← Quay lại trang sách

Đánh bại thị trường

Mùa hè năm 1964 đã làm thay đổi cuộc sống của Thorp. Nguồn trợ cấp cho công việc của ông tại New Mexico đã cạn kiệt. Tình trạng này giống như khoa Toán đang rơi vào tay "một bè lũ các nhà lý luận". Thorp bắt đầu tìm công việc khác. Đại học California đang khánh thành một ngôi trường mới tại Irvine thuộc Quận Cam. Cả Ed và Vivian đều có những ký ức ngọt ngào về vùng Nam California nên Thorp đã phỏng vấn tìm việc ở nơi này. Ông nhận được một lời mời và đã chấp nhận nó.

Vào ngày làm việc đầu tiên của mình ở Đại học California, Irvine, ông nói về sự quan tâm của mình đối với các loại chứng quyền cho Julian Feldman, chủ nhiệm khoa khoa học máy tính. Feldman nói, ồ, chúng tôi cũng có một người đang làm công việc tương tự.

Ông ta đang nói đến một nhà kinh tế học tên Sheen Kassouf. Kassouf đã viết trong luận án tiến sĩ của mình tại Đại học Columbia rằng bằng cách nào có thể xác định một mức giá hợp lý cho chứng quyền. Kassouf vẫn chưa tìm ra câu trả lời thỏa đáng, nhưng ông cũng đã nắm bắt được bản chất thực tế của vấn đề. Ông đã và đang kinh doanh chứng quyền.

Feldman giới thiệu Thorp đến gặp Kassouf. Họ cùng nhau tổ chức một buổi hội thảo chuyên đề hàng tuần về vấn đề này. Không có sinh viên tham dự, vậy là Thorp, Kassouf gặp nhau hằng tuần chỉ đơn giản là cùng nghiên cứu để làm giàu.

Throp cũng bắt đầu kinh doanh chứng quyền. Hệ thống chống rủi ro của ông đã hoạt động như ông hy vọng. Vào năm 1967, Thorp đã phù phép 40.000 đô la đầu tiên của mình thành 100.000 đô la.

Tuy nhiên, hệ thống ấy không phải là không có khiếm khuyết. Bên ngoài không có nhiều loại chứng quyền được giao dịch nên trên thị trường rất khó quy đổi tiền mặt. Những ai bán khống quá nhiều chứng quyền cùng một lúc sẽ thấy rất khó mua lại chúng khi cần. Nhu cầu "ảo" được chính các cuộc giao dịch dựng nên và có thể kéo giá chứng quyền lên cao. Điều đó không hay chút nào vì Thorp đã cược là giá chứng quyền sẽ xuống thấp.

Phương pháp "chống rủi ro Delta" chỉ có thể bảo vệ người tham gia tránh khỏi những thay đổi nhỏ của giá cổ phiếu. Nếu giá cổ phiếu biến động lớn thì cần thiết phải điều chỉnh lại việc mua hay bán cổ phiếu hoặc chứng quyền. Điều này có nghĩa nhà giao dịch cần theo dõi giá cổ phiếu và chứng quyền một cách sát sao.

Có nhiều lúc công ty thay đổi những điều khoản trong chứng quyền và có thể điều đó sẽ trở thành một thảm họa trong kinh doanh. Vì lý do này hay lý do khác, không phải giao dịch chứng quyền nào cũng mang lại lợi nhuận. Không như những nhà kinh doanh trẻ tuổi khác, Thorp luôn hiểu rõ khái niệm phá sản là gì. Ông có thể phỏng tính cơ hội thu lợi của mình và dùng công thức Kelly để chắc chắn rằng ông không đổ quá nhiều tiền vào một vụ làm ăn.

-0O0-

Cuối năm 1965, Thorp được xét phong hàm giáo sư tại Đại học California, Irvine. Ông viết cho Shannon - một lá thư tiến cử. Trong thư, ông ghi như sau:

Sau nhiều lần khởi đầu thất bại, cuối cùng tôi cũng tìm được quặng mỏ của mình trong thị trường chứng khoán. Tôi đã xây dựng nên một mô hình toán học hoàn hảo cho một lĩnh vực nhỏ (mặc dù con số epxilon nhân với vô cùng không nhỏ chút nào) của thị trường chứng khoán. Tôi có thể chứng minh rằng khi áp dụng mô hình, lợi nhuận dự đoán là 33% mỗi năm, và những giả định dựa trên kinh nghiệm của mô hình có thể thay đổi trong phạm vi rộng (hơn hẳn những tuyên bố với thái độ hoài nghi) mà không ảnh hưởng nhiều đến kết quả. Những số liệu ghi chép đã chứng thực cho con số 33%. Điều này thừa nhận rằng tôi đã nghiên cứu kỹ các danh mục đầu tư của mình trong từng năm. Với sự tập trung liên tục cho danh mục đầu tư, tỉ lệ lợi nhuận thu được có thể vượt mức 50% một năm. Nhưng tôi vẫn chưa kết thúc nghiên cứu các chi tiết, nên ngay thời điểm hiện tại, con số mà tôi chắc chắn thấp hơn đôi chút. Một tỉ lệ lớn các khoản đầu tư khiêm tốn của tôi chỉ được thực hiện trong vài ba tháng. Có lần chúng tôi đã "thiết lập" một mục tiêu là tăng gấp đôi nguồn vốn ban đầu sau mỗi hai năm. Và giờ đây, điều này không còn xa nữa.

Trong khi con số 33% rất lạc quan, Thorp lại muốn đánh bại lợi nhuận của thị trường. Ngoài lề của lá thư này, ông đã vẽ một mũi tên hướng thẳng đến cụm từ "thị trường chứng khoán" và thêm vào đó một câu hỏi "Anh sẽ vẫn tấn công nó chứ? Và anh đã chuẩn bị những gì?"

Paul Samuelson đã tạo ra khái niệm "PQ" hay là chỉ số hiệu quả. Cũng giống như IQ, chỉ số này được dùng để đánh giá khả năng quản lý danh mục đầu tư. Chỉ số PQ khoảng 100 là mức trung bình. Và câu hỏi đặt ra là có ai có chỉ số PQ cao hơn 100 không?

Samuelson lý luận rằng, nếu tồn tại những người như thế thì họ có thể là tất cả mọi người ngoại trừ những kẻ vô hình. Bạn sẽ không thể tìm thấy một người như thế làm việc trong các ngân hàng đầu tư hay tổ chức Ford Foundation. Samuelson viết: "Họ có chỉ số PQ quá cao nên không thể thích hợp cho những công việc như vậy. Cũng giống như những tay chuyên rình mò mách nước cá ngựa, họ sẽ phải chia sẻ (tài năng của mình) để đổi lấy một cái giá với những người giàu có luôn hưởng lợi nhiều nhất trong chuyện này."

Samuelson kết luận rằng chỉ số PQ cao thường có được do rón rén, dò dè, do đầu tư bằng tiền của bản thân hay của bạn bè. Họ sẽ giữ "hệ thống" cho riêng mình. Bằng không, thị trường hiệu quả sẽ sao chép những gì họ làm được và vô hiệu hóa lợi thế của hệ thống,

Trong nhiều năm, Thorp chính là hình mẫu của một nhà kinh doanh có chỉ số PQ cao. Ông lặng lẽ vận hành phương pháp kinh doanh chứng quyền của mình, đầu tư bằng tiền của bản thân và của những người thân thuộc nài nỉ ông đầu tư giùm họ. Không lâu sau, ông đã đầu tư hơn một triệu đô la từ tiền của bạn bè mình.

Sau đó, Thorp đã làm được chuyện mà Samuelson nói là sẽ không thể xảy ra. Ông nói với Kassouf rằng họ tiết lộ phương pháp đầu tư cho thế giới. Thorp đang xem xét hai bước đi có tính toán cho tương lai. Ông đang suy nghĩ đến cách quản lý tiền chuyên nghiệp. Thorp nhớ lại, bằng cách viết sách về phương pháp quản lý rủi ro chứng quyền: "chúng tôi đã có được một con dấu chứng thực chắc chắn giúp cho quá trình gây quỹ đầu tư thuận lợi hơn nhiều." Thorp cảm thấy rằng ông đang có một dòng chảy ý tưởng sinh lợi ổn định khiến ông có thể từ bỏ phương pháp quản lý rủi ro chứng quyền, cũng giống như khi ông từ bỏ phương pháp chơi xì dách.

Kassouf cũng ưng thuận. Họ nhận được tiền ứng trước cho cuốn sách là 50.000 đô la. Đối với Kassouf, món tiền ấy quả thật "đáng kinh ngạc". Số tiền ấy gấp năm lần tiền lương hàng năm của ông ta.

Cuốn sách mang tên ‘'Đánh bại thị trường” (Beat the Market - 1967). Nó mô tả phiên bản tóm lược của phương pháp "quản lý rủi ro chứng quyền" cho các nhà đầu tư nhỏ. Vào thời đó, không ai có máy vi tính ở nhà cả. Những loại chứng quyền được định giá quá cao chỉ có thể xác định được bằng cách vẽ biểu đồ trên giấy mà thôi.

