PHẦN 7: DẤU HIỆU VÀ TIẾNG ỒN Danh mục đầu tư của Shannon.
Năm 1986, tạp chí Barron's công bố bảng xếp hạng thành tích gần đây của 77 nhà quản lý tài chính. Tuy không được nhắc đến trong bảng xếp hạng này nhưng Claude Shannon chỉ đứng sau ba chuyên gia trong lĩnh vực này mà thôi. Theo tạp chí Barron's, hầu hết các nhà quản lý tài chính đều có công ty riêng với hàng trăm nhân viên, còn công ty của Shannon chỉ có ba nhân viên là ông, vợ ông và chiếc máy tính Apple II cũ rích.
Ngày 2-8-1986 Barron's cho đăng thành tích gần đây của 1026 quỹ hỗ tương. Người đạt được mức lợi nhuận cao nhất là Shannon.
Năm 1965, khi Warren Buffet mua lại Berkshire Hathaway, cổ phiếu của công ty được giao dịch ở mức 18 đôla một cổ phiếu. Đến năm 1995, con số này đã tăng lên đến 24.000 đôla. Sau 30 năm, lợi nhuận của công ty tăng trưởng ở mức 27%. Tính từ cuối những năm 1950 đến năm 1986, lợi nhuận mà Shannon thu về trong danh mục vốn đầu tư của mình là khoảng 28%.
Từ lâu, Shannon đã có ý định xuất bản một cuốn sách về những phương pháp đầu tư của ông. Mặc dù trên thực tế những phương pháp này đem lại lợi nhuận rất cao nhưng dường như chưa bao giờ ông hài lòng về tính sáng tạo và độ chính xác của chúng. Trí nhớ của Shannon cũng bắt đầu suy giảm khiến ông không bao giờ hoàn thành được tác phẩm mà ông mong muốn. Năm 1986, Philip Hershberg, người trước đây từng là kỹ sư chuyển sang làm nhà tư vấn đầu tư đã phỏng vấn hai vợ chồng Shannon về những phương pháp đầu tư của họ. Hershberg định viết một bài báo về đề tài này nhưng rốt cuộc dự định này cũng không trở thành hiện thực. Tuy vậy, bản phát thảo của bài báo ấy (được cung cấp bởi Betty Shannon) cùng với những tài liệu mà Hershberg đã thu thập được cũng đã cho chúng ta một cái nhìn hoàn thiện về những cách thức mà Shannon đã sử dụng để đạt được những khoản lợi nhuận ấn tượng trên.
Những hoạt động của ông không hề liên quan đến việc lợi dụng sự chênh lệch tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối để thu lời thông qua mua và bán (arbitrage - nghiệp vụ Ácbit). Shannon đơn thuần chỉ là một nhà đầu tư chứng khoán theo chiến lược "mua và nắm giữ" 14 (buy-and-hold)
Shannon nói với Hershberg: "Theo một cách nào đó, điều này cũng gần giống với công việc tôi từng làm trước đây, liên quan đến truyền thông và rút ra tín hiệu từ 'những tiếng ồn' vậy." Ông cũng nói rằng một nhà đầu tư khôn ngoan nên hiểu trong vụ làm ăn nào thì mình có lợi thế và sẽ chỉ đầu tư vào những cơ hội đó mà thôi.
Đầu những năm 1960, Shannon đã từng thử làm việc với những bản phân tích kỹ thuật nhưng rồi ông nhanh chóng từ bỏ phương pháp này. "Tôi nghĩ những nhà phân tích chỉ suốt ngày chúi mũi vào những biểu đồ giá cả, với những 'công thức cao siêu' và 'comple cà vạt' - những thứ là theo tôi là sự lặp lại một cách quá ồn ào những dữ liệu quan trọng,"
Shannon nhấn mạnh đến "những gì chúng ta có thể suy luận được về sự tăng trưởng lợi nhuận trong những năm tới từ việc đánh giá khả năng của ban quản trị công ty và nhu cầu thị trường đối với sán phẩm của công ty đó trong tương lai... Kiểu gì thì cuối cùng giá cổ phiếu cũng sẽ tăng sau khi lợi nhuận đã tăng." Vì thế ông ít chú ý đến sức tăng hay sự biến động của giá cả. "Theo cách nhìn của tôi, dữ liệu quan trọng nhất không phải là giá cổ phiếu lên xuống bao nhiêu trong vài ngày hay vài tháng qua mà là lợi nhuận đã thay đổi bao nhiêu trong vài năm qua." Shannon đánh dấu mức lợi nhuận công ty đạt được trên biểu đồ logarit và cố gắng thiết lập một đường khuynh hướng phát triển trong tương lai của công ty đó. Tất nhiên, ông cũng cố gắng dự đoán xem yếu tố nào sẽ tác động đến đường khuynh hướng đó, khiến nó đi lên hay đi xuống.
