- VIII -
KHÔNG THẤY công chúa về, tôi vừa giận vừa thương nàng. Đã mấy bận tôi định đến nhà ông Hội đồng Thới để dò hỏi tin tức nàng, nhưng lòng tự ái của tôi không cho phép tôi làm việc đó. Mà ở lại một mình trong cái nhà quá rộng đó, chẳng hạn tôi thấy lạnh lùng, trống trải vô cùng. Thế rồi, một hôm, tôi bỏ nhà đi, ngoài cửa tôi có cho dán mấy chữ : Công chúa Như nguyện và ông Liên Hing không tiếp khách trong một tháng. Tôi tưởng tôi có thể đi xa Sàigòn, tới một bãi bể hiu quạnh, hay tới một góc rừng xa vắng, để thầm nuốt cái sầu muộn của tôi. Nhưng tôi thấy như có một sợi dây thiêng liêng buộc tôi lại với Sàigòn, một sợi dây vô hình. Tôi lên thuê một cài buồng con ở khách sạn V. N. Tôi không nhớ rõ, nhưng có thể là cái buồng mà chúng tôi ở ngày trước. Cái không khí khách sạn có lẽ trong lúc này, thích hợp với tâm hồn tôi hơn ngày trước. Những cảnh đời tạm bợ, giả dối xung quanh tôi sẽ làm cho tôi phải lưu ý mà không tha thiết với một vật gì. Và tâm hồn sẽ có cái cảm giác là như chập chờn ở giữa những váng nhện khả ái mắc vướng mà không biết mình mắc vướng, giam hãm mà không thấy mình giam hãm. Tôi phải nhận rằng tôi đến chốn ấy để tìm những cuộc tình duyên trong giây lát, vay ở đâu thì lại trả ở đấy’’, tôi không có cái kiêu ngạo hay hèn nhát cố tìm trong phóng đãng, trong truy lạc ấy, một sự phục thù đối với tình yêu. Tôi chỉ muốn tới đấy để cho dễ quên mình, dễ quên tất cả những cái đã làm cho tôi đau khổ. Nhưng ở đời nếu mà quên được dễ dàng như thế, thì làm gì có người đau khổ? Những sự đau khổ tàn nhẫn vô cùng, vẫn còn theo đuổi ta để mà trêu cợt ta hoài. Một hôm, buồn quá, tôi ra đứng tựa bao lơn nhìn cái đám người qua lại dưới đường, nhìn những nét mặt của từng người, mà đoán mối âu lo của họ. Cái trò chơi rất chua chát ấy, là cái trò chơi rất yêu thích của tôi, những lúc nhàn rỗi. Tôi đương mê man ở trong cái trò chơi ấy, thì một tiếng ‘‘ập’’ từ dưới đường vang động lên: một chiếc V8 đỗ ngay ở trước cửa nhà khách sạn, và từ trên xe, bước xuống một người Âu, vào khỏang hơn năm mươi tuổi, nhanh nhẹn, linh hoạt. Tôi đương chờ xem người vợ của ông ta, mà có lẽ là một người đầm trẻ, đẹp, lộng-lẫy. Nhưng không, người theo sau là một người đàn bà An-nam, là... vâng, chính là người hiện đương để lại trong tâm hồn tôi một mối đau khổ không cùng. Công chúa, ăn mặc theo kiểu Sàigòn, và thật là kiều diễm. Bấy giờ hai mắt tôi hoa lên và tâm hồn tôi như thác loạn. Nhưng tôi cũng biết hai người cặp nhau vào khách sạn. Bấy giờ đã 11 giờ tối. Nằm ở giường một lúc, sau khi đã lấy lại được sự trấn tỉnh, tôi gọi bồi lên hỏi: -Trước đây độ nửa giờ; anh có thấy một người Tây, dẫn một người đàn bà An-nam vào khách sạn không ? -Dạ, tôi có thấy. Có phải người đàn bà ấy sang lắm phải hôn ? -Thế người ta ở lại hay đi rồi? -Người ta ở buồng số 10. Số 10, thế nghĩa là khít bên buồng tôi đương ở. Tôi tái mặt đi, và nói có vẻ run run : -Buồng số 10 ? Mày có chắc thế không ? -Ồ, sao lại không chắc ? Chính tôi dẫn hai ông bà ấy lên. -Mày có biết ông ấy làm gì không? -Làm đồn điền nhưng mà về Saigon luôn, mỗi lần về là ‘‘chơi dẫu’’ lên. Hắn giàu ghê gớm lắm. Tôi không hỏi gì nữa, cho người bồi ra. Tôi thấy đau đớn vô cùng, ngả lưng xuống giường, định ngủ cho đừng phải nghĩ đến