Dự án Indicators
*
Một trong những trường hợp đánh bại thị trường chứng khoán thú vị nhất có liên quan đến một chiến lược mua bán chứng khoán hưởng lợi theo chênh lệch giá thống kê (Statistical arbitrage). Để kiếm được tiền, bạn phải mua cổ phiếu với giá thấp và bán lại với giá cao. Vậy tại sao bạn lại không nhờ đến máy tính nói cho bạn biết cổ phiếu nào đang ở mức giá thấp và ngược lại? Đó chính là khái niệm chiến lược mua bán chứng khoán hưởng lợi theo chênh lệch giá thống kê. Các nhà phân tích cơ bản sẽ xem xét tính toán các yếu tố, nhiều trong số đó thể hiện qua các con số, để đi đến quyết định nên mua cổ phiếu nào. Nếu như quá trình này có bất kỳ cơ sở, căn cứ chắc chắn nào thì chúng ta hoàn toàn có thể tự động hóa nó.
Ed Thorp bắt đầu theo đuổi ý tưởng này vào năm 1979. Nó được xem như là một trong những khám phá của "Dự án Indicators" ở Princeton-Newport. Dự án do Jerome Bacset phụ trách. Ông từng là giáo sư của trường đại học Cambridge ở lrvine, được Thorp thuyết phục về làm việc hẳn cho Princeton-Newport.
Một nhà phân tích cơ bản thường mua cổ phiếu và giữ lại trong nhiều tháng, nhiều năm, hay thậm chí nhiều thập kỷ. Bạn càng giữ cổ phiếu lâu bao nhiêu thì càng khó có thể đánh bại được thị trường bấy nhiêu. Chẳng hạn bạn cho là một cổ phiếu được bán ở mức giá chỉ bằng 80% giá trị "thực" của nó, tức là bạn khá "hời" khi mua nó. Nếu như trong 1 năm sau đó thị trường diễn biến đúng như bạn dự đoán thì bạn sẽ có thể bán cổ phiếu ấy với lợi nhuận là 25% (cao hơn tất cả những khoản lãi khác: 25% chính là khoản lợi nhuận mà bạn thu được từ vụ “đánh bại thị trường" này).
Nếu thay vào đó, thị trường phải mất tới 20 năm để nhận ra đã đánh giá thấp giá trị của cổ phiếu đó thì quá trình đánh giá lại chậm chạp này chỉ tăng thêm 1,1% vào lợi nhuận hàng năm sau suốt một khoảng thời gian 20 năm. Một nhà đầu tư dài hạn có ý định đánh bại thị trường phải tìm được những cổ phiếu bị đánh giá thấp xa so với giá thực trong hiện tại và phải có một quả cầu tiên tri để biết trước tương lai xa xôi. Cả hai việc này đều là nhiệm vụ gần như bất khả thi.
Thorp và Baesel không tập trung vào dài hạn mà tập trung vào ngắn hạn. Họ có một phần mềm lọc ra những cổ phiếu tăng hoặc giảm giá nhiều nhất theo tỉ lệ phần trăm trong 2 tuần trước đó; đã được điều chỉnh theo cổ tức và cổ phiếu tách (stock splits). Đó chính là cổ phiếu của những công ty đã từng gây chấn động thị trường bằng những tin tức tốt lành hay tồi tệ. Hai nhà khoa học phát hiện ra rằng những cổ phiếu hiện tại đang tăng giá có khuynh hướng giảm giá trong thời gian tiếp theo và ngược lại.
Điều này hoàn toàn trái ngược với quan điểm của "các nhà đầu tư chứng khoán theo đà''. Nó tuân thủ nghiêm ngặt sự thật hiển nhiên là thị trường luôn phản ứng thái quá với những tin tốt cũng như tin xấu - đôi khi thì lại không vì một tin tức nào cả. Sau đó hiệu ứng giảm dần và con lắc lại trở về vị trí cũ.
