ĐÊM THỨ NĂM
Ngài Gia Bảo.
Thưa ngài.
Khi ngài đến đây, ngài sẽ nghe kể người Ấn chúng tôi đã phát minh ra mọi thứ, từ Internet đến món trứng luộc cho tới tàu không gian trước khi người Anh đánh cắp tất cả từ chúng tôi.
Nhảm nhí. Thứ vĩ đại nhất đến từ đất nước này trong mười nghìn năm lịch sử chính là chiếc Chuồng Gà.
Hãy đến Old Delhi, phía sau Jama Masjid, và xem người ta nhốt gà như thế nào tại cái chợ ở đấy. Hàng trăm con gà mái tím tái và gà trống sặc sỡ, bị nhồi nhét vào những chiếc chuồng bọc lưới, chật cứng như ổ giun trong bụng, mổ nhau và ị lên nhau, chòi đạp để có chỗ thở; cả chiếc chuồng bốc lên mùi hôi kinh tởm - mùi của những súc thịt lông lá khiếp đảm. Chiếc bàn gỗ phía trên cái chuồng là một gã trai mổ gà cười nhăn nhở, giơ ra thịt thà nội tạng của một con gà mới bị chặt miếng, hẵng còn nhoe nhớp một lớp máu đen. Lũ gà trong chuồng ngửi thấy mùi máu ở trên. Chúng thấy ruột gan của anh em mình la liệt xung quanh. Chúng biết tiếp theo sẽ đến lượt chúng. Nhưng chúng không nổi loạn. Chúng không tìm cách thoát khỏi chuồng.
Điều tương tự cũng được áp dụng với con người ở đất nước này.
Hãy quan sát những con đường vào buổi tối ở Delhi; sớm muộn ngài sẽ thấy một phu xe đang đạp xe lôi trên đường, với một chiếc giường vĩ đại, hoặc một chiếc bàn buộc vào cỗ xe gắn với chiếc xe đạp của y. Hằng ngày con người này, gã giao hàng, chở đồ đạc đến nhà người khác. Một chiếc giường giá năm nghìn rupee, có khi sáu nghìn. Thêm mấy chiếc ghế, và một chiếc bàn cà phê, giá mười hoặc mười lăm nghìn. Người đạp xe lôi, đem đến cho ngài chiếc giường này, bàn ghế này, một người nghèo mỗi tháng kiếm được chừng năm trăm rupee. Y tháo đồ đạc xuống cho ngài, rồi ngài trả tiền cho y - một cọc tiền mặt dày bằng cục gạch. Y cho tiền vào túi, hoặc vào áo, hoặc vào đồ lót, rồi đạp xe về chỗ chủ mình và giao lại nó mà không chạm đến một đồng rupee nào cả! Tiền lương của một năm, hai năm trong tay y, mà y chẳng đời nào lấy một rupee từ đấy.
Mỗi ngày, trên những con đường ở Delhi, một người tài xế lái chiếc xe hơi trống rỗng với một vali đen ở băng ghế sau. Bên trong chiếc vali đó là một triệu, hai triệu rupee; nhiều hơn toàn bộ số tiền mà người tài xế ấy sẽ thấy trong suốt cuộc đời mình. Nếu lấy tiền đó y có thể đi Mỹ, Úc, bất kì đâu, và bắt đầu một cuộc sống mới. Y có thể đi vào những khách sạn năm sao mà y đã ao ước cả đời và chỉ mới được nhìn thấy từ bên ngoài. Y có thể đưa gia đình mình đến Goa, đến Anh. Vậy mà y lại đem chiếc vali đen đến nơi ông chủ muốn. Y đặt nó xuống đúng nơi, và không bao giờ chạm vào một đồng rupee. Tại sao?
Vì người Ấn là dân tộc trung thực nhất thế giới, như quyển sách giới thiệu của thủ tướng sẽ nói với ngài?
Không. Đó là vì 99,9% chúng tôi bị kẹt trong Chuồng Gà như những con gà đáng thương nọ ở chợ gia cầm.