Shannon cùng vợ sẽ đến thăm những công ty kỹ thuật mới thành lập và nói chuyện với những người điều hành công ty. Nếu có thể, họ sẽ tiến hành kiểm tra những sản phẩm mà công ty đó đưa ra thị trường. Ví dụ, khi họ định đầu tư vào hệ thống bán thức ăn nhanh KFC, họ mua gà rán của thương hiệu này và mời bạn bè thưởng thức để xem phản ứng của họ thế nào. "Rất đơn giản, nếu chúng tôi thử và cảm thấy không thích một sản phẩm nào đó thì chúng tôi sẽ không xem xét đến việc đầu tư vào công ty sản xuất ra sản phẩm đó nữa."
Shannon trở thành thành viên ban quản trị tập đoàn công nghệ Teledyne. Ông không chỉ là một tên tuổi nổi bật trong bản báo cáo hàng năm của họ mà còn tìm kiếm những "mỏ vàng" đầy tiềm năng cho Giám đốc điều hành Henry Singleton. Ví dụ năm 1978, Shannon đã thay mặt Teledyne đến thăm và đánh giá Tập đoàn công nghệ Perception do nhà vật lý học Huseyin Yilmaz của MIT - người có kiến thức sâu rộng về thuyết tương đối chung - thành lập nên. Trong suốt thời gian đưa Shannon đi thăm quan, Yilmaz nói một cách say sưa về vật lý học, quả quyết rằng "có một sơ hở trong công thức của Einstein" mà Yilmaz đã sửa chữa bằng cách thêm vào một thuật ngữ nữa. Tuy thế công ty của Yilmaz lại liên quan đến “chức năng nhận diện lời nói". Họ phát triển một "thiết bị nhận dạng từ ngữ" bí mật, cho phép các nhân viên tình báo dùng máy móc để có thể tự động nhận ra những từ quan trọng như "tên lửa" hay "nguyên tử" trong những đoạn hội thoại được ghi âm. Hay một sản phẩm khác cho phép máy tính có thể nói chuyện được.
Bản báo cáo ngắn gọn nhưng súc tích của Shannon đã cảnh báo Singleton rằng tổng hợp giọng nói "là một lĩnh vực vô cùng khó. Bell Telephone Lab đã bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức nhưng rốt cuộc kết quả thu được chẳng đáng bao nhiêu... Tôi có cảm giác kì quặc là tập đoàn này hơi nhầm lẫn giữa lợi nhuận của công ty với thuyết tương đối chung. Cả Yilmaz, Brill và Ferber đều tạo cho tôi ấn tượng về sự nhạy bén và tận tụy đối với khoa học nhưng lại không thích thú gì mấy đối với hoạt động phát triển sản phẩm, doanh số và lợi nhuận." Và Shannon đi đến kết luận: "Tôi nghĩ rằng việc Teledyne mua lại PTC chỉ có ý nghĩa như một vụ cá cược dài hạn vào hoạt động nghiên cứu khoa học mà thôi. Tôi không khuyến khích những vụ mua bán như thế."
Bản thân Warren Buffett cho rằng Singleton có được thành tích hoạt động và khai thác vốn tốt nhất trong giới doanh nghiệp Mỹ. Ít nhất thì điều này cũng chứng tỏ rằng những đánh giá của Shannon có vai trò khích lệ trong thành công đó.
Shannon là một trong số những nhà đầu tư đầu tiên tải giá cổ phiếu từ mạng. Năm 1981, ông đăng ký dịch vụ báo giá cổ phiếu sớm và tải thông tin vào bảng tính trên chiếc Apple II của mình. Bảng tính sẽ tự động tính ra lợi nhuận hàng năm của công ty.
Trong một bản in ngày 22-1-1981, danh mục đầu tư của Shannon gồm:
Danh sách có thể chưa đầy đủ, như có lần Shannon đã nói về việc ít nhất ông còn sở hữu cổ phiếu của một công ty (Datamarine). Giá trị của danh mục trên khá là khiêm tốn: 582.717,50 đô la. Theo giá trị đồng đôla Mỹ năm 2004, chừng đó cũng đủ để ông trở thành một "Người hàng xóm triệu phú" (The Millionaire Next Door) 15 . Điều đáng chú ý ở đây là những khoản lợi nhuận kép.
"Giá mua" ở đây có vẻ như là mức giá gốc bình quân của một cổ phiếu. Nhiều cổ phiếu được sở hữu thông qua những vụ sáp nhập công ty và/hoặc được mua bán ở các mức giá khác nhau. Như vậy tại thời điểm đó, so với giá gốc của cổ phiếu của các công ty thì giá trị trung bình mà Shannon đạt được sau khi đầu tư theo danh mục trên đã tăng khoảng 60 lần.
