← Quay lại trang sách

Không phải là lúc mua cổ phiếu

Sau khi ly dị Claude Shannon, Norma Levor đến Hollywood và gia nhập Đảng Cộng sản. Claude đã không gặp lại cô trong suốt hai mươi năm. Norma và người chồng sau của mình, Ben Barzman, là những nhà biên kịch điện ảnh bị liệt vào sổ đen dưới thời McCarthy. Khi chính quyền Mỹ chuẩn bị tống giam hai vợ chồng hoặc ép buộc họ khai ra những người cộng sản đồng đội, họ trốn chạy khỏi đất nước và đặt chân đến Pháp.

Năm 1963, Norma đến Cambridge giúp cô cháu gái của mình trang bị phòng ngủ tập thể cho trường Harvard nhân dịp nghỉ hè. Norma bắt đầu liên lạc trở lại với Shannon.

Họ gặp mặt nhau tại quầy bar của khách sạn Commander và nói về cuộc sống của mình. Claude kể: "Anh đã lấy một người vợ tốt và có những đứa con tuyệt vời. Công việc của anh là dạy học và nghiên cứu. Anh có một bộ sưu tập hai mươi ba chiếc xe hơi. Anh là một gã thợ hàn."

Nói đến từ "thợ hàn", ông cười như nhạo báng chính mình. Norma đưa tay về phía Claude. Ông nắm lấy tay Norma và hôn lên tay cô.

Họ cùng nhau lên phòng Norma và ngủ lại đấy. Sau đó, Claude hỏi, "Em có hạnh phúc không?"

"Tương đối. Còn anh?"

“Cũng tương đối".

Shannon nói với Norma là cuộc hôn nhân giữa họ chỉ mang đến khổ sở cho hai người, quan điểm chính trị cấp tiến của cô không thể hòa hợp được với công việc nghiên cứu mật mã bí mật của ông được. Không có một sự kết hợp nào tồi tệ hơn lý tưởng cô theo đuổi và thị trường chứng khoán - niềm say mê nghiên cứu gần đây nhất của Shannon.

Thái độ của Shannon trước tiền bạc luôn là một ẩn số đối với những người xung quanh ông. Lớn lên ở Michigan, ông không bao giờ muốn lâm vào cảnh nghèo khó cũng như không bao giờ tiêu xài hoang phí dù chỉ một đô la. Sau khi tốt nghiệp; như lời kể của Vannevar Bush, Shannon "hoàn toàn tay trắng".

Điều này đã thay đổi sau đám cưới đầu tiên của ông. Người mẹ giàu có của Norma đã thuê một người đến trang trí lại căn hộ khiêm tốn của Shannon ở Princeton bằng những thứ vật dụng hiện đại và thanh nhã. Claude chưa bao giờ thấy thoải mái trước sự sắp đặt ấy, Norma kể, ông phàn nàn rằng cứ như đang sống trong một vở kịch vậy.

Chính Betty là người mang đến cho Claude sở thích đối với chuyện đầu tư. Trước khi bắt đầu cuộc hôn nhân thứ hai, Claude gửi khoản tiền tiết kiệm cả đời của mình trong một tài khoản ngân hàng và không hưởng lãi suất. Betty gợi ý rằng, đầu tư một ít tiền vào trái phiếu hay thậm chí cổ phiếu cũng không phải là một ý kiến tồi.

Shannon miệt mài xây dựng hình ảnh một người tìm kiếm sự thật không vụ lợi, coi khinh các giá trị của thị trường. Ông nói với một nhà báo: "Tôi luôn theo đuổi sở thích của mình mà không để tâm đến giá trị tài chính hoặc giá trị đối với thế giới." Betty giải thích rằng: "Khi nghiên cứu một lý thuyết, anh ấy đang nghĩ đến những thứ gì đó đẹp theo kiểu toán học." Sau khi giải quyết được các vấn đề trừu tượng mà mình thích, ông luôn sẵn sàng bước tiếp. Betty nói: "Một khi đã làm xong chuyện nào đó, anh ấy đã hoàn toàn dứt ra khỏi nó." Claude thừa nhận rằng những ai từng để mắt tới Căn phòng đồ chơi đều thấy rõ: "Tôi đã dành nhiều thời gian cho những thứ hoàn toàn vô dụng."