Thorp và Baesel thử nghiệm với danh mục đầu tư gồm những cổ phiếu "xuống giá thê thảm nhất" được 2 người mua lại và những cổ phiếu "tăng giá ngoạn mục nhất" được 2 người bán ra. Chỉ cần họ mua vừa đủ cổ phiếu thì họ sẽ có một rào chắn an toàn khỏi những chuyển động của thị trường. Họ kết luận rằng họ có thể kiếm được 20% lợi nhuận mỗi năm trong vụ đầu tư này. Nhưng oái ăm thay, đó cũng là một chướng ngại. Princeton-Newport đã kiếm được một khoản béo bở như thế, thậm chí còn nhiều hơn, qua những thương vụ của minh. (những năm 1980 - 1982 là thời kỳ hoàng kim với lợi nhuận hàng năm là 28%, 29% và 30% sau khi đã trừ đi 20% chi phí.) Trong tất cả các vụ giao dịch của Princeton-Newport thì vụ đầu tư vào các cổ phiếu có giá cao và thấp nhất đem lại lợi nhuận nhiều hơn cả.
Tuy nhiên, mặc dù lý thuyết thì rất hay ho nhưng Princeton-Newport lại không thể áp dụng nó vào thực tế. Dự án sau đó cũng bị gác lại.
Vào năm 1982 hay 1983, hoàn toàn độc lập với Thorp, Jerry Bambarger cũng có ý tưởng tương tự như vậy. Bamberger làm việc cho ngân hàng đầu tư Morgan Stanley ở New York. Ông cũng nghĩ ra hệ thống cổ phiêu tăng mạnh nhất và giảm mạnh nhất, mà dường như còn tiến bộ hơn kế hoạch trước đó đã bị gác lại của Princeton-Newport vì có lợi nhuận ổn định hơn. Bamberger bắt đầu thực hiện giao dịch chứng khoán cho Morgan Stanley theo phương pháp này vào năm 1983. Phương pháp phát huy hiệu quả và được Morgan Stanley đã mở rộng dưới quyền của Nunzio Tartaglia - ông chủ của Bamberger, người sở hữu phần lớn tài sản trong quỹ tín dụng.
Vì cảm thấy không được coi trọng nên Bamberger đã bỏ việc. Sau đó ông tình cờ đọc được một lời đề nghị cấp vốn cho những ai có chiến thuật mua bán cổ phiếu ít rủi ro và đầy hứa hẹn. Đó chính là mục quảng cáo của Princeton-Newport Partners.
Bamberger đến gặp Thorp ở Newport Beach và giải thích về hệ thống đầu tư của mình. Chiến thuật của Bamberger giảm rủi ro bằng cách chia danh mục đầu tư cổ phiếu thành các nhóm công ty công nghiệp. Mỗi nhóm có tiềm năng trong ngắn hạn và dài hạn đối trọng nhau. Thorp cho rằng đây thực sự là một bước tiến vượt bậc và đồng ý cấp vốn cho Bamberger.
Họ bắt đầu thử nghiệm hệ thống đầu tư này ở Newport Beach. Bamberger là một người nghiện thuốc lá trong khi Thorp lại có chính sách không thuê những người hút thuốc lá. Hai người đã thỏa thuận khi hút thuốc Bamberger sẽ ra ngoài. Bamberger cũng bị cấm vào phòng máy vi tính vì những ổ cứng có kích thước to bằng cái máy giặt này rất nhạy cảm với chỉ một hạt bụi nhỏ nhất.
Thorp để ý thấy hàng ngày Bamberger đều xách theo một túi đồ ăn trưa. Ông hỏi: "Anh có thường ăn món sandwish rau và cá ngừ này không?"
Bamberger trả lời: "Suốt 6 năm qua, ngày nào mà tôi chẳng ăn."
Chiến thuật mua bán chứng khoán của Bamberger tỏ ra rất có hiệu quả qua những thử nghiệm trên máy vi tính. Từ đó Thorp và Regan đã thành lập một quỹ đầu tư mạo hiểm và lấy tên là "BOSS Partners", viết tắt của "Bamberger plus Oakley Sutton Securities". BOSS có trụ sở Ở New York và bắt đầu quản lý khối tài sản từ 30 đến 60 triệu đôla cho Princeton-Newport. BOSS kiếm được lợi nhuận từ 25% đến 30% vào năm 1985, sau đó giảm dần trong vài năm tiếp theo. Đến năm 1987 lợi nhuận giảm xuống còn 15%, không còn sức cạnh tranh với những cơ hội đầu tư khác của Princeton-Newport nữa.
Rõ ràng vấn đề ở đây là sự cạnh tranh. Tartaglia tiếp tục mở rộng việc mua bán chứng khoán hưởng lợi theo chênh lệch giá thống kê của Morgan Stanley. Năm 1988, phe Tartaglia đã mua bán một lượng cố phiếu trị giá đến 900 triệu đô la. Bamberger cũng cố gắng mua một lượng cổ phiếu giá rẻ tạm thời tương đương với số tiền đó khiến giá cổ phiếu lên cao. Điều này khiến cho lợi nhuận bị giảm.
