← Quay lại trang sách

Với những khẩu súng Tommy dữ dội

Giuliani tiếp tục bận rộn với một vụ khác có tên gọi "Commission". "The Commission" là hậu duệ của "The Combination" trước đây. Tất cả thành viên của nó đều là người Ý. Giuliani sử dụng RICO để theo dõi 8 trong số những gia đình Costa Nostra quyền lực nhất ở New York.

Trong khoảng thời gian từ 1983 đến 1985, Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) đã ghi âm lại những cuộc nói chuyên của các thành viên trong gia đình Gonevese tại những nơi bọn xã hội đen hay tụ tập tại phía đông Harlem, CLB Social và CLB Palirta Boy Social. Mục tiêu hàng đầu của cục điều tra chính là Athony Salemo (hay còn gọi là Tony mập), người mà tạp chí Fortune bình chọn là tội phạm giàu có nhất ở Mỹ.

Chứng cứ thu được từ những cuộn băng do FBI cung cấp đã giúp Giuliani đưa ra quyết định khởi tố Salemo vào năm 1986. Salemo bị kết án 100 năm tù giam và phải sống hết cuộc đời còn lại sau song sắt nhà tù. Vụ này và những vụ khởi tố khác trong vụ "Commission" đã làm suy yếu rất nhiều hoạt động phạm pháp có tổ chức ở New York.

Trong một cuộn băng mà FBI thu được, Salemo nói rằng:"Chúng tôi sở hữu Kinney". Hắn ta đang nói về bãi giữ xe Kinney, và "chúng tôi" ở đây chính là gia đình Genovese. Đây không phải là điều thường thấy. Sau sự kiện Warner tiến hành cải cách một cách bất ngờ vào năm 1971, công ty này vẫn là cổ đông lớn nhất của Kinney National. Năm 1978, số cổ phần này được bán đi. Sau đó, năm 1986, chúng lại được mua lại và Kinney National một lần nữa bị bán cho một nhóm các nhà đầu tư.

Manny Kimmel từng là bạn của gia đình Salerno. Cuối năm 1986, với tư cách là nhân chứng của Chính phủ, Vincent Cafaro giải trình rằng gia đình Genovese quản lý trụ sở 272 của Nghiệp đoàn xe thùng quốc tế. Những bãi giữ xe phải trả số tiền hối lộ từ 2.000 đến 5.000 đô la Mỹ cho trụ sở. Đổi lại, những người trong Nghiệp đoàn sẽ không gây phiền toái gì với việc sử dụng lao động không thuộc Nghiệp đoàn.

Cùng với những bằng chứng khác cho thấy Nghiệp đoàn có những hoạt động mờ ám, Giuliani đã mở hồ sơ chống lại Nghiệp đoàn xe thùng, phù hợp với án lệ RICO vào tháng 7 năm 1988. Ông kết tội rằng Nghiệp đoàn này đã lập "một Hiệp ước ma quỷ với La Cosa Nostra" và miêu tả án lệ của luật RICO là "một hành động cẩn trọng và sâu rộng". Mặc cho việc Nghiệp đoàn có tiếng là khó khăn trong đàm phán, viễn cảnh tất cả tài sản bị niêm phong khiến cho Ban quản lý Nghiệp đoàn hết sức hoang mang. Họ đồng ý nhượng bộ trước yêu cầu của Giuliani. Ban lãnh đạo bị sa thải, thay vào đó là việc bầu cử một Nghiệp đoàn mới dưới sự giám sát của Chính phủ vào năm 1991. Một cách ngắn gọn, RICO dường như là một vũ khí quá lơi hại chống lại những bọn xấu, bọn tội phạm và những luật sư bào chữa của chúng, những kẻ dám xem thường luật pháp. Tất cả bọn chúng đã phải nhún nhường và bước đến bàn đàm phán. Thời gian này đánh dấu sự thành công huy hoàng nhất của RICO trong lịch sử bộ luật.

Rõ ràng điều này đặt lên vai các công tố viên trách nhiệm nặng nề. Sau này, khi đã là thị trưởng New York - trước khi sự kiện 11/09 biến Orwellianisms trở thành nơi quen thuộc - Giuliani đã trích dẫn: "Tự do là sự tự nguyện của mỗi con người trao cho cơ quan pháp luật tối cao quyền tự định đoạt rất lớn về việc bạn làm gì và làm như thế nào".