Có nhiều câu chuyện lại kể về thái độ dửng dưng với tiền bạc của Shannon. Phòng thí nghiệm Bell từ lâu đã có chính sách giữ bí mật mức lương của các nhân viên. Năm 1955, một chuyên gia lý sinh tên là Bob Shulman tạo ra một danh sách hàng trăm người và đến gặp từng người với một lời đề nghị không thể từ chối được. Shulman nói rằng hãy điền mức lương của bạn vào đây và tôi sẽ cho bạn thấy mức lương của những người còn lại. Hầu hết mọi người đều làm theo, trong đó có Shannon. Danh sách cho thấy so với những người không mấy tên tuổi, mức lương của Shannon cũng không hơn họ bao nhiêu. Phòng thí nghiệm Bell cảm thấy đủ ngượng ngùng và nàng lương Shannon lên 50%.

Một đồng nghiệp mượn phòng làm việc tại MIT của Shannon trong thời gian ông đi xa đã tìm thấy một chi phiếu chuyển khoản tiền mặt cho Shannon. Nó đã cách đây hơn một năm rồi. Tình tiết này trở thành mầm móng sự thật cho những câu chuyện ly kỳ đồn đoán trong MIT về hàng đống chi phiếu chuyển tiền đang nằm chờ đợi mỏi mòn trong văn phòng Shannon.

-——oOo---

Cuối thập niên 1950, chính sự ham hiểu biết tri thức và khao khát bắt thị trường sinh lợi cho mình đã khiến Shannon bắt đầu thực hiện một công trình nghiên cứu chuyên sâu. Ông chất đầy ba kệ sách trong thư viện bằng hàng trăm đầu sách về kinh tế và đầu tư. Trong số các sách có cuốn Sự giàu có của các quốc gia (The Wealth of Nation) của Adam Smith, Lý thuyết trò chơi và hành vi kinh tế (Theory of Games and Economic Behavior ) của John von Neunman và Oskar Morgenstern, Kinh tế học (Economics) của Paul Samuelson và nhiều đầu sách khác cung cấp kiến thức thực tiễn về lĩnh vực đầu tư. Có một quyển mà Shannon thích nhất, đó là quyển sách viết theo phong cách hài hước cổ điển Đâu rồi những du thuyền của người tiêu dùng? (Where Are The Customers' Yachts?) của Fred Schwed.

Vào khoảng thời gian ông cùng Thorp phát triển máy đánh bài rulet, Shannon đã lưu lại những lưu ý trong một quyển sổ MIT. Một phần quyển sổ dành cho thiết bị đánh bạc rulet, phần còn lại tập hợp một hệ thống các trạng thái bất ổn không liên quan gì với nhau của thị trường chứng khoán. Shannon suy nghĩ về cấu trúc thống kê đường đi ngẫu nhiên của thị trường và không rõ liệu lý thuyết thông tin có thế cung cấp những hiểu biết hữu ích hay không. Ông đưa ra nhiều cái tên như Bachelier, (Benjamin) Graham, (David) Dodd, (John) Magee, A.w.Jones, (Oskar) Morgerstem và (Benoit) Mandelbrot. Ông cũng quan tâm đến các vấn đề giao dịch biên và bán khống (short-selling), lệnh mua bán chứng khoán và ảnh hưởng của các tình trạng hỗn loạn trên thị trường, thuế lợi nhuận đầu tư và phí giao dịch. Shannon vẽ đồ thị lãi suất ngắn hạn của Litton Industries (cổ phiếu ngắn hạn so với giá cả: các giá trị nhảy loạn xạ không theo một khuôn mẫu nhất định). Ông cũng ghi lại những câu chuyện thành công của Bernard Baruch, biệt danh Kẻ cô độc, người đã biến khoản tiền 10,000 đô la của mình thành một triệu đô la sau 10 năm; và Hetty Green, mụ phù thủy của Phố Wall, người biến một triệu đô la thành một trăm triệu đô la sau ba mươi năm.