Sau khi đã kiếm được bộn tiền, Bamberger quyết định về hưu. BOSS ngừng hoạt động. Cuối cùng, theo như những gì được kể lại, ngàn hàng Morgan Stanley bị lỗ nặng và buộc phải dừng công việc đầu tư theo phương pháp hưởng lợi theo chênh lệch giá chứng khoán thống kê.
Thorp tiếp tục nghiên cứu cách khai thác chiến thuật này. Ông thay thế phương pháp chia danh mục đầu tư theo các nhóm công ty công nghiệp bằng một hệ thống "phân tích yếu tố" linh hoạt hơn nhiều. Phương pháp này đánh giá cổ phiếu bằng cách xem xét sự thay đổi giá trong tương quan với những chỉ số thị trường, lạm phát, giá vàng... Cách này kiểm soát rủi ro tốt hơn. Một tháng sau khi bị tấn công bỏi Giuliani, Princeton-Newport đã xoay xở để đưa ra một hệ thống ưu việt hơn với tên gọi STAR (viết tắt của "statistical arbitrage"). STAR đã tạo ra lợi nhuận 25%, sau khi đã trừ các khoản chi phí thì còn 20%. Sau đó công ty lại giải tán và ý tưởng lại bị dẹp qua một bên lần thứ 3.
Sau khi Princeton-Newport đóng cửa, Thorp quyết định nghỉ ngơi một thời gian. Trong vòng một năm, ông không đầu tư tiền bạc của mình và của người khác vào chứng khoán. Nhưng cũng như một tay nghiện cờ bạc, Thorp không thể "cai nghiện" lâu được. Ông phát hiện ra một vài cơ hội đầu tư vô cùng hấp dẫn trong chứng quyền của Nhật. Đến cuối năm 1990, ông bắt đầu mua bán chúng trên thị trường.
Một trong những nhà đầu tư đi trước Thorp đã đề nghị ông cùng thành lập một công ty mua bán chứng khoán hưởng lợi theo giá thống kê. Họ quyết định bắt đầu điều hành một quỹ chống rủi ro với tên gọi Ridgeline Partners để hiện thực hóa mục đích này. Thorp tuyên bố: "Tôi có một danh sách những người sẵn sàng đầu tư vào bất kỳ cái gì tôi định làm. Vì thế, tôi chỉ cân nhấc điện thoại lên gọi vài cú điện, ngay lập tức chúng ta sẽ có đủ vốn trước ngày kế hoạch được bắt đầu." Ridgeline Partners đi vào hoạt động vào tháng 8 năm 1994.
Số vốn cao nhất mà Redgiline có là khoảng 300 triệu đô la. Vào những năm 1990 thì số vốn này chỉ ở mức trung bình. Thorp muốn đám bảo có thể giám sát được tất cả nhân viên của mình, đồng thời muốn quỹ chỉ vừa đủ để đảm bảo những hoạt động kinh doanh của nó không gây ảnh hưởng tiêu cực đến lợi nhuận đạt được. Theo đó, Ridgiline giao dịch khoảng 4 triệu cổ phiếu mỗi ngày, thường chiếm khoáng phân nửa khối lượng giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán New York (NYSE).
Hoạt động của quỹ được tự động hóa rất cao. Một buổi sáng ở công ty, Thorp bắt đầu ngồi vào làm việc với những cái máy tính của mình, khi đó NYSE đã mở cửa được 3 tiếng và có khoảng 1 triệu cổ phiếu đã được giao dịch. Steve Mizusawa đã tham gia vào dự án kinh doanh này. Công việc của Mizusawa là xem qua các bản tin Bloomberg xem có tin tức bất ngờ nào có thể tác động xấu đến các vụ giao dịch hay không. Vì tính chất không thể thể dự đoán trước được của những vụ sáp nhập, tách hay cải tổ lại một công ty đều không tốt. Với những thông báo như thế, Mizusawa sẽ liệt những công ty có liên quan vào "danh sách những cổ phiếu bị hạn chế" để mọi người hạn chế giao dịch.