Cuốn sách chính là phần thảo luận đầu tiên được in ra của phương pháp chống rủi ro delta. Tuy nhiên, cũng như hàng trăm cuốn sách khác đưa ra lời khuyên cho các nhà đầu tư nhỏ được xuất bản hàng năm, nó không nhận được nhiều quan tâm từ giới học thuật.

Có một ngoại lệ chính là con người tích cực Paul Samuelson. Ông xem qua nội dung sơ lược của cuốn sách trên tờ Journal of American Statistical Association. Samuelson bắt đầu không chút cảm hứng: "Cũng giống như các nhà thiên văn học căm ghét thiên văn học, các nhà khoa học đúng là đã căm ghét việc đại chúng hóa phương pháp của họ và những khẳng định sai lệch của những người đại diện cho giới khoa học." Mặc dù đồng ý rằng sẽ có một bộ phận nhỏ các độc giả sẽ kiếm tiền thành công nhờ phương pháp ấy, nhưng Samuelson cũng sợ rằng nó sẽ đòi hỏi quá nhiều việc cần làm cũng như tính phức tạp của các công việc đó để thỏa mãn đông đảo độc giả, những người không hề nghi ngờ gì phương pháp làm giàu nhanh này. Samuelson chê bai: "Tổ chức Quản lý vệ sinh thực phẩm và thuốc men sẽ cấm các tác giả đưa ra những khẳng định gây nhầm lẫn hoặc ít nhất sẽ yêu cầu họ phải rút lại bản in của mình, cho nên, cũng có thể nói, những cảnh báo sẽ khiến họ hiểu biết hơn."

---—0O0---

Thorp và Kassouf bàn luận về ý tưởng thành lập một công ty đầu tư. Kassouf đưa ra một đề xuất lập hội đồng quản trị bao gồm Thorp, Kassouf và em trai của Kassouf. Thorp lo ngại rằng điều đó sẽ làm thay đổi sự cân bằng quyền lực, nghiêng theo hướng có lợi cho anh em Kassouf. Và cũng có sự khác biệt trong quan điểm. Kassouf tin rằng thỉnh thoảng ông có thể dự đoán đường hướng thay đổi của cổ phiếu. Kassouf sẵn sàng mua vào cổ phiếu mà ông cho là sẽ lên giá và bán ngay những cổ phiếu có khả năng mất giá. Thorp thì không. Ông không bị thuyết phục rằng Kassouf hay bất kỳ ai khác có khả năng dự đoán thị trường theo cách ấy. Như Thorp đã nói với tôi "Chúng tôi có sự khác biệt về mức độ liều lĩnh khi thực hiện những gì mình muốn trên thị trường. Tôi không bao giờ liều lĩnh."

Thorp muốn xây dựng một công ty đầu tư dựa trên nền tảng một thị trường trung lập, có nghĩa là lợi nhuận thu được sẽ không lệ thuộc vào những biến động trên thị trường chứng khoán. Dù sao chăng nữa, ý tưởng của ông vẫn là: một năm tồi tệ cho thị trường chứng khoán nhưng lại là một năm sáng sủa cho công ty, Bản thân ý tưởng ấy thật tuyệt vời. Nhà đầu tư lớn Thorp hy vọng rằng, đối với công ty, sự lôi cuốn sẽ phần nào thay thế được tiền bạc. Nếu Thorp chứng minh được hiệu quả hoạt động của công ty không có mối liên hệ nào với thị trường chứng khoán, thì những ai nắm giữ một khối lượng cổ phiếu lớn sẽ giảm thiểu được rủi ro khi đầu tư vào công ty.

Thorp yêu cầu luật sư tiến hành thủ tục thành lập công ty đầu tư. Vị luật sư nói với ông rằng ý tưởng đó thật không khả thi. Thorp phản đối và lý luận rằng, Warm Buffett cũng có một công ty đầu tư như thế. Chính quyền bang có quá nhiều luật lệ khuyến khích thành lập loại hình hoạt động tự do mà Thorp đang ấp ủ.

Vị luật sư đòi tiền công cho 20 giờ làm việc của mình, nghĩa là vào khoảng 2.000 đô la, chiếm một tỷ lệ tương đối so với tiền lương của Thorp. Thorp thương lượng một mức phí thấp hơn nhưng những gì xảy ra sau đó khiến ông vỡ mộng và trở nên nghèo đi.