Mặt tối của sự vô tận
Claude Shannon qua đời ngày 24 - 2 - 2001, cùng năm với sự kiên hội nghị HAL - 2001. Giữa hàng ngàn bản cáo phó, có một vài cái đề cập đến ảnh hưởng của Shannon tới việc suy nghĩ về cờ bạc và đầu tư của nhiều người. Elwyn Berlekamp viết: "Có lẽ ảnh hưởng của Shannon và Kelly đối với lĩnh vực tài chính bây giờ có thể được đo bằng những con số và chất lượng của những công ty hiện đang tuyển mộ các nhà toán học và lý thuyết thông tin trên phố Wall."
Tiếc rằng Shannon ít được chứng kiến sự phát triển của tài chính toán học hay những tiến bộ vượt bậc trong lý thuyết thông tin của thập niên 90. Trí nhớ của ông kém dần và được chẩn đoán là mắc bệnh Alzheimer. Có những lúc đang lái xe hơi, Shannon chợt nhận ra ông không biết mình đang đi đâu. Khi tập hợp những tác phẩm khoa học để đời của mình để phát hành, Shannon không tài nào nhớ được mình đã để hồ sơ, tài liệu ở những nơi nào. Đến khi tìm ra, ông lại không thể nhớ nổi để mà viết lại chúng.
Tuy vẫn rất khỏe mạnh nhưng Shannon thường bị lạc đường. Ông cũng không thể nhận ra những người con của mình. Đến năm 1993, Betty không còn lựa chọn nào khác hơn là gửi chồng mình vào viện Medford ở Massachusetts. Hàng ngày, bà đến thăm ông đều đặn. Cho đến những ngày cuối đời, Shannon vẫn hay mày mò, chỉnh sửa khung tập đi của các bệnh nhân khác và tháo tung những máy fax của nhà an dưỡng.
Ed Thorp đóng cửa Ridgeline Partners vào tháng 10 - 2002. Có vẻ như ông đã chọn đúng thời điểm để đưa ra quyết định này. Lợi nhuận đem lại từ những vụ đầu tư hưởng lợi nhuận từ chênh lệch theo giá cổ phiếu thống kê đã không còn đáng kể từ năm 2002. Có lẽ thị trường đã dần thích nghi - hay có thể nó đang chờ một phần mềm mới ưu việt hơn của một ai đó.
Gia đình nhà Thorp đã chu cấp tài chính cho một giáo sư ở khoa toán trường Đại học California, Irvine. Món quà gồm 1 triệu đô la được đầu tư hoàn toàn vào cổ phiếu, trường đại học chỉ được rút 2% một năm. Mọi người hy vọng rằng số tiền này sẽ tăng theo cấp số nhân tính theo đồng đô la đã được điều chỉnh theo lạm phát. Cuối cùng, Thorp hy vọng rằng số tiền này sẽ tài trợ cho các giáo sư đại học giỏi nhất thế giới đồng thời giúp thu hút những tài năng toán học đến với Đại học Cambridge tại Irviné.
Bên cạnh việc điều hành một quỹ chung của các quỹ và quản lý công việc đầu tư của mình, Thorp còn tìm kiếm thêm những cơ hội đầu tư và cá cược mới. Ông mô tả tỉ mỉ một điều mà ông vừa khám phá ra. Ông nói với tôi đó là một kiểu đánh bạc đang lan rộng, "một hình thức đã xuất hiện ở Đông bán cầu", có thể cần tới khoản vốn lên đến một triệu đô la. "Anh có thể kiếm được 2000 đô la một giờ nhưng đó là công việc. Nếu tôi có thể tìm ra cách tốt hơn để kiếm tiền thì sẽ hay ho lắm đấy. Tôi đã xây dựng xong một lý thuyết hoàn chỉnh rồi và không một ai biết được lý thuyết này đâu. Những người đang sử dụng hình thức cờ bạc này không biết gì hết."
---oOo--—-
Về tiêu chuẩn Kelly, vẫn tồn tại những ý kiến đối lập nhau. Mỗi bên có quá ít cơ sở lý luận để bảo vệ ý kiến của mình nhưng ai cũng tin là sớm muộn gì phe kia cũng bị dẹp bởi những thế hệ đi sau thôi.
Trong một lá thư gần đây, Samuelson nói với tôi rằng cứ mỗi phút lại có một kẻ dị giáo được sinh ra. Ông sử dụng từ "dị giáo" với ý là một người đăng ký học cách sử dụng toán lôgarit hoặc/và các hệ quả sai lầm. Khi tôi kể với Thomas Cover rằng tối đang viết một quyển sách về đề tài này, ông ấy cho rằng tôi đã có ruột câu chuyện, chỉ còn thiếu phần kết mà thôi. Cũng giống như nhiều người theo Kelly, Cover cho rằng câu chuyện chưa thực sự hoàn chỉnh vì thiếu những nhà kinh tế học chủ chốt nhưng lại chối bỏ những sai lầm của mình.