Có một lần, Shannon bước vào văn phòng một cựu sinh viên MIT tên là Len Kleinrock để mượn sách. (Sau này, Kleinrock trở nên nổi tiếng trong vai trò người kiến tạo ra một dịch vụ vĩ đại trong thời đại của chúng ta, đó là Internet.) cuốn sách mà Shannon muốn mượn có các bảng số liệu về phân phối tài sản của nước Mỹ. Nó cho biết có bao nhiêu triệu phú, bao nhiêu người có tổng tài sản 100.000 đô la và nhiều mục khác nữa. Cảm thấy khó hiểu, Kleinrock hỏi Shannon cần những thứ ấy để làm gì. Shannon nói rằng ông đang nghiên cứu một phương pháp mới để đầu tư vào thị trường chứng khoán.

Vẫn còn khó hiểu, Klein Rock hỏi: "Thế ông quan tâm đến việc kiếm tiền trong thị trường chứng khoán sao?"

"Đúng, thế anh không muốn sao?" Shannon trả lời.

Khi bạn bè lịch sự hỏi thăm Shannon đang dành thời gian để làm gì thì câu trả lời quen thuộc của ông là ông đang sử dụng các công thức toán học để đầu tư vào thị trường chứng khoán. Có nhiều tin đồn rằng nhờ vào các khoản đầu tư của mình, Shannon đã thu về được khối tiền. Nhưng không phải ai cũng hiểu câu chuyện ấy theo nghĩa đơn thuần. Paul Samuelson từng nói với tôi: "Theo kinh nghiệm của tôi, thường có rất ít người vốn dĩ bằng cách thức nào đó đã tạo ra được một mánh lới gia tăng tổng lợi nhuận thu về khi rủi ro được khống chế và trở nên giàu có nhanh chóng lại tiết lộ mánh khóe ấy qua lối sống phô trương của mình. Tôi không nhớ bất kỳ lời bán tán nào tại các bộ phận tản nhiệt của MIT rằng nhà Shannon đã bay ra khỏi giới học thuật."

Những người khác nghi ngờ rằng bài phát biểu về "thành công" trong thị trường chứng khoán là một cái cớ để rời bỏ thế giới khoa học. Trong bài phỏng vấn năm 1986, nhà báo Anthony Liversidge đặt một câu hỏi: "Ông không bị ảnh hưởng bởi những thành công của mình trên thị trường chứng khoán phải không? Có phải ông thấy không cần thiết để nai lưng ra làm việc nữa không?" Và câu trả lời của Shannon là: "Dĩ nhiên là không." Và ông tiếp tục:

Thậm chí tôi xem việc nghiên cứu lý thuyết về cổ phiếu và thị trường chứng khoán như nhiều nghiên cứu khác chưa được xuất bản của mình. Và tất cả mọi người đều muốn biết có gì trong những nghiên cứu đó... Tôi đã nói chuyện tại MIT về vấn đề này và phác thảo ý tưởng ấy cách đây chừng 20 năm rồi...và chưa bao giờ viết sách để xuất bản cả, thế nên cho đến hôm nay, mọi người vẫn còn thắc mắc về nó.

Dù chưa từng xuất bản bất bất cứ tài liệu nào về chủ đề này, thị trường chứng khoán cũng trở thành một trong những niềm đam mê lớn nhất trong cuộc đời Claude Shannon và Betty. Nhà toán học người Nga, Boris Tsybakov, nhớ lại lần đến thăm nước Mỹ vào năm 1969. Trong lần tiếp xúc với Shannon, ông nhận ra Shannon đã đi chệch ra khỏi vấn đề một cách đầy phấn khởi, phác thảo ra các lý thuyết về thị trường tại nhà ăn của MIT. Shannon xin lỗi trước sự thật là Tsybakov sẽ không thể biến các ý tưởng thành thực tiễn tại Liên bang Xô Viết.

