← Quay lại trang sách

Đánh cược bằng niềm tin của mình

Bài xì dách đã không còn mang lại lợi lộc cũng như niềm vui thích cho Ed Thorp như ngày nào nữa. Ông nói: "Tôi nhận ra rằng nếu như mình tiếp tục theo đuổi nó, không sớm thì muộn, Nevada cũng xảy ra nhiều cuộc bạo loạn không hay." Năm 1964, ông quyết định tập trung tài năng của mình vào sòng bài lớn nhất trong mọi sòng bài: đó là thị trường chứng khoán.

Thorp đã kiếm được khoảng 25.000 đô la từ tiền thắng bài xì dách cộng thêm một khoản tiết kiệm 15.000 đô la khác, chủ yếu là từ tiền bản quyền tác giả. Trong suốt hai kỳ nghỉ hè của các năm 1964 và 1965, ông đã tự học về thị trường chứng khoán một cách có hệ thống. Một trong những cuốn sách ông đọc là Tính ngẫu nhiên của giá cả trong thị trường chứng khoán (The Random Character of Stock Market Prices) của Paul Cootner (1964). Cuốn sách do nhà xuất bản MIT phát hành và được tổng hợp thêm từ nhiều bài báo chuyên sâu về mô hình đường đi ngẫu nhiên.

Thorp đọc được một bài báo nói nhiều người đang mua bạc. Và cầu đã vượt quá cung trong một thời gian dài. Và người ta nấu chảy hoặc tái chế các loại trang sức vàng, bạc lại để bù đắp cho khoảng chênh lệch ấy. Những cửa hàng kinh doanh bạc tái chế làm ăn không hiệu quả.

Sử dụng nguồn tiền tiết kiệm của mình, Thorp mua một ít bạc với giá 1,30 đô la một ounce. Sau đó nó tăng lên đến khoảng 2 đô la. Ngay lập tức, ông mua thêm nhiều bạc nữa (bằng số tiền vay mượn). Bạc rớt giá. Thorp không thể trả các khoản nợ và thua lỗ hết 6.000 đô la, một con số khiến ông lao đao khi đó. Ông nói: "Tôi đã trả giá quá đắt cho một bài học." Bài học đó chính là: bạn thường không tận dụng được chút ưu thế nào từ các tin tức được đăng.

Hai nhà đầu tư đến từ Texas bắt liên lạc với Thorp. Họ đã nghe người ta nói nhiều về ông cũng như khả năng chơi xì dách của ông. Họ nhận mình là những chuyên gia trong việc lựa chọn các loại cổ phiếu bảo hiểm nhân thọ và muốn dò ý xem Thorp có đồng ý giúp đỡ họ không. Thorp gặp mặt hai nhà đầu tư ở Dallas. Ông cũng học qua về ngành bảo hiểm nhân thọ và đủ tự tin bỏ tiền túi đầu tư vào những công ty mà hai nhà đầu tư giới thiệu, cổ phiếu "ngay lập tức rớt giá thê thảm". Những gì Thorp rút kinh nghiệm được chính là ông đã sai lầm khi nhận lấy một nhát dao từ cặp đôi ấy như quà tặng dành cho mình.

Trở lại Las Cruces, New Mexico, Thorp hành động như những nhà đầu tư nhỏ khác. Ông xem xét những mẩu quảng cáo dạy cách "làm giàu nhanh" trên các tờ tạp chí tài chính. Có hàng trăm hệ thống thị trường chứng khoán được chào bán. Và một mẩu quảng cáo của Barron đã lọt vào mắt của ông. Nó quảng cáo cho một công ty có tên RHM Warrant Service.

Dịch vụ mà Samuelson tham gia vào vẫn còn đang hoạt động. Công ty được điều hành bởi một người tên là Sidney Fried, người đã từng tuyên bố rằng, việc mua các loại chứng quyền chỉ với vài xu và bán lại với trị giá nhiều đô la là điều hoàn toàn có thể thực hiện được. Thorp viết thư đặt mua cuốn sách.

Khi đọc cuốn sách, ông chỉ tập trung tìm ra đâu là nhân tố ảnh hưởng đến giá cả của các loại chứng quyền. "Sau khoảng một giờ phác thảo trên giấy nháp, tôi nhận ra rằng không còn nghi ngờ gì nữa, cách thức xác định giá của những thứ này thật rất đơn giản".

Chứng quyền là quyền chọn cổ phiếu được giao dịch rộng rãi nhất vào thời đó. Một trong những loại chứng quyền mà Thorp bắt đầu theo đuổi được phát hành bởi công ty Sperry Rand, công ty đi tiên phong trong việc sản xuất hàng loạt các loại máy tính điện tử. Ngày 17 tháng Ba năm 1958, Sperry Rand phát hành một loại chứng quyền cho phép chủ sở hữu chứng quyền đó mua một cổ phiếu của Sperry Rand với giá 25 đô la ("giá điểm"). Chứng quyền hết hiệu lực vào ngày 16 tháng Chín năm 1963, nghĩa là sau ngày đó, mọi giao dịch đều chấm dứt và tờ chứng quyền không còn giá trị gì.