những điều đó nữa, nhưng tôi cảm thấy rằng tôi không thể nào ở trong lúc này, tại chỗ này, chỉ cách nàng có một bức tường mà thôi, mà không thể nghĩ đến nàng, nghĩ đến những điều ô uế mà nàng đương nhúng mình vào Thế rồi tôi đứng dậy, và định trả buồng, từ giã khách sạn Nhưng khi tôi đi qua buồng số 10, hai chân tôi như không nhắc đi được nữa: tôi không thể nào bỏ qua cái tội ác của người vợ tôi ; mà đứng lại để chứng kiến tội ác, thì chẳng hạn, tôi cũng không có can đảm. Trong đầu óc tôi, như có một sự phân tranh, ghê gớm giữa hai ý nghĩ ấy: về hay ở? Cuối cùng sự ghen tuông đã xâm chiếm cả lòng tôi và như một kẻ hiếu kỳ khốn nạn, tôi ghé mắt vào cái lỗ khóa ở cửa buồng số 10. Tâm hồn tôi lúc đầu như rối loạn lên, và trái tim tôi đánh mạnh quá tôi không thấy gì cả. Nhưng bỗng có một tiếng cười khoái trá ở một xó buồng bắn ra. Tôi nhìn thẳng vào chỗ ấy. Một cảnh tượng làm cho tôi ghê giợn vô cùng : tôi thấy vợ tôi, phải, vợ tôi trần truồng như một con rộng, và nằm vào lòng người Âu khốn nạn kia, và người này đương ngồi ở trên một ghế dài, và cũng trần truồng. Tôi thấy rõ ràng hắn cúi đầu xuống, nhe hai hàm răng trắng rất ghê sợ của hắn, và vẫn nhe răng như thế cho đến khi đụng phải một đầu vú của công chúa. Trong lúc ấy, tôi nghe có một tiếng cười điên cuồng và ác giởn như quỷ sứ. Tuy hai chân tôi còn đứng vững, mà tâm hồn tôi như chập chờn ở trong một giấc chiêm bao. Tôi cố nhìn, nhìn nữa, nhưng mà tôi không còn thấy gì, tôi không biết người ấy còn làm gì công chúa nữa. Hình như có một mũi dao đâm thẳng vào lòng tôi. Tôi không còn đứng thẳng lên được. Tôi gọi bồi và bảo : -Anh mang đồ tôi xuống, Và tôi muốn đi ngay. Người bồi nhìn thẳng vào mặt tôi và nói lại: -Ông làm sao thế? Ông muốn vào nhà thương? Tôi quay lưng và nói như một người trong mộng: -Không, tôi từ nhà thương ra. Người bồi không hiểu gì, chạy vào buồng tôi, mang cái valise chạy theo tôi. Tôi nghe có tiếng công chúa nói với người tình nhân của hắn: -Hình như có chuyện gì xảy ra trước cửa buồng chúng ta. Tôi nghe vậy và có ý đợi, nhưng khi tôi đã đi xuống khỏi thang gác, vẫn không nghe tiếng cửa buồng mở. Bấy giờ đã một giờ khuya. NGÀY HÔM ấy, tôi thuê xe đi lang thang khắp Saigon, và cố ý muốn đi lần vào trong bóng tối, vào những ngõ hẻm. Nhưng người phu xe đã kéo tôi ra gần khỏi Saigon rồi mà không biết, và tôi đã ở trên con đường về xóm Bình thới. Bấy giờ trăng sắp lặn, gió đồng đã bắt đầu lên : có lẽ giờ bình minh sắp tới. Bỗng có tiếng chuông ở sau lưng chúng tôi: một cái xe ngựa đã tiến gần xe tôi. Tôi bảo xe ngừng lại, và nói với người đánh xe ngựa : -Ông cho tôi đi nhờ một đoạn đường với. Tôi có việc gấp lắm, ông làm ơn giúp lôi. Tôi nói thế, vì tôi liếc thấy trên cái xe ngựa đẹp đẽ ấy có một người đàn bà. Một người đàn bà to béo nhưng mà lanh lẹ, vẻ mặt rất đầm thắm giống hệt như nhà tôi. Liên Hing dừng lại và mỉm cười. Chúng tôi hiểu ý cũng cười theo : - Hay là bà ấy ? - Phải, chính là nhà tôi bây giờ. Bà ấy là vợ một người Pháp đã quá cố, và sáng nào trước khi mặt trời mọc, bà cũng đánh xe tới Bình thới để xem cái đồn điền chè của bà, là tất cả gia tài mà chồng bà đã để lại cho bà. Bà nhận lời tôi một cách vui vẻ. Và cuộc tình duyên của chúng tôi bắt đầu trước cái giờ binh minh ấy.