— -——oOo-—-—

Shannon không phải là bộ óc khoa học vĩ đại đầu tiên chứng tỏ được tài năng của mình có thể gặt hái được thành công trong thị trường chứng khoán. Carl Friedrich Gauss, người được đánh giá là nhà toán học vĩ đại nhất trong lịch sử, cũng tham gia thị trường chứng khoán. Với mức lương 1,000 thaler 8 một năm nhưng Euler để lại số tài sản 170.587 thaler bao gồm tiền mặt và cổ phiếu. Đến bây giờ, những phương thức đầu tư đầu tư của Gauss vẫn còn là một bí mật.

Mặt khác, Isaac Newton đã lỗ hết 20.000 bảng Anh khi đầu tư vào công ty South Sea Trading. Ngày nay, nếu khoản tiền ấy được quy đổi ra thì nó trị giá hơn 3,6 triệu đô la. Newton từng nói: "Tôi có thể tính toán chuyển động của các thiên thể nhưng không thể đo lường được sự điên rồ của con người."

Shannon nói với một trong những học trò của mình là tiến sĩ Henry Ernst rằng, cách kiếm tiền thực sự trong thị trường là mua bán chứng khoán. Cụm từ ấy đang trong quá trình được định nghĩa lại trong kỷ nguyên thông tin ngày nay.

Ban đầu, đó là một kế hoạch kiếm lợi từ những thay đổi nhỏ của giá trong các thị trường phân lập về mặt địa lý. Jay Gould, nhà tài chính của Kỷ nguyên Vàng, khám phá rằng giá vàng tại thị trường London và New York không khác biệt gì mấy. Gould mua vàng tại bất cứ nơi nào có giá rẻ hơn và bán ngay lại tại những nơi có giá cao hơn để thu ngay lợi nhuận.

Thông tin điện tử tức thời đã gần như xóa hết mọi khác biệt về giá do yếu tố địa lý. Cụm từ "mua bán cổ phiếu" ngày nay được dùng để chỉ mọi nỗ lực kiếm lợi từ yếu tố phi lý tồn tại trong thị trường. Cũng giống như Gould, các nhà buôn cổ phiếu thời nay cũng mua bán gần như cùng loại cổ phiếu tại cùng một thời điểm để kiếm lời. Bởi vì lợi nhuận từ việc mua bán cổ phiếu thường tồn tại thật ngắn ngủi, các nhà đầu tư có thể hy vọng vào những khoản lợi nhuận cao hơn từ các loại cổ phiếu thông thường và đầu tư trái phiếu.

"Mua bán cổ phiếu" là một từ ngữ có tính chỉ thị. Những cáo buộc của phe tả luôn xem việc mua bán cổ phiếu là đem tiền bỏ đi, đó là hình ảnh thu nhỏ của Phố Wall, nơi người ta bỏ ra một ít nhưng lại thu về cả một gia tài và thành công ấy không mang lại lợi ích xã hội. Còn theo quan điểm của những nhà lý luận thị trường hiệu quả, buôn bán cổ phiếu chẳng khác nào một sự tự lăng mạ. Theo định nghĩa ấy, không có cơ hội cho việc buôn bán cổ phiếu trong thị trường hiệu quả. Một quan điểm có tính lý thuyết của lĩnh vực tài chính học thuật được mô tả rõ ràng nếu chấp nhận khái niệm "không mua bán chứng khoán" là chân lý. Các "định lý" tài chính được chứng minh bởi phương pháp ơ-clit đều giả định rằng không có sự tồn tại của việc mua bán chứng khoán.

Lối tư duy logic xoay vòng ngày càng giống như một trò đùa. Một nhà kinh tế học MIT (đang giảng dạy tại Đại học Chicago) nói rằng không cần phí công tìm kiếm những tờ bạc 100 đô la đánh rơi trên đường phố. Vì sao? Vì nếu có bất cứ một tờ 100 đô la nào như thế thì ai đó đã lấy trước bạn rồi.

