← Quay lại trang sách

PHẦN 5: RICO Ivan Boesky

Việc Ivan Boesky là ai và là người như thế nào luôn luôn là một bí ẩn. Ông ta nói với mọi người rằng cha ông, một công dân nhập cư người Nga, đã quản lý một chuỗi cửa hàng bán các món ăn ngon ở Detroit. Thực ra, đây là chuỗi quán bar khiêu vũ có tên là Brass Rail và ông còn có một người chú quản lý cửa hàng bán đồ ăn này.

Thời trung học, một trong những người bạn thân nhất của Boesky là một sinh viên người Iran tên là Hushang Wekili học theo diện trao đổi giữa các trường. Sau khi theo học tại ba trường cao đẳng nhỏ và không mấy danh tiếng ở Michigan nhưng không tốt nghiệp trường nào, Boesky đến Iran. Sau đó Boesky đã dạy tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai cho những người Iran ở hãng thông tấn Hoa Kỳ. Hãng này cho rằng họ không hề có hồ sơ lưu về Boesky đã từng làm việc tại đây.

Sau khi tạm lưu trú ở Iran một thời gian, Boesky trở về Mỹ và ghi danh vào trường Cao đẳng luật Detroit - một trường luật cấp thấp. Năm năm sau, ông tốt nghiệp sau hai lần bỏ học. Không văn phòng luật nào muốn thuê ông. Và Ivan Boesky đã trở thành đối tác của cha mình trong chuỗi quán bar thoát y.

Vận may bắt đầu đến với Boesky khi ông cưới con gái của một gia đình giàu có. Bố vợ ông, Ben Sillberstein, là một nhà đầu tư bất động sản ở Detroit. Boesky đã nghe nói về việc người ta đã kiếm được hàng đống tiền ở Phố Wall. Và ông quyết định đó sẽ là cuộc đời của ông. Bố vợ của Boesky đã bắt đầu tạo dựng cho cặp vợ chồng mới cưới bằng một căn hộ tại một trong những tòa nhà cao cấp nhất ở Đại lộ Park.

Công việc chính của Boesky là buôn chứng khoán mạo hiểm. Khi công ty ABC muốn thôn tính công ty XYZ, rất nhiều cổ phiếu của ABC sẽ được đưa ra tương ứng cho mỗi cổ phiếu của XYZ, với việc thừa nhận vấn đề sáp nhập được thông qua. Đây là những điều kiện ưu ái cho các cổ đông của công ty XYZ bởi vì công ty ABC hi vọng những cổ đông này sẽ tán thành việc sáp nhập.

Như trên đã nêu, mỗi cổ phiếu của công ty XYZ sẽ đáng giá bằng X cổ phiếu của ABC nếu việc sáp nhập diễn ra. Tuy nhiên, giá cổ phiếu của hai công ty lại ít khi được trao đổi theo tỉ lệ này, bởi vì việc sáp nhập có diễn ra hay không thường không được chắc chắn. Sự sáp nhập có thể bị gây trở ngại không chỉ bởi các cổ đông mà còn có thể là bởi chính phủ hoặc do sự suy đi tính lại trong vấn đề quản lý.

Một ai đó với ý nghĩ việc sáp nhập sẽ được thông qua có thể mua cổ phiếu XYZ và bất chợt bán cố phiếu ABC nhằm đảm bảo lợi nhuận khi việc sáp nhập diễn ra. Robert C. Merton đã làm như vậy trong vụ sáp nhập Siger - Friden vào năm 1963. Điều này chẳng khác gì một vụ cá cược thể thao cho cuộc sáp nhập. Việc đặt cược này có thể làm đòn bẩy cho cơ hội kiếm được một khoản tiền nhiều hơn.

Điều này được gọi là kinh doanh chứng khoán mạo hiểm vì bất cứ ai thực hiện việc này cũng đang chấp nhận rủi ro mất tiền nếu cuộc sáp nhập thất bại. Vụ thử nghiệm đầu tiên của Boesky trong việc kinh doanh chứng khoán diễn ra tại một công ty tên là Kalb Voorhis. Trong một vụ giao dịch, ông đã làm thua lỗ 20.000 đô la của công ty và bị sa thải.