Vậy đâu là mức giá công bằng cho chứng quyền? Chứng quyền ngay lập tức trở nên có giá khi và chỉ khi cổ phiếu Sperry Rand được giao dịch tại mức giá cao hơn 25 đô la một cổ phiếu. Như vậy, nếu bán cổ phiếu Sperry Rand với giá 29 đô la thì chứng quyền trị giá ít nhất là 4 đô la vì với chứng quyền trong tay, bạn có thể mua cổ phiếu Sperry Rand tại mức giá khởi điểm với 4 đô la đã được khấu trừ.

Điều đó không có nghĩa là chứng quyền sẽ trở nên vô giá trị nếu Sperry Rand được bán với giá dưới 25 đô la. Bạn vẫn có thể bán chứng quyền cho những ai tin tưởng rằng giá cổ phiếu sẽ lên cao hơn mức giá điểm trước khi hết hiệu lực.

Giá chứng quyền được đăng trên báo, cũng giống như người ta đăng tỷ lệ chấp của người tham gia trong các cuộc đua ngựa. Những người định giá chứng quyền đều có chung một tính cách gan góc. Khi nói rằng chứng quyền trị giá như thế này hoặc như thế kia, về bản chất, bạn đang đưa ra một tỷ lệ cược rằng giá cổ phiếu sẽ tăng vượt giá điểm trước khi hết hiệu lực. Xa hơn thế, bạn có thể dự đoán rằng mức tăng này là bao nhiêu. Đó là một việc làm không hề đơn giản. Giá chứng quyền phải phản ánh được toàn cảnh của thị trường, ví dụ như sự thất bại trong việc tung ra sản phẩm mới, phán quyết của một phiên tòa hay một vị điều hành cấp cao của một công ty bán ra một khối lượng lớn cổ phiếu để trả cho Matisse. Một con bướm khi vỗ cánh lại tạo ra một cơn bão làm đắm con tàu chở những quan chức cấp cao của Sperry, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến giá cổ phiếu. Ai có thể đoán trước được một cách có hệ thống những chuyện bất ngờ như thế chứ?

Về sau, Thorp có nghĩ đến mô hình đường đi ngẫu nhiên và thừa nhận rằng không có cách nào để dự đoán những sự kiện có thể làm thay đổi giá cổ phiếu. Và chính điều đó khiến cho việc mua một cổ phiếu cũng giống như việc chơi một canh bạc với đường đi ngẫu nhiên. Thorp biết rằng có những phương pháp có thể tính toán chính xác quy luật phân phối xác suất của mô hình đường đi ngẫu nhiên. Chúng tùy thuộc vào kích thước trung bình của những chuyển động ngẫu nhiên mà trong trường hợp này là mức dao động giá cổ phiếu lên hay xuống trong ngày.

Thorp làm một vài phép tính. Ông nhận ra hầu như tất cả chứng quyền đều được định giá như các trò chơi trong lễ hội hóa trang. Nếu xét việc bạn sẽ nhận được bao nhiêu khi thắng cuộc và cơ hội dành thắng lợi là bao nhiêu thì rõ ràng là, cái giá như thế là quá đắt. Điều này đặc biệt đúng đối với các loại chứng quyền có hiệu lực trong một vài năm. Vào thời ấy, các nhà đầu tư tỏ ra quá lạc quan vào viễn cảnh tăng giá của cổ phiếu.

Bạn không thể làm gì để thay đổi được trò chơi quá tốn kém trong lễ hội cả trừ khi bạn không đặt cược. Nhưng khi bạn biết mình mua được một chứng quyền với cái giá quá đắt thì hãy bán nó ngay. Khi đó, bạn sẽ chủ động giảm được rủi ro không mong muốn.

Một nhà đầu tư theo kiểu bán khống 10 là một người chuyên bán cổ phiếu mà anh ta chưa thật sự làm chủ. Người kinh doanh này mượn cổ phiếu từ một bên thứ ba rồi bán ra ngay theo giá trong ngày. Anh ta đồng ý hoàn trả lại cùng một lượng cổ phiếu như thế cho bên thứ ba đó trong một ngày gần nhất. Nhà đầu tư này luôn hy vọng giá cổ phiếu sẽ giảm trong khi chờ đợi. Rồi sau đó anh ta sẽ mua được cùng một lượng cổ phiếu ấy với giá rẻ hơn khi anh ta bán chúng đi.

Việc bán khống cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro không mong muốn. Khi cổ phiếu một công ty tăng thì giá chứng quyền cũng theo đó mà tăng. Trên lý thuyết, không có một giới hạn nào cho mức tăng của giá cổ phiếu hay chứng quyền. Điều này cũng có nghĩa rằng, ở đây không có giới hạn cho khoản thua lỗ của nhà đầu tư theo phương pháp này.

Hãy so sánh phương pháp này với tình huống thường gặp hơn là mua cổ phiếu hay chứng quyền "dài hạn". Khi kinh doanh bằng phương pháp này, bạn không thể thua nhiều hơn số tiền mà bạn mua chúng. Đó là viễn cảnh đủ đau đớn rồi nhưng ít ra, khoản lỗ đã được tính toán trước. Người kinh doanh theo kiểu bán khống là người có trách nhiệm pháp lý cho các khoản lỗ vô tận.