Đó không hẳn là một nghịch lý. Việc có hay không những tờ một trăm đô la như thế rơi trên đường còn tùy thuộc vào người có thường xuyên đánh rơi hay không và những người khác nhặt chúng nhanh đến mức nào. Các nhà lý luận học theo quan điểm thị trường hiệu quả thì cho rằng việc nhặt tiền rơi sẽ dễ hơn. Và có một cuộc đua tranh giữa những người muốn nhặt tiền, họ thi nhau vồ lấy những tờ bạc trước khi có ai đó kịp nhặt. Cuộc cạnh tranh này nhanh chóng quét sạch các tờ đô la trên đường, Những món tiền tự nhiên mà có này sẽ nhanh chóng tan biến như khi hoa tuyết được cho vào lò nướng vậy. Và, sau một quá trình đánh giá kỹ lưỡng, người ta sẽ thấy, không hề có tiền vô chủ rải rác xung quanh họ.

Những người chỉ trích giả thuyết thị trường hiệu quả đưa ra một tình huống đơn giản hơn, rằng, thỉnh thoảng, người ta đánh rơi tiền nhanh hơn tốc độ của người nhặt. Và ở nhiều nơi, tờ 100 đô la vẫn còn rơi vãi trên đường trong chốc lát.

Shannon hoàn toàn xem công thức của Kelly như bản chất toán học của quá trình mua và bán cổ phiếu. Trong học kỳ mùa xuân năm 1956, Shannon giảng dạy tại MIT một chuyên đề về lý thuyết thông tin. Một tựa bài học được đặt là: “Các vấn đề về danh mục vốn." Bài giảng được lấy tư liệu duy nhất từ bản tóm lược được đánh máy và lưu trữ cẩn thận bởi một sinh viên có tên là W.Wesley Peterson (ngày nay là một nhà lý luận thông tin lỗi lạc) và kết hợp với các nghiên cứu của Shannon tại Thư viện Quốc gia Mỹ.

Bản tóm lược ấy khiến cho bất cứ ai muốn tìm kiếm một lời khuyên đầu tư đều cảm thấy khó hiểu. Bài giảng chỉ xoay quanh duy nhất một vấn đề, phương pháp đánh bạc của John Kelly. Nó cũng đề cập đến Câu hỏi 64.000 đô la và dịch vụ mạng mang lại nhiều lợi nhuận. Ngoài tựa đề ra, bài giảng không đả động gì đến danh mục đầu tư hay thị trường chứng khoán cả.

Có lẽ Shannon đã tạo ra các mối liên kết trong bài giảng của mình. Lập luận của ông nằm ở chỗ ông xem một con ngựa đua như thị trường chứng khoán, vốn cũng hay dở chứng và nguy hiểm. Thật đáng báo động nếu bạn đến một sàn giao dịch chứng khoán lớn và thấy sàn nhà đầy ắp các loại bằng cấp chứng khoán vô giá trị. Cũng như hãy thứ đến một một trường đua ngựa xem. Những vé cá ngựa sẽ không còn giá trị trong vòng vài phút.

Thật dại dột nếu bạn cá cược mọi thứ chỉ dựa vào sở thích (cá ngựa hay chơi cổ phiếu đều thế cả). Cách thức duy nhất để tồn tại là hãy đa dạng hóa. Những người đặt cược vào tất cả các con ngựa đua hoặc mua một quỹ đầu tư chỉ số, thì chí ít cũng thu được món lợi nhuận trung bình sau khi đã trừ các chi phí giao dịch. Cho dù ẩn chứa nhiều rủi ro những khái niệm "trung bình" không được quan tâm trên đường đua. đối với cổ phiếu, khái niệm "trung bình" được đông đảo chấp nhận, cũng giống như khi tỷ lệ lạm phát ở mức 6%. Đối với những nhà đầu cơ cổ phiếu, khoản tiền dành cho hoa hồng và đóng thuế là rất nhỏ.

Shannon lại thích thú với những khoản lợi nhuận nhiều hơn trung bình. Cách duy nhất khuynh đảo thị trường (cả thị trường chứng khoán lẫn việc cá ngựa) là phải biết được những thông tin mà người khác không biết. Bảng điểm chứng khoán cũng tương tự như bảng điểm đua ngựa vậy. Nó mang đến thông tin thuận lợi cho nhiều người. Một thương nhân muốn đánh bại thị trường cần phải có một sự nhạy bén, có một tầm nhìn đúng về những gì khi đặt cược vào cổ phiếu sẽ mang lại giá trị thật sự.