Theo Thorp thì mỗi vụ giao dịch có khoảng 0,5% lợi thế. Một nửa trong 0,5% đó dùng để chi trả chi phí giao dịch. Phần còn lại sẽ đóng góp vào những khoản lợi nhuận kếch xù. Ridgeline hoạt động thậm chí còn tốt hơn Princeton-Ncwport. Từ năm 1994 đến 2002, trung bình nó đạt khoảng 18% lợi nhuận sau khi đã trừ đi các khoản chi phí.
Ridgeline gặp phải sự cạnh tranh rất lớn. Trong số những công ty, tổ chức thành công nhất có tập đoàn Citadel Investment Group của Ken Griffin, quỹ Medallion của James Simon, công ty D.E.Shaw&Co. Các công ty này đều lớn hơn Ridgeline trước đây, nguồn vốn lên đến hàng tỷ đô la nhưng những ông chủ của chúng thì có ít nhiều điểm giống Thorp: Simons trước đây là nhà toán học của SUNNY Tony Brook, Shaw là một nhà khoa học về máy tính được đào tạo ở Stanford còn Griffin nghiên cứu vật lý ở trường Harvard và bắt đầu buôn bán từ khi còn ở trong ký túc xá. Meyer, một nhà đầu tư của Princeton-Newport từ những ngày đầu thành lập, cũng là người đã thành lập quỹ chống rủi ro của Griffin.
Các nhân viên của quỹ Medallion gồm có những nhà vật lý học thiên thể, nhà lý luận số học, chuyên gia máy tính và nhà ngôn ngữ học. Đơn xin việc của họ thường nói về một đề tài nghiên cứu khoa học của bản thân. Simons giải thích: "Những lợi thế mà các nhà khoa học mang đến cho công ty là khả năng tư duy một cách khoa học nhiều hơn là những kỹ năng về toán học hay vi tính mà họ có. Họ ít khi chấp nhận một chiến lược mà xác suất thành công chỉ là những may mắn theo thống kê."
Các công ty hoạt động dựa trên mua bán chứng khoán hưởng lợi theo chênh lệch giá thống kê cạnh tranh với nhau để khai thác những điểm thiếu hiệu quả của thị trường. Tất cả những công ty thành công đều thường xuyên đưa ra phần mềm của mình để bắt kịp sự thay đổi liên tục của thị trường cũng như bản chất luôn luôn biến động của sự cạnh tranh.
Một khía cạnh không thể giải thích được của thành tựu mà Thorp đạt được là khả năng liên tiếp nắm bắt được những điểm không hiệu quả của thị trường, năm này qua năm khác, khi một điểm nào đó không còn giá trị thì ông lại phát hiện ra một điểm khác. Đó là một khả năng thiên bẩm, cũng giống như việc tìm ra một định lý hay sáng tác nên những tác phẩm nhạc jazz xuất thần. Tuy nhiên, hoạt động mua bán chứng khoán hưởng lợi theo chênh lệch giá thống kê phần nào dễ hiểu hơn việc mua bán theo cảm tính của những nhà quản lý đầu tư bình thường. Nó là các thuật toán, những vụ giao dịch được hình thành từ những dãy số được máy tính mã hóa. Sự thành công của các công ty hoạt động theo phương thức này đã đưa đến tình huống luôn luôn tồn tại những điểm không hiệu quả của thị trường và phương pháp quản lý tiền bạc theo tiêu chuẩn Kelly có thể khai thác chúng để đạt được lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận thị trường mà không kèm theo rủi ro bị phá sản. Chính vì vậy mà những quỹ như Ridgeline, Medallion và Citadel đưa ra những thử thách cho những người theo thuyết hiệu quả thị trường, thậm chí còn rõ rệt hơn cả Berkshire Hathaway.
Tháng 5 - 1998, Thorp báo cáo danh mục đầu tư của ông đã đạt đến lợi nhuận hàng năm trung bình là 20% (với sai số tiêu chuẩn là 6%) trong suốt 28,5 năm. Ông viết: "Để phần nào thuyết phục mọi người rằng thành quả này không chỉ đơn thuần nhờ may mắn, tôi ước tính... mình đã kiếm được 80 tỉ đô la Mỹ từ những vụ mua bán cho các nhà đầu tư của tôi. Con số này chia ra tương đương 1,25 triệu vụ "đặt cược" cá nhân trị giá khoảng 65.000 đô la Mỹ mỗi vụ. Nói chung, có thể xem đó như một vụ đầu tư trong thời hạn vừa phải mà hiệu quả hoạt động có ý nghĩa nhiều hơn vận may."