Sau vài vụ khởi đầu sai lầm khác, Boesky quyết định đây là thời điểm để ông bắt đầu mở công ty của mình. Ông đã cho đăng một mẩu quảng cáo trên tờ The Wall Street Journal để thăm dò các khoản lợi nhuận dị thường mà kinh doanh chứng khoán mang lại.

Các công ty đầu tư tư nhân không quảng cáo theo cách thông thường, bằng cách này hay cách khác họ phải sử dụng đến phương thức tiếp cận trực tiếp (việc Thorp và Regan có những số điện thoại không bao giờ được công bố của các đối tác là một ví dụ điển hình). Mặc dù những thành tích trong công việc không mấy ấn tượng, Boesky vẫn ra giá 45% lợi nhuận của công ty nào sử dụng dịch vụ của ông ta. Trong trường hợp Boesky bị thất bại thì các nhà đầu tư sẽ phải chịu 95% số tiền thua lỗ này. Những khoản chi phí cắt cổ này có thể làm bất kỳ nhà đầu tư nhạy cảm nào phải lùi bước. Năm 1975, công ty của Ivan F. Boesky đi vào hoạt động nhờ vào tiền của gia đình Silberstein.

Boesky thường gọi một cái bánh sừng bò cho bữa sáng, đập dập vào nó vài lần rồi ăn ngấu nghiên cho đến mẩu vụn cuối cùng. Có một lần bị nhân viên của mình bắt gặp đang ngoạm một miếng hơi to, Boesky đã tự chửi rủa "Ivan! Mày đúng là đồ con lợn!"

"Piggy" là biệt danh của Boesky ở phố Wall. Nó ám chỉ sự khao khát của ông đối với những vị trí lớn lao, lực đòn bẩy tài chính và kinh doanh mạo hiểm. Một khi tin tưởng rằng khả năng diễn ra sáp nhập là rất cao, Boesky đã sử dụng đòn bẩy tài chính để gia tăng mức lợi nhuận mà ông đã ước đoán trước. Vậy cần bao nhiêu lực đòn bẩy để làm được điều này? "Mức tối đa được pháp luật quy định" - đó là ý kiến của Boesky Corp.

Cục dữ trữ Liên bang cho phép sử dụng công cụ đòn bẩy 11 theo tỷ lệ 2:1 trong những vụ giao dịch chứng khoán theo kiểu "bán lẻ". Nhưng các nhà đầu tư tư nhân vẫn có thể tự thiết lập nên tỷ lệ của mình, giống Boesky đã làm. Khi được một nhà báo của tạp chí Fortune hỏi về việc có lời đồn đại cho rằng Boesky đã vi phạm những thỏa thuận về tiền nợ đối với những người hắn cho vay tiền, Boesky đáp lại "Không hoàn toàn là như vậy." Khi đem đối chứng với một vài vụ việc, hắn đảm bảo rằng "Về nguyên tắc, chúng tôi luôn tuân theo những thỏa thuận đã đề ra."

——- —oOo-—

Năm 1984, Tập đoàn Boesky công bố tỷ lệ 9:1. Tỷ lệ này có thể áp dụng được thông qua một kỹ thuật mà lúc bấy giờ gọi là "xoay vòng". Nó giống như việc chúng ta mua một chiếc váy mà mình hằng mơ ước, mặc vào và đi đến dự một bữa tiệc, rồi đem trả lại cho cửa hàng vào ngày hôm sau. Thay vì một cái váy đi dự tiệc, Boesky đồng thời mua và bán một lượng cổ phiếu bằng nhau. Mỗi bên "người mua" và "người bán" (đều là Boesky) có 5 ngày để chuyển giao tiền hoặc cổ phiếu. Nhờ đó Boesky sắp xếp để sở hữu một lượng cổ phiếu trong năm ngày (sau năm ngày số cổ phiếu sẽ quay lại "cửa hàng"), trong thời gian này hắn có thể dưa giá cổ phiếu lên tương đương với 90% tín phiếu ngân hàng. Khi một phóng viên hỏi liệu hắn có dính líu gì đến mánh khóe "xoay vòng" này không thì được đáp trả: "Anh đang ám chỉ đến những việc không đứng đắn cho lắm, và câu trả lời của tôi là không! Một vài người không thích màu tóc của tôi và họ có thể nói bất kỳ cái gì họ muốn."