Dĩ nhiên, giữa một trường đua ngựa và một sàn giao dịch có nhiều điểm khác biệt. Con ngựa đua phải thắng, phải có thứ hạng, phải trình diễn đẹp mắt hoặc phải kiếm ra tiền, tất cả những yêu cầu trên đều rất rõ ràng. Còn đối với cổ phiếu và các loại chứng khoán khác, danh mục các yêu cầu kết quả đạt được có thể kéo dài đến vô tận. Giá cổ phiếu có thể lên hoặc xuống hoàn toàn phụ thuộc vào một yếu tố nhỏ mà thôi, cổ phiếu có thể được dùng để trả cổ tức hoặc được chia nhỏ hay sáp nhập thêm vào. Thời gian cho những vòng đua được chia nhỏ thành từng khoản rời rạc. Còn thời gian trong thị trường chứng khoán luôn tiếp diễn liên tục. Một nhà đầu tư có thể tiếp tục công việc của mình bao lâu tùy thích.

Đó không phải là những khác biệt căn bản. Bất cứ hình thức sự kiện ngẫu nhiên nào cũng đều có một "xác suất phân phối". Đó chính là việc xem xét mỗi kết quả có thể đạt được và xác suất xảy ra của chúng. Ví dụ như, đơn giản là khi ta cá cược thì chỉ có hai kết quả có thể xảy ra, đó là thắng hoặc là thua, kèm theo một tỷ lệ tiền cá cược. Bạn nên trình bày quy luật phân phối theo dạng biểu đồ cột với hai cột tương trưng cho "thắng" và "thua".

Trong đầu tư chứng khoán, quy luật phân phối xác suất thích hợp biểu diễn dưới dạng đường cong hình chuông thay đổi dần theo thời gian. Bạn có thể sẽ kết thúc tại một điểm nào đó trên đồ thị, với một mức lợi nhuận trung bình thôi. Thông thường, khả năng tình hình có thể diễn tiến tốt hơn hay xấu hơn là rất ít. Các nhà thống kê giờ đây có thể tha hồ làm việc với cả các dạng quy luật phân phối xác suất lẫn những phát kiến mới trong lý thuyết thông tin.

Những câu chuyện ly kỳ lưu truyền trong giới cờ bạc về Kelly đã ẩn chứa tất cả những gì lý thuyết thị trường hiệu quả từ chối. Không ai có đủ kiến thức hiểu hết được những hành vi tương lai của thị trường. Một cách hiểu đơn giản nhất về thị trường hiệu quả chính là khi mọi người đều được những tin tức tài chính và bắt đầu phân tích nó, thì dường như hai hoạt động này xảy ra vào cùng một lúc. Dĩ nhiên, nếu suy xét theo phương diện ngôn từ, điều đó không đúng. Những hình mẫu thị trường hiệu quả tân tiến hơn thừa nhận rằng có thể mất vài phút, hàng giờ hoặc thậm chí nhiều ngày thì các nhà đầu tư mới phân tích xong và hành động. Như vậy, theo như quy trình này, chắc chắn sẽ có những người tạm thời có được thông tin tốt hơn những người khác.

Một số nhà kinh tế học thì cho rằng, ngay cả khi có được lợi thế về thông tin thì có thể người ta cũng chẳng thu được chút lợi nhuận nào từ nó cả. Nguyên nhân người ta nghĩ đến nhiều nhất chính là phí giao dịch. Khoản tiền tăng thêm từ việc có được thông tin nội bộ thậm chí còn ít hơn các khoản tiền hoa hồng nữa. Và, cũng có thể nói, khi thực hiện hành vi này, các nhà đầu tư chứng khoán không biết rằng mình đang hứng chịu một rủi ro. Những gì anh ta tin rằng là "điều chắn ăn" thì hóa ra lại không phải thế. Những khoản lợi nhuận dù là nhỏ nhoi cũng chỉ có thể có được khi bạn dám chấp nhận rủi ro cho những mất mát to lớn. Và theo cách này hay cách khác, cũng không ai có thể đánh bại được thị trường trong dài hạn.