MỘT HÔM, từ đồn điền nhà tôi, chúng tôi cũng đánh xe về Sàigòn, tôi muốn dẫn nhà tôi đến xem cái lầu nguy nga, nơi ngày trước mà tôi ở cùng công chúa. Ngoài cửa, tôi vẫn còn thấy mấy chữ nhỏ: ‘‘Công chúa Như Nguyện và ông Liên Hing không tiếp khách trong một tháng’’. Tôi đưa tay hất mạnh cái mảnh giấy nhỏ ấy xuống đất, và chúng tôi cùng bước lên thềm. Tôi thấy có một cảm giác lạnh lùng ghê gớm, tưởng như nhà tôi sắp vào, không phải là nhà ở, mà là một cái chùa vắng. Tôi không muốn gọi người bồi coi việc canh giữ nhà ấy, tự khẽ mở cánh cửa, và đi thẳng vào buồng khách. Tôi đi tầng bước, rón rén và thành kính, không dám đạp mạnh ở trên nền gạch. Vì buồng tối quá, tôi không nhận thấy gì. Tôi đi lại mở hé cánh cửa ra chỉ để rọi vào một tia sáng rụt dè. Tôi bắt đầu thấy vững tâm và can đảm. Mọi vật trong gian nhà vẫn còn nguyên. Tôi chỉ tầng cái một giới thiệu với nhà tôi, như là giới thiệu một người bạn thân vậy. Nhưng khi tôi qua buồng ngủ, tôi cảm thấy ngay có một sự gì đã thay đổi, hình như sự trật tự của các vật đã xáo trộn. Tôi hơi lo ngại và hết sức ngạc nhiên. Tôi vừa thấy ở trên giường, và dưới nền nhà một ít cánh hoa bạch cúc. Hoa ấy bình sinh là một thứ hoa mà tôi ưa thích nhất. Nhưng ở trên thế gian này chỉ có hai người là biết được sự ưa thích ấy của tôi mà thôi là má tôi và công chúa Như Nguyện. Tôi không biết má tôi hay công chúa đã đến đây để tìm tôi và tặng tôi thứ hoa này. Tôi đương nghĩ ngợi, thì một vật gì trăng trắng hiện ra trước mặt: một phong bì, không, chỉ là một mảnh giấy con đã vò nát và có những chấm ố vàng, có lẽ là dấu vết của những giọt nước mắt. Trên mảnh giấy ấy viết bằng bút chì bốn câu thơ này : Thương với không thương nói lúc đầu, Mần chi như thể phỉnh phờ nhau ! Ba sinh âu hẳn duyên là nợ, Dính líu chừng ni, đủ thảm sầu. Thơ không ký tên ai cả, nhưng cái giọng Huế dịu dàng dễ thương ấy chỉ có thể là cái giọng thơ của nàng công chúa mà thôi. Té ra nàng đã trở về khóc ở đây. Nhưng muộn quá rồi ! Tôi vội nhét bài thơ vào túi, và chạy lại nói với vợ tôi lúc bấy giờ đương mãi xem một bức tranh cồ, vẽ một người lính hầu đẩy một cái xe, trên ngồi một vị đại thần: -Tranh đẹp quá mình hỉ? Nhưng mà bao nhiêu đồ quý, theo ý tôi, rồi sẽ mang cả về Faifoo. Tôi muốn về thăm má, và chúng ta sẽ ở lại đấy suốt đời hầu hạ má... -Còn nhà này ? -Nhà này, ai mua thì ta bán. Tôi nói câu này với một giọng buồn thảm nhưng bấy giờ có lẽ nhà tôi không hiểu. Nàng vui vẻ gật đầu, vui vẻ bảo tôi : -Phải đấy, mình ! Chúng ta sẽ về Faifoo cho gần má.
HẾT