Có một phương pháp truyền thống nhằm giảm thiểu rủi ro. Đó là hãy mua và bán gần như cùng một loại và lượng cổ phiếu trong cùng một thời gian. Jay Gould đã mua vàng "hạ giá" và bán ngay khi nó "lên giá". Gould không cần biết mức giá nào là "chính xác" cũng như không cần quan tâm những từ ngữ ấy có nghĩa là gì. Anh ta cũng không cần phải dự đoán khi nào giá vàng lên hay hạ xuống. Bằng cách mua đi bán lại ngay, thực tế Gould đã loại trừ tất cả rủi ro của việc nắm giữ vàng. Anh ta đã biến sự chênh lệch giá có phần phi lý ấy thành một khoản lợi nhuận trong tầm tay.

Hầu hết các dạng mua đi bán lại cổ phiếu đều mô phỏng theo mô hình của Gould. Một người kinh doanh theo kiểu này mua một cổ phiếu giá thấp và ngay lập tức bán ra một cổ phiếu tương thích đang lên giá. Chữ "cổ phiếu tương thích" ở đây có nghĩa là loại cổ phiếu mà giá của nó phải tăng hoặc giảm ngay sau khi bán loại cổ phiếu ban đầu đi. Còn áp dụng cho trường hợp của chứng quyền hay quyền mua cổ phiếu thì "tương thích" muốn ám chỉ chính cổ phiếu của công ty đó.

Kiểu kinh doanh này thoạt đầu nghe có vẻ dễ nhầm lẫn. Nó giống hệ thống "Đặt cược bằng niềm tin" của Kelly áp dụng trong đua ngựa. Trong một cuộc đua chỉ có hai con ngựa, một con phải là con thắng cuộc còn con còn lại phải là con thua cuộc. Vì sự tương quan hiển nhiên này, hoàn toàn có thể loại bỏ những rủi ro thông thường khi cá cược. Hãy cược cho cả hai con, bạn sẽ không bao giờ thua.

Giá trị của quyền chọn cổ phiếu hay chứng quyền tăng khi giá của cổ phiếu tương ứng cũng tăng. Bằng việc mua cổ phiếu và bán đi quyền mua cổ phiếu, bạn sẽ tạo ra một "cuộc đua ngựa" mà một bên của cuộc giao dịch buộc phải thắng còn bên còn lại buộc phải thua. Và nếu bạn biết được lợi thế "đích thực" rõ hơn những người khác và sử dụng niềm tin của mình để điều chỉnh khoản cược của mình, bạn có thể nghĩ đến một khoản lợi nhuận.

Có thể thấy rằng các giao dịch bán khống hoặc dài hạn đều là mô hình Kelly tối ưu, cho dù chúng được sử dụng trong thị trường chứng khoán khá lâu trước thời Kelly. Phát minh của Thorp chính là cách thức tính toán chính xác việc ông cần phải mua bao nhiêu cổ phiếu để bù đắp cho nguy cơ thua lỗ khi bán không chứng quyền. Ngày nay, kỹ thuật này được gọi là "chống rủi ro delta" xuất phát từ ký tự Hy Lạp sử dụng để tượng trưng cho thay đổi về lượng.

Trong kỹ thuật "chống rủi ro delta" này, lợi nhuận (hay mức lỗ) trên giấy tờ theo bất cứ thay đổi nhỏ nào về giá của cổ phiếu được bù đắp bằng thay đổi về giá của chứng quyền. Bạn sẽ kiếm được tiền khi cái giá "phi lý" của chứng quyền đi song hành với giá cổ phiếu.

John Maynard Keynes nổi tiếng với lời nhận định rằng thị trường có thể duy trì sự phi lý lâu hơn khả năng thanh toán của bạn. Cũng không tốt lành gì mấy khi bạn mua một thứ gì đó với giá trên trời trừ khi bạn chắc chắn rằng mình có thể bán nó lại với một mức giá "phải chăng" và thu lợi. Bạn cũng nên biết khi nào tất cả những người "phi lý" khác nhận ra vấn đề là đồng ý với cách làm của bạn.

Đó chính là cái hay của phương pháp Thorp. Thị trường không thể cứ khăng khăng mãi với cách đánh giá phi lý lên các chứng quyền như thế. Vào ngày hết hiệu lực, chứng quyền trở nên "ẻo lả" và đi cùng là các ý niệm phi lý về giá trị của nó.

Những ai nắm giữ chứng quyền cho đến ngày kết thúc chua chát đều hoặc là (a) trắng tay nếu cổ phiếu được bán với giá thấp hơn giá điểm của chứng quyền, hoặc (b) thu lợi nhuận tức thì nếu cổ phiếu được bán với giá cao hơn. Bất cứ quan điểm phi lý nào về giá trị của chứng quyền đều trở thành ký ức. (Bản thân cổ phiếu có được định giá cao một cách phi lý không? Ai mà biết được? Nhưng đó là chuyện ngoài lề.)