Phân tích của Kelly làm dấy lên những nghi ngờ về kết luận đơn giản ấy. Nếu giới hạn duy nhất cho việc tìm kiếm lợi nhuận là mức độ thông tin nắm bắt được hay nói cách khác, là dựa vào đường dây nội bộ thì việc tìm hiểu nguyên nhân vì sao các mức phí giao dịch luôn cao hơn lợi nhuận là một điều vô cùng khó khăn. Nếu có một đường dây thông tin chính xác và hiệu quả thì một nhà đầu tư hoàn toàn có thể khắc phục các khoản chi phí và đánh bại thị trường.

Có lần Shannon đã nói: "Anh biết đấy, các nhà kinh tế học mô tả thị trường hiệu quả là nơi mọi thứ đều cân bằng và không ai thật sự kiếm được tiền cả. Nếu có, đó chỉ là may mắn hoặc đại loại thế”. Còn tôi thì không tin vào điều đó một chút nào."

Shannon đã được nếm trải qua thành công đầu tiên của mình trong việc đánh bại thị trường. Điều này đối với dân trong ngành mua bán cổ phiếu không có gì xa lạ cả nhưng đối với dư luận xã hội, đó là một đề tài nóng hổi.

--0O0---—

Năm 1954, Charles William Harrison, một nhà khoa học mà Shannon quen biết ở Phòng Thí nghiệm Bell, mở công ty riêng. Harrison Laboratories sản xuất thiết bị cung cấp điện cho một ngành kinh doanh mới đầy hứa hẹn là ti vi màu. Shannon đã mua một khối lượng kha khá cổ phiếu của công ty. Ngày nay, ít ai còn nghe nói đến Harrison Labs vì năm 1962, Hewlett-Packard đã mua lại công ty này. Giá cổ phiếu tăng vọt và Shannon nhượng được rất nhiều cổ phiếu của Hewlett-Packard trong thương vụ này. Quy mô lợi nhuận trên giấy đã thuyết phục ông rằng thật sự có thể kiếm ra tiền từ cổ phiếu.

Kinh nghiệm trong thương vụ Harrison khiến Shannon có nhiều ý tưởng hơn khi một người bạn khác của ông, Henry Singleton, tuyên bố thành lập công ty riêng. Singleton và Shannon là bạn thân với nhau từ hồi còn làm việc tại MIT. Họ thường cùng nhau chơi cờ. Có một khoảng thời gian, Singleton sống ở Greenwich Village gần phòng thí nghiệm Bell. Sau đó, ông đi đến miền Tây làm việc trong ngành công nghiệp quốc phòng đang bùng nổ. Năm 1960, Singleton và Kozmetsky thành lập Teledyne, một công ty xây dựng của quân đội chuyên cung cấp hệ thống hàng hải kỹ thuật số cho thiết bị tĩnh tương tự Lầu Năm Góc. Lúc đầu, Shannon mua vài ngàn cổ phiếu với giá chỉ 1 đô la cho mỗi cổ phiếu. Trong những năm 1960, cổ phiếu này là một trong những loại mà ai cũng muốn sở hữu. Năm 1967, nó đạt mức 24 đô la.

Khi giá cổ phiếu công ty tăng vọt lên, Singleton đã sử dụng giá trị thị trường bị thổi phồng lên để mua lại các công ty khác. Ông mua lại khoảng 130 công ty. Teledyne trở thành chủ sở hữu của các công ty bảo hiểm, các giếng dầu ngoài khơi và nhà sản xuất các loại dụng cụ vệ sinh răng miệng, Water Pik.

Năm 1962, một nhóm thành viên MIT thành lập Codex Corporation, công ty chuyên cung cấp kỹ thuật mã hóa cho quân đội. Shannon mua cổ phiếu của Codex. Codex tung ra thị trường mẫu mođem đầu tiên cho các loại máy tính trung ương (với 9,600 bốt, trị giá 23.000 đô la). Có rất ít doanh nghiệp có khả năng sử dụng chúng vì cài đặt mô-đem của bên thứ ba vào hệ thống dây điện thoại của AT&T là bất hợp pháp. Năm 1967, ủy Ban truyền thông liên bang (FCC) bãi bỏ thế độc quyền trong cung cấp thiết bị của AT&T và công việc kinh doanh mô-đem của Codex phất lên từ đấy. Sự kiện Codex sáp nhập với Motorola một lần nữa là minh chứng cho sự thành công của Shannon.