Sự phản hồi sớm nhất cho câu nói trên chính là lợi ích về mặt chính trị mà Giuliani nhận được. Trong một vài năm làm luật sư ở Mỹ, Giuliani có lẽ là người nổi tiếng nhất nước kể từ thời J. Edgar Hoover trong vai trò người chống lại các băng đảng tội phạm. Ông có được danh tiếng này là nhờ vào số lượng những vụ án quan trọng mà ông tham gia tố tụng và cả tài năng của ông trong việc "quảng bá" chúng. Mặc dù Giuliani đã mở rộng văn phòng luật sư Mỹ với số nhân viên lên đến 132, ông vẫn tự nhận mình như là một đầu tàu chuẩn mực của văn phòng đó. trợ lý của ông, Denny Young "kiểm tra lại những thông cáo báo chí như thể đang xem xét những bản cáo trạng. Anh ta sẽ gạch tên những trợ lý và thay vào đó là tên của Rudy".

Một trợ lý trước đây của Rudy nói với tạp chí The New York Times: "Ông ấy muốn được người ta biết đến như là một Thomas Dewey mới, người đã đánh gục những tay anh chị, một anh hùng chiến đấu chống lại bọn tội phạm Eliot Ness... trên một tấm biển chạy hình ảnh "khẩu súng Tommy tóe lửa" - Đó là Rudy, Rudy, Rudy... Vì vậy bất cứ khi nào FBI, những người đã thực sự thực hiện những công việc đầy khó khăn, bắt đầu điều tra một vụ mới mà Rudy nhận thấy nó hứa hẹn sẽ mang lại nhiều lợi ích thì ông sẽ nhất quyết đòi làm người tiên phong. Nếu bất kỳ người nào đó đứng ra tổ chức cuộc họp báo, ông ấy sẽ là người ra mặt. Người đàn ông này không muốn hợp tác với ai, ông ấy chỉ muốn làm tất cả một mình".

Giuliani theo dõi những lời đồn về những hoạt động bất chính của Boesky rất kỹ lưỡng. Người đứng đầu Ban chống gian lận chứng khoán của Giuliani, Charles Carberry, bắt đầu điều tra sâu hơn những lời khiếu nại. Giống như những người bị bắt vì tội gian dâm, những nội gián giao dịch trong nội bộ không phải tội lỗi của chỉ một người. Các công tố viên bắt đầu lập sơ đồ về những người tham gia giao dịch nội gián và những mối quan hệ bên trong của họ. Có khoảng 20 cái tên.

Họ phát hiện ra rằng mạng lưới xã hội của những người ơ phố Wall tương tự như giữa những người trong vụ Commission. Mỗi nhóm tự nhìn nhận bản thân như những con người ưu tú nhất, tách khỏi những người còn lại trong xã hội. Họ bị ràng buộc với nhau bởi tình bạn, quyền lực, tiền của và thông tin. Họ trao đổi những tin tức nội bộ và tham dự vào đám cưới, những cuộc vui ở quán rượu và cả đám tang của nhau. Họ thà vào tù chứ không khai ra bất cứ đồng minh nào.

Người của Giuliani đi đến kết luận rằng Micheal Milken là nhân vật quan trọng nhất trong sơ đồ đó. Michael là điểm nút trong mang lưới xã hội và khi ấy hắn đang có quyền lực tối cao. Hắn liên quan đến phần lớn những vụ mua bán cổ phiếu có sử dụng công cụ "đòn bẩy". điều này có nghĩa là hắn có nhiều thông tin giá trị, nhất là đối với những người giao dịch thận trọng. Milken cũng từng qua mặt khách hàng của chính mình bằng cách thu mua những cổ phiếu được xem là tiền thế chân, khoản tiền này rất cần thiết để giúp bán cố phần, nhưng thực chất nó lại rơi vào tài khoản riêng của Milken.

