên các đường phố, để xem sự múa may quay cuồng của thiên hạ cho khuây khỏa nỗi buồn rầu. Tôi biết ngày hôm ấy đưa lại cho vợ yêu tôi một sự thất vọng hãi hùng ghê gớm. Vì ngày ấy là ngày mà giấc mộng đẹp nhất của nàng công chúa sẽ tan tành. Buổi trưa, tôi cũng không về, giầy tôi đã sắp hả miệng, mà tôi vẫn cứ đi hoài. Nhưng dầu thế nào, chiều tối tôi lại chẳng phải về qua nhà : chẳng hạn tôi không có can đảm, không đủ hèn nhát để mặc một người đàn bà yếu đuối ấy ngủ một mình trong một phố vắng vẻ như thế. Đành rằng chuyện thần mộng là một chuyện tôi bịa ra để an ủi nàng công chúa của tôi, nhưng khi bỏ ra một đồng bạc để mua một giấy số, với tôi trong lúc này, không phải là một việc để thử để đùa cùng may rủi. Tôi viện đủ lý lẽ, để cho tôi có hi vọng rằng : tôi có thể trúng số. Chính lúc tôi trở về nhà, là lúc cái hi vọng đã nguội tàn rồi, bỗng đột khởi lên trong lòng tôi, và như thêm sức mạnh cho hai chân tôi, thêm khí lực cho tâm hồn tôi. Nhưng khi tôi vừa để chân lên thềm, qua miếng kính, dưới một ngọn đèn Hoa kỳ, tôi nhận thấy: nàng công chúa của tôi cuốn tròn mình ở trong một manh chiếu. Tôi hiểu ngay tôi không có quyền hi vọng nữa, và những mảnh tàn của mộng, như rơi ở trong tâm hồn, từng tiếng thê thảm tựa hồ những tiếng gạch nát đổ ở trong một miễu tàn. Đã lâu lắm, từ khi tới ở cái nhà này, nàng công chúa của tôi mới lại trùm chiếu như thế - thường thường là vì muỗi, nhưng hôm nay thì lại vì một nguyên nbân buồn thảm hơn: lời thần mộng không thiêng, và Thần Tài quên không đến gõ cửa nhà tôi. Giữa mùa nực, mà chỉ thấy một người nằm đắp như thế kể cũng đã ghê sợ lắm rồi. Huống hồ trong lúc bực rọc này thì lại còn thê thảm biết bao ! Tôi muốn trốn đi đâu cho thoát, nhưng tay tôi đã gõ mạnh vào cánh cửa. Công chúa ú ớ mấy cái, rồi hỏi dồn : - Mình về đó à ! Không bao giờ tôi nghe thấy tiếng nàng ghê lạnh đến thế. Tôi đáp : -Mình ngủ sớm vậy ? -Sớm ! Bây giờ mà còn sớm. Không đến mười hai giờ khuya ... Nàng dứt lời, thì đồng hồ ở bên láng diềng vừa gõ tám tiếng... Nàng đứng dậy giụi mắt, và nói: -Té ra còn sớm quá ! Tôi vừa đẩy cửa vừa hỏi : -Minh ngủ à ? -Chả ngủ thì làm gì, mình ? Rồi nàng đi lại ngồi vào chõng và không hỏi gì thêm nữa. Tôi cũng không biết nói gì. Nàng cũng như tôi không dám động đến chuyên giấy số. Hồi lâu tôi mới lại hỏi : -Hôm nay nhà còn chè tàu không mình? -Còn một nhúm thì phải - tôi để ở cái long sữa không. Tôi đi xuống bếp định nhóm lửa lên, đun một ấm chè. Nhưng vợ tôi đã gọi với lên và nói: -Củi không còn một que, đun với nấu gì, mình ? Tiếng nàng sầu thảm như một ‘‘con cú Vạn niên’’ tôi nghe mà lạnh cả tâm hồn, Tôi đi đi lại lại trong xó buồng, kiếm vài mảnh nhật trình cũ rồi xuống bếp... Loáy hoáy mãi mới nhóm được lửa nhưng khi nước vừa mới reo thì những mảnh nhật trình đã cháy hết. Tôi cũng mang ấm nước lên và chế vào bình chè, rồi rót ra hai chén và mời nàng . -Mình qua đây, ngồi uống vài hớp cho vui... Công chúa mỉm cười, cái cười nhạt tẻ như một đóa hoa tàn : -Chè của mình thì cũng đến ‘‘hôi khói’’. Chúng tôi cũng không dám gượng cười nữa, sợ cái vui của chúng tôi trở nên thảm đạm. Chúng tôi uống đã hết hai tuần chè mà không ai nói một câu. Bỗng khi nàng toan đưa chén lên môi, thì nàng ngừng lại và thở dài : -Đã lâu không thấy mặt anh Phúng và anh Thúc? Tôi chưa kịp đáp, thì nàng đã nói tiếp : -Kể hai anh ấy đến cũng không có ích gì. Và mình cứ mãi thế này, thì ai thèm đến. Nàng để rơi mấy tiếng sau này, nghe buồn thảm quá. Tôi ngẩng lên nhìn nàng, đôi mắt của nàng không còn trong sáng như xưa, trên mặt nàng đã có vẻ xờ xạc, và mái tóc nàng có vẻ vò rối, hình như nàng vừa tỉnh khỏi một giấc mộng dài ghê gớm - hay là tự một cuộc phiêu lưu xa xôi lắm mới trở về. Vừng trán nàng đã âm u lại - và lần đầu tiên tôi thấy có mấy vết nhăn : cơn bão táp đã đi qua và để lại ở đấy những dấu tích sâu nặng. Chặp lâu, nàng lại nói : - Ngày mai hết củi mà cũng hết cả gạo nữa... Còn tiền thì cũng không đủ để mà trả tiền nhà ! Tôi nhìn nàng, ngơ ngác... Thì ra thì giờ đi chóng quá ! Chúng tôi ở trong gian nhà nhỏ ấy đã được một tháng rồi.