Ba sự lựa chọn khôn ngoan nêu trên không phải là những đề nghị trong lĩnh vực công nghệ mới mà Shannon đã mua. Nhiều quyết định của Shannon đã thất bại. ít nhất, đã có một trường hợp, họ đã bán ra quá sớm. Họ mua cổ phiếu của Xerox và bán đi khi thấy có lời, việc này khiến họ mất đi một khoản lợi nhuận lớn hơn rất nhiều mà lẽ ra họ sẽ thu được nếu biết chờ đợi.

Thời gian đầu, khi mới trở thành nhà đầu tư thực thụ, Shannon cố tìm cách thực hiện các bước tính toán thời gian của thị trường.

Vào một ngày của năm 1963 hay là 1964 gì đó, Shannon cảnh báo với Elwyn Berlekamp rằng lúc này không thích hợp để mua cổ phiếu. Như nhiều sinh viên đã tốt nghiệp khác, Berlekamp luôn có sẵn tiền trong túi. Khi Berlekamp lịch sự hỏi vì sao, Shannon giải thích rằng ông vừa phát minh ra một thiết bị điện tử mô phỏng lại dòng vốn chảy ra và chảy vào thị trường chứng khoán.

Điều này có vẻ giống như một quỹ đạo tương tự quỹ đạo quả bóng Kelly (những người tôi từng tiếp xúc đều không nhớ chính xác quỹ đạo của Kelly hay của Shannon xuất hiện trước.) Một trong những bài toán của thị trường là giá cổ phiếu rất dễ thay đổi so với thu nhập doanh nghiệp. Nó thường được cho là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng phản âm là những tiếng rít đinh tai nhức óc phát ra từ micro của ngài hiệu trưởng trong khán phòng trường trung học. Khi người ta đổ tiền đầu tư vào thị trường chứng khoán, áp lực mua sẽ khiến giá cả tăng cao. Những người từng kiếm ra tiền từ thị trường đều thừa nhận điều này. Và ngay cả lòng ghen tị cũng tác động đến quyết định mua cổ phiếu của nhiều người. Điều này duy trì một phản hồi tích cực trong khá lâu.

Giá cả cũng không thể tăng mãi được, và càng không thể khi thu nhập không tăng nhanh. Cũng có nhiều trường hợp, tin tức xấu làm nổ ra trạng thái bán hỗn loạn (một dạng phản hồi tiêu cực). Tin tức "xấu" không phải bao giờ cũng xấu cả. Nó chỉ là một chất xúc tác, một mũi kim làm nổ tung quá bong bóng. Hiển nhiên Shannon đã biết cách điều chỉnh các dữ liệu ghi nhận về qũy đạo điện tử của mình để hợp với nhiều vòng chảy quỹ đầu tư. Ông đã kết luận rằng thị trường sửa sai quá chậm.

Và rồi, thị trường lại rơi vào tình trạng đầu cơ tồn tại từ năm 1965. Sự kiện này kéo theo mức sụt giảm 13% của S&P 500 trong niên lịch 1966. Không phải phương pháp tính thời gian, cũng không phải bởi các nguồn cung cấp chậm trễ hiện hữu trong phương sách của Shannon.

Trong một lần thăm nhà Shannon, Ed Thorp nhìn thấy một phương trình ghi trên bảng:

2 11 = 2048

Thorp hỏi phương trình ấy ám chỉ điều gì. Cả Claude và Betty đều im lặng. Sau một khoảng thời gian do dự, họ lý giải rằng họ đang buôn bán những loại cổ phiếu vừa mới được phát hành. Và cứ mỗi tháng, túi tiền của họ lại tăng lên gấp đôi. Họ đang tính toán xem mình sẽ có được bao nhiêu tiền. Cứ mỗi một đô la đầu tư lại mang về 2.048 đô la sau khi được lũy thừa lên 11 lần.