Văn phòng luật sư Hoa Kỳ khởi xướng hành động cùng với những cơ quan thực thi pháp luật. Chuỗi sự kiện bắt đầu vào ngày 12 thang 5 năm 1986, khi ủy ban chứng khoán và Giao dịch khởi kiện con buôn" Dennis Levine vì tội giao dịch nội gián với số tiền 12,6 triệu đô la Mỹ. Levine làm việc ở văn phòng New York của Drexel Burham. Ông ta gần như không có liên lạc nào với Milken ở Beverly Hills. Mấu chốt của vấn đề ở đây chính là việc Levine đã khoác lác về những vụ giao dịch nội gián với bạn của mình. "Có thể kiếm rất nhiều tiền nhờ thông tin", ông ta nói.

Đối mặt với những chứng cứ chống lại mình, Levine quyết định hợp tác. Levine đã chuyển những thông tin mách riêng trong nội bộ cho Boesky với giá 5% lợi nhuận. Levine đã khai ra Boosky.

Tháng 5 năm 1986, Boesky đã có một bài diễn văn nổi tiếng ở trường của Milken, trường kinh doanh Berkeley. Thông điệp của hắn là: "Sự tham lam là bình thường". Trong những ngày diễn ra cuộc tọa đàm, Boesky nhận được giấy của Tòa đòi ông cung cấp những giấy tờ thực tế có liên quan đến hoạt động kinh doanh của ông. Vào tháng 8, Boesky cũng bắt đầu hợp tác với chính phủ. Boesky đã khai ra có sự tham gia của Martin Siegel vào vụ này.

Hai ngày trước lễ Halloween, Siegel nhận được một cuộc gọi nặc danh từ một người tự xưng là Bill. Người gọi hỏi Siegel rằng anh có nhận được thư của hắn ta không. Siegel hỏi lại "Thư nào?". Bill nói ông biết tất cả mọi chuyện về mối quan hệ của ông với “những người Nga”. Siegel dọa rằng nếu Bill còn gọi ông lần nữa, ông sẽ gọi cảnh sát.

Bill nói: "Tôi nghi ngờ về điều đó".

Siegel lái xe về căn hộ của mình ở Connecticut và phát hiện ra rằng quả thật mình đã nhận được một lá thư.đòi tiền ký tên là Bill. Trong thư viết: "Tôi biết".

Vài ngày sau đó, việc bị tòa án gọi hầu tòa khiến Siegel quyết định không thể sống theo cách này. Anh ta nhờ luật sư của mình đến văn phòng của Giuliani để đưa ra một thỏa thuận, Siegel thừa nhận có tội và chấp nhận có tội, kéo theo cả Robert Freeman của Goldman Sachs vào cuộc. Vào ngày 12/02/1987, Thomas Patrick Doonan, một nhân viên điều tra làm theo thời vụ cho văn phòng Luật sư Mỹ, bắt giữ Freeman tại văn phòng ở tầng 29. Doonan còng tay Freeman và giải ông ta trước sự bất ngờ của những đồng nghiệp trong văn phòng.

Thomas Doonan cũng chính là “Bill".

Một ngày trước đó, Giuliani đã tán thành việc bắt giữ Freeman, mà không có bất kỳ tranh luận gì. Ông nhấn mạnh rằng những tên tội phạm là công chức cũng không được hưởng bất kỳ sự đối xử đặc biệt nào trong văn phòng của ông.

Nhưng sau đó, quá trình buộc tội có chút vướng mắc. Freeman từ chối thỏa thuận, hay khai thêm bất kỳ người nào khác. Ông ta thề sẽ chống lại bất kỳ sự buộc tội nào.

Nhưng bằng chứng chống lại Milken cũng vẫn còn rất sơ sài. Giuliani không muốn kết tội Milken cho đến khi có cơ sở vững chắc. Vào tháng 10, FBI bắt buộc Boesky phải mang theo một thiết bị thu âm giấu dưới lớp áo vest trong cuộc gặp với Milken tại khách sạn Beverly Hills. Boesky rất lo lắng. Hắn nói với những nhân viên FBI rằng hắn sợ bị phát hiện vì Milken có những người bạn làm kinh doanh sòng bạc, bọn chúng có thể giết chết hắn. FBI trả lời Boesky rằng nếu bị phát hiện thì cứ việc bỏ chạy.