Boesky không hề có ảo tưởng là nguyên lý hiệu quả thị trường sẽ bền vững. Kế hoạch làm ăn của hắn là biến những thông tin nội bộ có được thành tiền bạc. Quy trình này đã có từ rất lâu. Vào thời đại của Adam Smith, những người kinh doanh chứng khoán đã thoải mái truyền tai nhau những tin tức nội bộ trong các công ty, nhờ đó họ có thể chọn đúng thời điểm để mua và bán cổ phiếu của mình. Mánh khóe này không công bằng đối với những người không liên quan gì đến mạng lưới thông tin này. Mặc dù vậy có vẻ như nhiều người hoàn toàn không nghĩ về phương thức làm ăn này theo cách đó. Khi thời đại thông tin điện tử chưa mở ra, sự bất công đã lộ rõ. Phải mất rất nhiều ngày để một tin tức có thể đến được những vùng xa xôi của nước Anh trong khi chỉ mất vài phút hay vài giờ để đến tai những người ở gần nơi mà sự việc diễn ra.

Việc tìm ra cách để truyền tải thông tin một cách tức thời đã thay đổi cuộc sống của những tay môi giới chứng khoán cũng như những tay đánh cá ngựa thuê chuyên nghiệp. Điện tín và máy in điện báo qua băng giấy của Edison đã đẩy nhanh dòng chảy của thông tin. Tuy vậy, không ai có thể phủ nhận là những người ở khu Manhatttan tiếp cận những thông tin tài chính nhanh hơn và chính xác hơn những người ngoài. Đối với thị trường chứng khoán cũng như rất nhiều thứ khác có liên quan đến thị trường, cuộc khủng hoảng năm 1929 là một bước ngoặt lớn. Tài sản mất dần theo từng giờ. Một số người ở phố Wall có thể vớt vát lại được phần nào tài sản của mình bằng cách sớm bán tống bán tháo cổ phiếu của mình trước khi tai họa thực sự ập đến. Lượng cổ phiếu ồ ạt do những người bên trong Phố Wall bán ra này đã đẩy giá cổ phiếu xuống thấp hơn rất nhiều. Điều đó có vẻ như không công bằng đối với những nhà đầu tư ở các nơi khác, những người biết về tai họa này muộn hơn.

Để giải quyết tình hình, Quốc hội Hoa Kỳ đã lập nên Uỷ ban Chứng khoán và Giao dịch. Một trong những mục đích của ủy ban này là đảm bảo cho tài sản của các nhà đầu tư nhỏ lẻ không bị khai thác bởi những người trong nội bộ các công ty - người nắm lợi thế biết được thông tin trước tiên. Luật Chứng khoán của Mỹ đã đặt ra một ranh giới rõ ràng để phân biệt giữa thông tin nội bộ và thông tin chính thức. Theo đó, việc sử dụng thông tin chưa được công bố của một công ty để kiếm lời là bất hợp pháp. Tuy bộ luật này có hàng ngàn điều khó hiểu nhưng lại rất cần thiết đối với những nền kinh tế đang mong muốn huy động được một lượng vốn lớn từ thành phần dân cư trung lưu.