Chuồng Gà không phải lúc nào cũng có tác dụng đối với những khoản tiền lặt vặt. Đừng thử lòng tài xế của ngài với một hai đồng rupee - y có thể sẽ ăn cắp ngần ấy. Nhưng hãy để một triệu rupee trước mặt một tên đầy tớ xem, y sẽ không đụng đến một xu. Hãy thử xem: để lại chiếc túi đen với cả triệu đô la trong một chiếc taxi ở Mumbai. Tài xế taxi sẽ gọi cảnh sát và trả lại số tiền nội trong hôm đó. Tôi đảm bảo như thế. (Nhưng cảnh sát có trả lại tiền đó cho ngài hay không lại là chuyện khác, thưa ngài!) Giới chủ tin cậy giao cả kim cương cho đầy tớ ở đất nước này! Thật vậy. Hằng đêm trên chuyến tàu rời Surat, nơi có ngành công nghiệp cắt gọt và đánh bóng kim cương lớn nhất thế giới, đám tôi tớ của cánh lái buôn kim cương đem những chiếc túi chứa đầy kim cương đã cắt để giao cho một người nào đó ở Mumbai. Tại sao người đầy tớ không lấy chiếc túi đầy kim cương ấy? Y đâu phải là Gandhi, y cũng là người, cũng giống ngài và tôi. Nhưng y lại ở trong Chuồng Gà. Độ tin cậy của đầy tớ chính là nền tảng của toàn bộ nền kinh tế Ấn Độ.
Chiếc Chuồng Gà Ấn Độ Vĩ Đại. Ở Trung Quốc ngài cũng có thứ tương tự như thế chứ? Tôi nghi ngờ lắm đấy, ngài Gia Bảo. Ở đây, tại Ấn Độ, chúng tôi không có chế độ độc tài. Không có cảnh sát chìm.
Đó là vì chúng tôi có chuồng gà.
Chưa bao giờ trong lịch sử loài người lại có chuyện một nhóm ít ỏi nợ quá nhiều với nhiều người như thế, thưa ngài Gia Bảo. Một nhúm người trong đất nước này đã huấn luyện cho 99,9% người còn lại - những kẻ khỏe mạnh, tài năng và thông minh trên mọi phương diện - tồn tại trong tình trạng nô lệ vĩnh viễn; một sự nô dịch kiên cố đến nỗi ngài có thể đặt chiếc chìa khóa giải thoát vào tay của một người và y sẽ ném trả lại ngài kèm một lời nguyền rủa.
Ngài phải đến đây và tận mắt chứng kiến thì mới tin được. Hằng ngày hàng triệu con người thức dậy lúc bình minh - đứng trong những chiếc xe buýt bẩn thỉu, chật chội - xuống xe ở ngôi nhà bóng lộn của chủ họ - rồi sau đó lau nhà, rửa bát, trồng cây, cho trẻ con ăn, bóp chân cho chủ - tất cả chỉ để đổi lại một khoản lương còm. Tôi sẽ không bao giờ ganh tỵ với người giàu ở Mỹ hoặc Anh, thưa ngài Gia Bảo: họ chẳng có tôi tớ gì ở đấy cả. Họ thậm chí còn không biết bắt đầu nhận ra thế nào là một cuộc sống tốt đẹp.
Bây giờ, là một người biết tư duy như ngài, ngài Gia Bảo, phải hỏi hai điều.
Tại sao Chuồng Gà có tác dụng? Làm sao mà nó nhốt được hàng triệu người đàn ông, đàn bà hiệu quả đến vậy?
Thứ hai, người ta có thể thoát khỏi chuồng không? Sẽ ra sao nếu một ngày, chẳng hạn, một tài xế lấy tiền của chủ mình rồi bỏ trốn? Cuộc sống của y sẽ thế nào?
Tôi sẽ trả lời cả hai câu hỏi cho ngài, thưa ngài.
Đáp án cho câu hỏi thứ nhất là, chính niềm tự hào và vinh quang của dân tộc chúng tôi, nơi kí thác toàn thể lòng yêu thương và sự hi sinh của chúng tôi, chủ đề chiếm một diện tích chắc chắn đáng kể trong tờ rơi mà thủ tướng sẽ đưa cho ngài, gia đình Ấn Độ, là lý do khiến chúng tôi bị nhốt và trói buộc vào chiếc chuồng.
Đáp án cho câu hỏi thứ hai là, chỉ có kẻ đang tâm nhìn thấy gia đình mình bị hủy diệt - bị săn đuổi, đánh đập và đốt sống bởi chủ của mình - mới dám phá cũi sổ lồng. Làm được điều đó chẳng phải người bình thường, mà là một tên quái đản, một dị nhân của tạo hóa.
