TRỞ THÀNH CÔNG DÂN ÁO GẤM
Ngày 2.11.1963, Lúc 9 giờ sáng, dân chúng toàn cõi Nam Việt Nam được Đài Phát Thanh Sài Gòn loan báo ‘’Tổng Thống Diệm và ông Nhu tự tử’’.
Những người ủng hộ chế độ cũ, cũng như các người oán thù chế độ đều ngỡ ngàng về hai cái chết nhanh chóng như thế. Và chẳng mấy chốc ai ai cũng muốn tìm hiểu cái chết của Tổng Thống Diệm như thế nào? Đâu là sự thật?
Về phía Tòa Đại Sứ Mỹ im lặng, không một thông cáo, bình luận về cái chết đầy bí ẩn của anh em Tổng Thống Diệm. Các ký giả trong và ngoài nước sốt nóng về đề tài đó. Nhưng bức màn bí mật vẫn phủ kín ở Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và ngay cả Đại Sứ chuyên viên đảo chánh Henry Cabot Lodge.
Cũng sáng ngày 2.11.1963, dân chúng Sài Gòn được thấy sự xuất hiện của ngài Đại Sứ trên Đường Tự Do và Lê Lợi. Nét mặt ngài Đại Sứ tươi hẳn lên. Ông thả bộ trên vỉa hè như một kẻ chiến thắng đã hoàn toàn thư thả sau trách nhiệm đè nặng trên vai từ hai tháng qua ở Sài Gòn. Các nhiếp ảnh viên báo chí đã chụp được một tấm hình Lodge đang hỏi han trò chuyện với một thiếu nữ trên đường phố.
Thái độ ra mắt tự nhiên đã thu hút quần chúng Việt Nam một phần nào. Song cái chết của Tổng Thống Diệm đã làm cho người dân nhìn Lodge với sự hiếu kỳ ở kích thước đa mưu, túc kế của vị chuyên viên thời cuộc.
Trong lúc đó tại Hoa Kỳ, bà góa phụ Ngô Đình Nhu tuyên bố với báo chí ‘’ông Diệm, ông Nhu không thể tự tử được. Đạo Công Giáo không cho phép hủy hoại thân thể. Chính phủ Hoa Thịnh Đốn và Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn phải chịu trách nhiệm về cái chết đó’’.
Lời tuyên bố của góa phụ Ngô Đình Nhu đã làm cho quần chúng Phật Tử Việt Nam đi tìm sự thật cái chết của Tổng Thống Diệm. Và cố nhiên, ở tình thế ban đầu, người ta cho Tòa Đại Sứ Mỹ đã quyết định với Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng giết ông Diệm, ông Nhu.
Đến giữa trưa ngày 2.11.1963, dân chúng Sài Gòn quả quyết rằng Tổng Thống Diệm và ông Ngô Đình Nhu bị ám hại. Dư luận đồng bào Công Giáo phẫn uất, nhất là các Họ Đạo ở Hố Nai và các Họ Đạo trên toàn quốc thuộc dân chúng Bắc Việt di cư vào Nam từ năm 1954.
Sôi nổi, bàn tán về cái chết của Tổng Thống Diệm mỗi lúc càng lan rộng. Những nghi vấn, huyền thoại chung quanh cái chết đó mà hầu như trách nhiệm những cá nhân, đoàn thể, người Mỹ đều từ chối, không đưa ra ánh sáng sự thật ấy.
Chế độ Ngô Đình Diệm hoàn toàn sụp đổ, cá nhân Tổng Thống Diệm trở về với cát bụi mây ngàn. Người thiên cổ không thể cất tiếng nói vào đời lần thứ hai. Song uy tín, tiếng tăm của Tổng Thống Diệm chết rồi vẫn làm cho người Mỹ (Henry Cabot Lodge) và Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng phải nể nang.
Người ta thử hỏi, tại sao cao trào cách mạng 1.11.1963 không phổ biến một thông cáo chính thức, minh bạch về cái chết của Tổng Thống Ngô Đình Diệm? Nếu các giới cách mạng cùng Tòa Đại Sứ Mỹ đưa ra cái chết đó một cách chính xác thì chắc rằng dân chúng không đến phải đi tìm để làm trọng đại về một cái chết của vị Tổng Thống bị cách mạng nhân dân và Quân Đội lật đổ.