Danh mục đầu tư của Shannon hẳn phải khiến cho Harry Markowitz (hay bất kỳ nhà tư vấn tài chính nào) phải kinh sợ. Gần 81% danh mục đầu tư là dành cho một loại cổ phiếu duy nhất -Teledyne. Ba loại cổ phiếu có mức đầu tư cao nhất đã chiếm tới 98%. Shannon nói với Hershberg: "Trong suốt 30 năm qua, chúng tôi chưa bao giờ cố gắng để cân bằng danh mục đầu tư của mình. Có lẽ tôi đã thích làm theo cách đó nếu như không phải tính đến những khoản thuế." Ở tuổi 70, Shannon chỉ đầu tư vào cổ phiếu mà thôi. "Khi cần thiết, tôi sẵn lòng đi vay mượn để đầu tư còn hơn là phải bán cổ phiếu của mình và đổi sang những hình thức sinh lợi khác."
Shannon cũng nói với Hershberg rằng công ty tồi nhất mà ông từng sở hữu là Datamarine International. Ông mua nó vào năm 1971, từ đó đến nay lợi nhuận trung bình của công ty chỉ tăng khoảng 13% (!) Tuy nhiên ông vẫn giữ lại công ty này vì ông thích những dự án mua lại các công ty khác của nó.
Trong số những công ty Shannon lựa chọn để đầu tư, có một vài công ty không liên quan gì đến công nghệ kỹ thuật số. Một trong những cái tên đó là Masco - chuyên sản xuất đồ thiết bị gia đình. Đầu những năm 1980, gia đình Shannon mua cổ phiếu của hai công ty chuyên in ấn séc (John H. Harland và Deluxe). Giá cổ phiếu không quá cao, có vẻ như do máy tính đã phổ biến và người ta bắt đầu thích giao dịch không giấy tờ hơn. Betty lo ngại rằng những tờ séc sẽ trở nên lỗi thời. Mặc dù vậy, hai công ty này vẫn có mức tăng trưởng cao. Từ năm 1981 đến 1986, lợi nhuận kép là 34% đối với Harland và 40% đối với Deluxe.
Xét tổng thể về hoạt động đầu tư của mình, Shannon cho biết:
Chúng tôi đã hoạt động trong lĩnh vực này khoảng 35 năm. Những năm đầu tiên xem như giai đoạn học hỏi - chúng tôi tham gia mua bán khác nhiêu và tạo được lợi nhuận vừa phái. Khi chuyển sang đầu tư chứng khoán dài hạn, tỷ lệ tăng trưởng bình quân của chúng tôi là 28% một năm.
Rõ ràng khi nói đến mức lợi nhuận 28% đó ( Shannon không tính đến quãng thời gian đầu học hỏi. Ông cũng không nói ông có tính đến những cổ phiếu mà ông không còn sở hữu nữa hay không hoặc tính bằng cách nào. Trong trường hợp danh mục đầu tư được quản lý một cách chủ động, lợi nhuận có thể sẽ rất khác. Tuy nhiên, hai vợ chồng Shannon không bao giờ đổ quá nhiều vốn vào một cổ phiếu mới, và giữa thập niên 60, họ ít khi bán ra những cổ phiếu của mình. Trên thực tế, toàn bộ lợi nhuận mà họ có được là từ nhóm ba công ty chủ yếu: Teledyne, Motorola, Hewlett-Packard
Shannon đã mua Teledyne với giá 88 cent một cổ phiếu, giá được điều chỉnh sau khi chia tách cổ phiếu. 25 năm sau, mỗi cổ phiếu có giá 300 đô la, tức là đạt mức lợi nhuận hàng năm 25%. Tương tự, Shannon mua Codex với giá 50 cent một cổ phiếu, đến năm 1986, sau khi trở thành thành viên của Motorola, mỗi cổ phiếu của Codex trị giá 40 đô la, tức là đạt mức lợi nhuận hàng năm 20% cổ tức, chưa được tính đến trong lợi nhuận, còn có thể đẩy những con số này lên cao nữa.
Vụ đầu tư dài hạn có hiệu quả nhất mà Shannon thực hiện là Harrison Labs/Hewlett-Packard, đạt mức lợi nhuận hàng năm 29% sau 32 năm. Ban đầu Shannon chỉ phải trả một số tiền tương đương với 1,28 cent cho một cổ phiếu của Harrison Labs. Sau đó, năm 1986 mỗi cổ phiếu của Hewlett-Packard có giá 45 đô la. Có nghĩa là tăng gấp 3500 lần. Khoản đầu tư ban đầu đã 11 lần tăng gấp đôi. Dự tính cua Shannon đã trở thành hiện thực: 211 = 2048