Làm được điều đó phải là một con Cọp Trắng. Ngài đang lắng nghe câu chuyện của một doanh nhân xã hội, thưa ngài.
***
Trở lại chuyện của tôi.
Có một biển hiệu trong Vườn thú quốc gia ở New Delhi, gần chuồng con cọp trắng, viết rằng: Hãy tưởng tượng chính mình ở trong chuồng.
Khi tôi nhìn thấy biển hiệu ấy, tôi nghĩ, Mình làm được - Mình làm được chẳng khó khăn gì.
Suốt một ngày tôi ở trong căn phòng bẩn thỉu của mình, thu chân lên ngực, ngồi bên trong chiếc màn chắn muỗi, sợ đến nỗi không dám rời phòng. Chẳng có ai bảo tôi lái xe. Chẳng có ai xuống thăm tôi.
Cuộc đời tôi đã bị viết khác đi. Tôi sẽ phải đi tù vì tội giết người mà tôi không phạm phải. Tôi bị khủng hoảng, vậy mà ý nghĩ bỏ trốn chưa một lần nảy sinh trong đầu tôi. Chưa một lần suy nghĩ, Mình sẽ nói sự thật với thẩm phán, hiện ra trong tâm trí tôi. Tôi đã bị nhốt trong Chuồng Gà.
Trại giam sẽ như thế nào? Đó là tất cả những gì mà tôi có thể nghĩ đến. Tôi sẽ phải dùng chiến thuật nào để thoát khỏi những kẻ to cao, lông lá, cáu bẩn mà tôi sẽ gặp ở trong đấy?
Tôi nhớ lại một câu chuyện từ Tuần san Giết người kể về một người bị tống vào tù giả vờ mình bị AIDS để khỏi bị kẻ nào chơi. Quyển tạp chí ấy đâu rồi - giá mà tôi có nó ở đây bây giờ, tôi có thể sao chép chính xác câu chữ của y, cử chỉ của y! Nhưng nếu tôi nói mình bị AIDS, liệu bọn chúng có cho rằng tôi là thằng chơi bời phóng đãng - và còn chơi tôi hơn nữa?
Tôi bị nhốt. Qua những lỗ kim trên màn, tôi ngồi ngó trừng trừng vào những dấu vết của bàn tay vô danh đã gắn tấm thạch cao lên tường trong phòng.
“Chuột Đồng!”
Môi Bạch Biến đã đến trước cửa phòng tôi.
“Chủ mày đang rung chuông như điên kìa.”
Tôi vùi đầu vào gối.
Hắn đi vào phòng và áp khuôn mặt đen với đôi môi hồng lên tấm màn. “Chuột Đồng, mày ốm hả? Bệnh thương hàn à? Hay là tiêu chảy? Sốt xuất huyết?”
Tôi lắc đầu. “Tao không sao.”
“Vậy thì được rồi.”
Với một nụ cười toe toét trên đôi môi bệnh, hắn bỏ đi.
Tôi đi lên như một kẻ tiến đến giá treo cổ - leo cầu thang, vào khu chung cư, rồi đi thang máy lên tầng mười ba.
Cầy Mangut mở cửa. Lần này trên mặt ông ta chẳng nở nụ cười - không một dấu hiệu cho thấy ông ta đã tính toán gì cho tôi.
“Mày đi gì mà lâu thế. Bố đến đây rồi. Ông muốn nói chuyện với mày.”
Tim tôi đập loạn xạ. Lão Cò đang ở đây! Lão sẽ cứu tôi! Lão không phải đồ vô dụng, như hai con trai mình. Lão là ông chủ đời cũ. Lão biết lão phải bảo vệ đầy tớ của mình.
Lão đang ngồi trên ghế sofa, đôi chân nhợt nhạt duỗi ra. Vừa trông thấy tôi, khuôn mặt lão nở ra một nụ cười tươi rói, và tôi nghĩ, Lão đang cười vì lão đã cứu mình! Nhưng lão địa chủ già chẳng nghĩ gì đến tôi cả. Ôi, không, lão đang nghĩ đến những thứ quan trọng hơn nhiều so với cuộc đời của tôi. Lão chỉ xuống hai thứ quan trọng ấy.
“A, Balram, chân ta thật tình cần được xoa bóp đấy. Cả một chuyến đi dài bằng tàu hỏa.”