Những im lặng nặng nề, những sự dấu diếm ấy đã giảm tư cách, uy thế của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và mất đi chứ Tín trong hậu trướng chính trị mà người Mỹ thường được dân chúng đề cập tới.
Đại Sứ Lodge là con hổ vồ được xác người tiều phu Ngô Đình Diệm (chặt gỗ xây dựng căn nhà chế độ). Ông ta hãnh diện đứng về phía đám đông Phật Giáo, thanh toán một chế độ ương ngạnh với chính phủ Mỹ.
Tiếp sau những khủng hoảng chính trị, những vụ xuống đường liên tiếp, bày thêm cảnh hỗn độn như cảnh đói năm Dần lúc Nhật lan tràn trên toàn cõi Đông Dương.
Trước tình thế hiểm nghèo đó, chế độ Ngô Đình Diệm lại được quật mồ để so sánh với cách mạng đương thời. Chẳng mấy chốc hào quang cách mạng là chiếc bánh vẽ, một ảo tưởng kinh hoàng trong lịch sử cận đại Việt Nam.
Ngài Đại Sứ Lodge không ngờ công chuyện đổ vỡ tai hại như thế. Ông thúc đẩy Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng thành lập chính phủ dân sự. Đồng thời nhúng tay bí mật vào một cuộc đảo chánh mới được gọi là chỉnh lý.
Cuộc chỉnh lý này do Tướng Trần Thiện Khiêm và Nguyễn Khánh cầm đầu (đã đăng tải vụ Bốn Tướng Đà Lạt và sắp xuất bản thành sách trong năm 1971).
Sau cuộc chỉnh lý 31.1.1964 lằn xe đổ nát chính trị kéo dài mãi. Phía người Mỹ bắt đầu rục rịch thay đổi nhân sự từ Bộ Tư Lệnh đến Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
Ngày 18.6.1964, Tướng Paul Harkins, Tư Lệnh Quân Đoàn Mỹ tại Việt Nam trở về Mỹ hưu trí. Viên phụ tá của ông là Tướng Williams Westmoreland lên thay thế. Tướng Westy hoạch định chương trình đánh mạnh và đánh dữ với cộng sản.
Ông yêu cầu Hoa Thịnh Đốn vạch chương trình đổ bộ Quân Đội Mỹ lên Việt Nam.
Tướng Westy viện lẽ, quân số đông đúc là điều cần thiết đánh bại cộng sản.
Ngày 24.6.1964, Tổng Thống Hoa Kỳ Johnson chính thức cử Tướng Maxwell Taylor thay thế Henry Cabot Lodge chức vụ Đại Sứ tại Việt Nam, một số đồng bào Phật Tử sinh viên, nhân vật ngoại giao đoàn và Thủ Tướng chính phủ Nguyễn Khánh tiễn đưa.
Tại phòng khách danh dự Phi Trường Tân Sơn Nhất, Nguyễn Khánh đã trao tặng Lodge khăn đen, áo dài, tượng trưng quốc phục Việt Nam. Lodge đã mặc vào, lên máy bay hô khẩu hiệu: ‘’Việt Nam muôn năm’’ trước khi cửa phi cơ đóng chặt lại, đưa Lodge trở về nước Mỹ.
Thế là nhiệm vụ của một Đại Sứ, chuyên viên đảo chánh đã chấm dứt. Lodge đến Nam Việt Nam trong tình hình sôi sục giữa chính quyền Ngô Đình Diệm và Phật Giáo, ngài Đại Sứ đã bóp nắn thời cuộc. Nhưng thời cuộc đó cũng không sáng sủa mà còn tệ hại khi chính quyền Ngô Đình Diệm cáo chung. Cho nên khi ông Nixon đắc cử Tổng Thống nước Mỹ năm 1968 đã ngụ ý rằng, người Mỹ hạ bệ và giết Tổng Thống Diệm là một điểm hoen ố trên đường ngoại giao ở Đông Nam Á Châu, nơi mà Tổng Thống Diệm là lãnh tụ chống cộng sản đến cùng.
Lê Tử Hùng