Cũng giống bao nhiêu kẻ sẵn sàng chấp nhận rủi ro khác, dường như Boesky phất lên nhờ sự mạo hiểm và tồn tại được nhờ việc phủ nhận những mạo hiểm đó. Khi hắn có được thông tin về một kế hoạch sáp nhập hai công ty nào đó, hắn sẽ cố gắng kiểm tra độ chính xác qua rất nhiều nguồn thông tin độc lập. Khi những nguồn này xác nhận thông tin Boesky đang có là đúng, hắn sẽ hành động trên cơ sở tin rằng vụ sáp nhập chắc chắn sẽ diễn ra. Năm 1982, Boesky nghe được thông tin cho biết Gulf Oil đang định mua lại Cities Service với giá 63$ một cổ phiếu. Boesky liền mua vào 70 triệu đô la cổ phiếu của Cities Service, số tiền bỏ ra này gần bằng với vốn tự có của công ty của Boesky.

Nguồn tin mà Boesky có đã đưa tin chính xác về dự định sáp nhập của Gulf. Nhưng thật không may, Gulf lo ngại rằng cuộc mua bán sẽ làm tăng những hoạt động chống độc quyền, vì thế công ty quyết định rút lui khỏi vụ này. cổ phiếu của Cities Service rớt mạnh, khiến Boesky gần như phá sản.

-oOo

Cũng giống John Kelly, Boesky đã phải bỏ ra không ít tiền bạc cho vấn đề thông tin. Một trong những nguồn cung cấp tin tức nội bộ quan trọng nhất của Boesky là một chủ ngân hàng đầu tư trẻ ở Kidder Peabody tên là Martin Siegel. Boesky và Siegel đã thỏa thuận sẽ trả trọn gói một lần cho tất cả những thông tin Siegel cung cấp trong một năm. Số tiền bao nhiêu tùy theo mỗi lần thỏa thuận. Năm đầu tiên của vụ thỏa thuận, Siegel đã tiết lộ cho Boesky biết về việc đối thủ của Badix sẽ tiếp quản Martin Marietta. Kidder Peabody đã giúp Martin Marietta tránh khỏi bị thâu tóm. Dựa vào đó Boesky đã chọn đúng thời điểm để kiếm được một khoản lợi béo bở - Siegel không biết là bao nhiêu. Anh ta yêu cầu Boesky trả cho mình 150.000 đô la Mỹ tiền mặt. Boesky lên kế hoạch cho vụ trao đổi.

Tháng 1/1983, Siegel đến tiền sảnh của Plaza Hotel. Một người Iran vạm vỡ tiến đến gần anh ta và nói "Đèn đỏ".

"Đèn xanh" - Siegel đáp lại.

Người đàn ông đó trao cho Siegel một cái va-li. Anh mang nó về căn hộ của mình ở Đường số 72. Bên trong chiếc va-li là những tờ giấy bạc trị giá 100 đô la được buộc bằng những dải ruy băng in dòng chữ "Ceasar's Palace".

Boesky nói với Siegel rằng người đàn ông bí hiểm mà hắn cử đến giao dịch với Siegel đã từng là nhân viên CIA ở Iran. Đến năm tiếp theo, Siegel đòi 250.000 đô la Mỹ cho thông tin về vụ làm ăn liên quan đến Natomas và Getty Oil. Một lần nữa, Boesky chấp nhận cái giá này mà không mặc cả một lời. Siegel đi đến Plaza Hotel, gặp người đàn ông năm trước, trao đổi mật khẩu, nhận vali và những tờ giấy bạc được buộc bằng những dải ruy băng có dòng chữ Ceasar's Palace y hệt như lần trước.

Lần này, có một vài tờ tiền nằm riêng ra chứ không nằm trong những sấp tiền. Siegel đếm lại một cách cẩn thận. Trong vali chỉ có 210.000 đô la Mỹ.

Siegel nói lại với Boesky về số tiền 40.000 đô la Mỹ còn thiếu. Một cách thận trọng, anh ta đưa ra giả thuyết có thể người liên lạc đã "ghé mắt" qua chiếc va-li. Boesky khăng khăng điều đó không thể nào xảy ra. Người liên lạc mà hắn chọn tuyệt đối thành thật và đáng tin cậy, anh ta không bao giờ ăn cắp một xu của ai. Boesky không đưa ra thêm một lời nào về việc này nữa.