Boesky đáng lẽ ra phải bắt Milken nói về số tiền 5,3 triệu đô la Mỹ mà Boesky đã thanh toán cho ông ta để có những thông tin nội bộ. Thế nhưng hắn đề cập về việc mình đang bị theo dõi rất chặt chẽ. Boesky nói với Milken rằng hắn muốn chắc chắn cả hai sẽ khai báo cùng một câu chuyện khi bị thẩm vân.

Thế nhưng Milken trả lời "À, người của tôi chẳng nhớ gì cả?", "Người của anh thì sao?".

Boesky hiểu điều này có nghĩa là "tiêu hủy hết mọi bằng chứng." Trong suốt cuộc gặp mặt Milken không nói bất kỳ điều có thể làm hắn bị buộc tội theo cách thức minh bạch. Hắn nghi ngờ có điều gì đang xảy ra.

"Anh phải cẩn thận đây," - Milken nói với Boesky. "Việc kiểm soát điện tử có thể rất phức tạp."

Martin Siegel tường thuật lại cho nhà chức trách cuộc nói chuyện với Freeman vào tháng 3/1985 về công ty truyền thông Storer. Freeman nói với Siegel rằng một công ty đầu tư tư nhân tên là Coniston Partner đang tích lũy cổ phiếu của Storer để phục vụ cho một nỗ lực thâu tóm. Siegel hỏi Freeman biết chuyện này bằng cách nào. Freeman nói "Tôi rất thân với những người mua cổ phiếu cho Contston."

Điều này tạo nên một cái kết lỏng lẻo cho sơ đồ của những người điều tra. Nó ngụ ý rằng Freeman có một hoặc nhiều nguồn cung cấp thông tin nội bộ khác ngoài Siegel. Những người của Giuliani bắt đầu cân nhắc lại xem ai là những người mua cổ phiếu cho Coniston. Họ phát hiện ra rằng vụ giao dịch đã được thực hiện thông qua một văn phòng có tên là Oakley Sutton Management.

Các nhân viên điều tra không thể lường trước được sự trùng hợp này. James Regan, một trong những người cộng sự tại Oakley Sutton, từng là bạn chung phòng của Robert Freeman ở Dartmouth.

James Regan và Edward Thorp đồng thời điều hành một quỹ đen gọi là Princeton - Newport Partners. Văn phòng luật sư Mỹ đã từng tập hợp những ghi chép lại về hoạt động giao dịch của Princeton - Newport liên quan đến vụ điều tra Freeman. Trong khi đang xem xét những ghi chép, họ phát hiện ra, một vài thương vụ khả nghi được thực hiện bởi William Hale của quỹ Princeton - Newport. Dường như Hale đã có những giao dịch dựa trên nguồn thông tin nội bộ. Họ điều tra kỹ về Hale và phát hiện ra rằng anh ta đã bị Princeton - Newport Partners sa thải.

Charles Carberry đã về hưu. Bruce Baird, người kế nghiệp của ông ở phòng chống gian lận chứng khoán, biết rằng cách hữu hiệu nhất để có mẩu tin quan trọng từ một tổ chức là nói chuyện với một công nhân bất mãn đã từng làm việc ở đó. Chính phủ gửi trát đòi Hale ra hầu tòa. Ông ta từ chối nói chuyện. Một vụ thương lượng về việc tố tụng được đưa ra, và ông ta vẫn một mực từ chối.

Cuối cùng, chính phủ triệu tập Hale đến một buổi họp của bồi thẩm đoàn xem có đủ chứng cứ buộc tội hay không. Ông ta xuất hiện trong cuộc thẩm vấn vào tháng 11/1987. Ông ta là một công dân đến từ Dartmouth, trẻ, cao ráo và tóc vàng. Chính phủ ban cho ông ta một đặc ân. Điều này làm cho một nhân chứng không thể khẩn cầu vào bản hiệu chỉnh Hiến pháp lần 5.

Trong phiên tòa, việc tra hỏi không thực sự hiệu quả, Baird hỏi Hale tại sao ông rời khỏi Princeton - Newport Partners.

Hale sửa lại rằng: "Tôi không rời khỏi đó. Tôi bị đuổi việc."

"Tại sao?"

"Tôi không thể chịu dựng tất cả những điều phạm pháp mà họ đang làm."