Những người sùng bái Kelly cảm thấy mình đang bị bao vây bởi sự thờ ơ và nghi ngờ. Nils Hakansson ước tính rằng có không hơn 10% các chương trình MBA có đoái hoài đến tiêu chuẩn Kelly (một thực tế mà ông cho là "đáng xấu hổ"). Năm 2003, Chủ tịch Bill Miller viết trong một bản báo cáo hàng năm về Legg Mason Value Trust như sau: "Tiêu chuẩn Kelly có vai trò quan trọng trong phương pháp quản lý tiền bạc của chúng ta". Nhưng ông cũng nói thêm "tôi đoán là hầu hết các nhà quản lý danh mục đầu tư lại không ý thức được điều này vì tiêu chuẩn Kelly không ra đời trong một tác phẩm kinh điển của Markowitz, Sharpe hay những học giả khác trong lĩnh vực tài chính," Jarrod Wilcox - một nhà quản lý đầu tư nói rằng chủ đề này vẫn còn "bỏ ngỏ".
Ý tưởng thường xuất hiện ở những nơi kì lạ nhất. Nó đã từng xuất hiện trong nhóm tiểu văn hóa những người định làm đông lạnh cơ thể với hy vọng sẽ được cứu sống nhờ sự tiến bộ của khoa học. (Chính Thorp cũng đã chuẩn bị để ướp lạnh cơ thể mình sau khi chết). Vấn đề nảy sinh không nghĩ tới là nhu cầu lập ra quỹ tiền trả cho những vụ làm lạnh đó. Art Quaife, giám đốc của Tổ chức Cry-onics Foundation quốc tế kiêm chủ tịch của Suspension Funds Investment Committee, lí luận rằng một chính sách đầu tư Kelly "nên khéo léo đánh bại những chính sách đầu tư được phát hành của những tổ chức tương tự khác."
Ở một mức độ nào đó thì tiêu chuẩn Kelly đã xâm nhập vào công ty số pi và bộ phận vàng như là một trong những ý tưởng toán học hiếm có có thể bao quát thu hút được trí tưởng tượng của những người ngoài lĩnh vực toán học. Có một điều gì đó đáng sợ về mối liên hệ "trùng hợp" giữa cờ bạc và thuyết làm nền tảng cho thời đại kỹ thuật số và sự kiện một quy tắc đơn giản lại trở thành tối ưu theo nhiều cách riêng biệt. Thomas Cover so sánh sự "trùng hợp" Kelly với cách mà số pi xuất hiện trong bối cảnh không liên quan gì đến quỹ đạo. "Khi một điều gì độ cứ tiếp tục diễn ra như thế", ông ta nói, "nó thường có nghĩa rằng điều này là nền tảng".
Cover cũng đang tự đi vào ngành kinh doanh quỹ chống rủi ro. Kế hoạch của ông là sử dụng thuật toán nén dữ liệu chung dành cho Internet để kiếm lợi nhuận từ những cặp cổ phiếu bất ổn. Khi tiếp thị về quỹ đầu tư của mình, Cover cảm thấy bất bình với các nhà kinh tế học được đào tạo thông thường hay những chuyên gia tư vấn tài chính. Đối với nhiều người trong giới tài chính, những cụm từ như "lý thuyết thông tin" và "dài hạn" vẫn bị tránh né. Một giáo sư trường Wharton, đại diện cho nhà đầu tư tiềm năng Gordon Getty chất vấn Cover (người đã không đầu tư). Giáo sư Wharton phản đối ý kiến của Cover về tỉ lệ lợi nhuận kép khi thời gian tiến tới vô hạn. Ông ta nói cho Cover biết rằng "Có một mặt tối về vô định"
Paul Wilmott viết rằng "cuộc đời, và mọi thứ trong đó đều được dựa trên cơ hội bán mua chênh lệch giá và sự khai thác chúng". Cách nhìn mang tính chất riêng tư này thú vị vì sự bộc trực của nó. Những người bảo vệ thị trường tự do thường tôn nhiều công sức để kiên quyết rằng giá thị trường là giá "hợp lý" và không ai "khai thác" ai hết. Thay vào đó, Wilmott lại đề nghị rằng nhiều người tham gia thị trường lúc nào cũng cố gắng lợi dụng tối đa những người biết ít hơn họ. Chúng ta không thể đi xa hơn để hiểu thị trường bằng cách giả vờ. Hình mẫu được thực thi là người đánh bạc theo tiêu chuẩn Kelly, hay có thể là The Gambler của Dostoyevsky (người mà cảm thấy rằng "không chỉ khi ở bàn roullet mà ở bất cứ nơi nào, con người ta không làm gì khác ngoài việc cố gắng đạt được hay vắt ra được một thứ gì đó từ người khác").
"Bạn đã nghe nói về sự thay đổi của mô hình Kuhn rồi chứ? Đó chính là những gì đang diễn ra ở đây," Jarrod Wilcox nói trong một cuộc tranh cãi gần đây về sự tiếp diễn của tiêu chuẩn Kelly. "Chỉ đến khi bạn được một trong những ngọn đèn sáng dẫn đầu ở MIT hay Stanford chứng thực cho nó, nếu không bạn sẽ chẳng thể có được sự thay đổi mô hình này... Ở một góc độ thi tôi đã dám nộp bài viết cho "The Journal of Finance". Và lời bình là: 'Điều này mâu thuẫn với mọi thứ chúng ta được học trong lĩnh vực tài chính. Thật sự không phải như vậy. Nhưng nó trái ngược với quá nhiều thứ được thiết lập vững bền đến nỗi trở nên không hợp lí."