Một cách kín đáo, Siegel quyết định sẽ chuyển số tiền thiếu hụt của lần này vào cái giá mà anh ta sẽ đòi năm sau.

Nhưng năm sau mọi chuyện khác hẳn. Lương tâm của Siegel bắt đầu cắn rứt, và anh ta muốn rút chân khỏi vũng bùn này. Anh ta hạn chế gọi điện cho Boesky. Khi buộc phải gọi điện, Siegel tránh không cung cấp bất kỳ thông tin mật nào cho hắn. Sau một thời gian như vậy, những cuộc gọi của Boesky thưa dần, không còn diễn ra hàng ngày như trước nữa.

Tuy nhiên, còn một món nợ năm 1984 vẫn chưa được thanh toán. Đầu năm đó, Siegel đã cung cấp cho Boesky những thông tin nội bộ rất có giá trị về vụ sáp nhập giữa Cernation và Nestlé. Siegel không cảm thấy quá day dứt nên đã quên luôn. Tháng 1/1985, Siegel đòi Boesky 400.000 đô la Mỹ cho vụ này.

Boesky cho rằng sử dụng lại Plaza Hotel là quá mạo hiểm. Hắn chỉ Siegel đến gặp người liên lạc của mình tại một trạm điện thoại công cộng ở góc Đường số 55 và Đại lộ số 1. Siegel sẽ giả vờ như đang gọi điện thoại còn người liên lạc đóng vai người đang chờ để gọi điện. Chiếc va-li sẽ được đặt bên cạnh chân trái của Siegel, sau đó người liên lạc bỏ đi.

Siegel đến chỗ hẹn sớm và ngồi trong một quán cà phê để tránh cái lạnh. Trong lúc đang nhấm nháp cà phê, anh ta nhìn thấy người liên lạc - một người Trung Đông có nước da sậm, tay xách vali, đang đứng gần buồng điện thoại.

Siegel đứng dậy định đi đến gọi điện thì bỗng nhiên phát hiện ra một người đàn ông khác đang theo dõi người thứ nhất.

Boesky đã không hề nhắc đến hai người đàn ông này. Siegel hơi phân vân. Liệu có phải Boesky định thủ tiêu mình không? Tại sao lại phải trả tiền cho một người không còn giá trị sử dụng nữa? Chắc hẳn người đàn ông thứ hai sẽ xuất hiện và cho Siegel một phát súng từ phía sau.

Và thế là Siegel bỏ đi mà không nhận tiền.

Ngày hôm sau khi Siegel đang ở văn phòng thì Boesky gọi đến. Hấn muốn biết mọi việc đến đâu. Siegel giải thích lại chuyện đã xảy ra. Boesky nói sự có mặt của người thứ hai là đương nhiên, hắn luôn luôn cử người đàn ông thứ hai theo dõi và giám sát người thứ nhất (người đàn ông mà theo hắn nói là vô cùng trung thực). Boesky thúc giục Siegel đưa ra một cái hẹn khác. Siegel từ chối nhưng Boesky vẫn tiếp tục làm phiền. Sau một vài tuần như thế, mọi chuyện trở nên kì cục đến nỗi rốt cuộc Siegel cũng phải chấp nhận đến lấy tiền.

Vụ trao đổi diễn ra như dự kiến. Siegel đếm tiền và lại thấy thiếu mất một ít.

Anh ta không buồn gọi cho Boesky để thông báo nữa. Khi Boesky gọi đến hỏi, Siegel lấy cớ rằng đang rất bận, không thể tiếp chuyện được.

"Có chuyện gì thế Marty?" - Boesky hỏi - "Anh không muốn nói chuyện với tôi. Anh không gọi điện cho tôi nữa. Không cách nào gặp được anh. Chẳng lẽ anh không còn yêu quý tôi nữa hả?"