Tay tôi run lên khi mở vòi nước nóng trong phòng tắm. Nước chạm đáy xô và bắn tung tóe ra chân tôi, khi nhìn xuống tôi thấy chúng đang run lập cập. Một dòng nước tiểu đang chảy xuống.
Một phút sau, với nụ cười rạng rỡ trên mặt, tôi đến nơi lão Cò đang ngồi và đặt xô nước nóng xuống gần lão.
“Ông hãy cho chân vào ạ.”
“Ôi,” lão nói và nhắm mắt lại; môi lão hé mở và lão bắt đầu rên nho nhỏ, thưa ngài, âm thanh rên rỉ ấy khiến tôi bóp chân lão mạnh hơn; toàn thân tôi bắt đầu rung lên khi làm thế, đầu tôi va vào hai bên đầu gối lão.
Cầy Mangut và ông Ashok đang ngồi trước màn hình tivi, chơi game vi tính với nhau.
Cửa phòng ngủ bật mở, bà Pinky bước ra. Bà không trang điểm, khuôn mặt trông thật nhếch nhác - quầng thâm dưới mắt, vết nhăn trên trán. Vừa trông thấy tôi, bà trở nên kích động.
“Các người nói với tài xế chưa?”
Lão Cò chẳng nói gì. Ông Ashok và Cầy Mangut tiếp tục chơi game. “Chưa ai nói với nó hết à? Đùa cái đ. gì thế! Nó chính là người suýt phải vào tù!”
Ông Ashok nói, “Em nghĩ mình nên nói với cậu ấy.” Ông ta nhìn anh trai, ông này vẫn đang dán mắt vào màn hình tivi.
Cầy Mangut đáp, “Được.”
Ông Ashok quay sang tôi.
“Chúng ta có người quen trong cảnh sát - người này nói không có ai trình báo chứng kiến vụ tai nạn. Vì thế sự giúp đỡ của cậu không cần thiết nữa, Balram à.”
Tôi cảm thấy nhẹ nhõm khủng khiếp đến nỗi đột ngột vung tay, khiến xô nước ấm đổ ra, và sau đó tôi bò người để dựng cái xô lên. Lão Cò mở mắt, đánh vào đầu tôi, rồi mắt lại nhắm nghiền.
Bà Pinky đứng nhìn; khuôn mặt biến sắc. Bà chạy về phòng đóng sầm cửa lại. (Ai có ngờ, thưa ngài Gia Bảo, rằng trong toàn thể gia đình này, quý bà mặc váy ngắn đây lại chính là người có lương tâm?)
Lão Cò nhìn theo khi bà đi vào phòng ngủ rồi nói, “Nó điên rồi, con đàn bà này. Muốn tìm gia đình của đứa bé để bồi thường - điên rồ. Làm như ở đây đều là sát nhân hết cả.” Lão nghiêm khắc nhìn ông Ashok. “Anh cần kiểm soát vợ mình kĩ hơn, con trai ạ. Theo kiểu chúng ta làm ở làng ấy.”
Đoạn lão vỗ nhẹ lên đầu tôi và bảo, “Nước lạnh rồi.”
Ba ngày sau đó, sáng nào tôi cũng xoa bóp chân cho lão. Một buổi sáng nọ, lão bị đau ở dạ dày, vì thế Cầy Mangut bảo tôi chở lão đến Max, một trong những bệnh viện tư nổi tiếng nhất Delhi. Tôi đứng bên ngoài nhìn Cầy Mangut và lão già đi vào trong tòa nhà bằng kính đẹp lộng lẫy. Bác sĩ đi vào đi ra với áo choàng trắng và ống nghe trong túi. Khi tôi nhìn trộm vào trong, sảnh đợi của bệnh viện trông sạch sẽ như sảnh đợi của một khách sạn năm sao.
Ngày hôm sau chuyến đi bệnh viện, tôi chở lão Cò và Cầy Mangut ra ga tàu hỏa, mua thức ăn nhẹ mà họ cần trong chuyến tàu về quê, chờ tàu lăn bánh, rồi lái xe về, lau sạch xe, đến một đền Hanuman gần nhà để cầu nguyện tạ ơn, trở về phòng mình và ngả lưng xuống trong chiếc màn chắn muỗi, mệt nhừ tử.
Khi tôi tỉnh dậy, có người đang đứng trong phòng tôi, bật rồi tắt đèn.
Đó là bà Pinky.
“Chuẩn bị đi. Mày sẽ chở tao đi.”
“Vâng, thưa bà,” tôi đáp, tay dụi mắt. “Mấy giờ rồi ạ?”
Bà đặt một ngón tay lên môi.
Tôi mặc áo sơ mi, đánh xe ra, đến trước tòa nhà. Bà xách một chiếc túi trong tay.
“Đi đâu ạ?” tôi hỏi. Lúc đó là hai giờ sáng.
Bà ta trả lời, rồi tôi hỏi, “Ông không đi ạ?”
“Cứ lái xe đi.”
Tôi chở bà đến sân bay, không hỏi han gì.
Khi xuống xe tại sân bay, bà ta nhét một phong bì nâu vào cửa xe tôi - rồi đóng sầm cửa bỏ đi.
Và cuộc hôn nhân của ông chủ tôi đã kết thúc như thế, thưa ngài.
Các tài xế khác có kĩ thuật để kéo dài hôn nhân của ông bà chủ mình. Một đứa bảo với tôi rằng hễ hai người cãi nhau chí tử thì nó lại tăng tốc, để họ chóng về nhà; mỗi khi họ tình tứ thì nó lái xe chậm lại. Nếu họ quát nhau thì nó hỏi họ đi hướng nào; nếu họ hôn nhau thì nó vặn nhạc to lên. Tôi cảm thấy một phần trách nhiệm thuộc về mình, khi cuộc hôn nhân của họ tan vỡ trong thời gian tôi làm tài xế.
Sáng hôm sau, ông Ashok gọi tôi lên căn hộ.
Khi tôi gõ cửa, ông túm ngay cổ áo tôi kéo vào trong.
“Sao mày không nói với tao?” ông nói, siết chặt cổ áo khiến tôi suýt ngạt thở. “Sao không đánh thức tao dậy ngay?”
“Thưa ông... bà nói... bà nói... bà nói...”
Ông túm lấy tôi ấn xuống lan can căn hộ. Cuối cùng thì gã địa chủ trong người ông chưa chết.
“Tại sao mày lại chở cô ấy đến đấy, thằng khốn nạn?”
Tôi quay đầu lại - sau tôi là những tòa nhà bóng lộn và các trung tâm mua sắm của Gurgaon.
“Mày muốn hủy hoại danh dự gia đình tao phải không?”
Ông ấy đẩy tôi mạnh hơn vào lan can, đầu và ngực tôi bấy giờ đã rơi ra phía ngoài, và nếu ông ấy đẩy tôi dù chỉ một chút nữa thôi thì thực tình tôi có nguy cơ bay xuống đất. Tôi thu chân đá vào ngực ông ấy - ông lảo đảo lùi lại đụng vào cánh cửa kéo bằng kính ngăn giữa nhà và ban công. Cả hai thở hổn hển.
“Ông không thể trách con, thưa ông!” tôi hét lên. “Con chưa bao giờ nghe nói đến chuyện đàn bà bỏ chồng đi luôn! Ý con là, thì cũng có trên tivi, nhưng không có ngoài đời! Con chỉ làm những gì bà bảo thôi.”
Một con quạ đáp xuống ban công và cất tiếng kêu. Hai chúng tôi quay sang nhìn nó.
Sau đó cơn điên loạn của ông cũng qua. Ông lấy tay ôm mặt và bắt đầu khóc nức nở.
Tôi chạy xuống phòng mình. Tôi chui vào màn chắn muỗi rồi ngồi trên giường. Tôi đếm đến mười để đảm bảo ông ấy không đi theo. Sau đó, thò tay xuống dưới giường, tôi lấy chiếc phong bì màu nâu và mở ra.
Bên trong nhét đầy tờ bạc mệnh giá một trăm rupee.
Bốn mươi bảy tờ cả thảy.
Tôi nhét phong bì xuống dưới giường: có người đang đi về phòng tôi. Bốn đứa tài xế bước vào.
“Kể cho bọn tao nghe nào, Chuột Đồng.”
Bọn chúng đứng xung quanh tôi.
“Kể cái gì?”
“Tay gác cổng xì chuyện ra rồi. Chẳng có bí mật gì ở đây cả. Mày chở bà ấy đi đâu hồi tối qua rồi trở về một mình. Bà ta bỏ ông ấy rồi à?”
“Tao không biết bọn mày đang nói gì.”
“Bọn tao biết họ đã cãi nhau, Chuột Đồng ạ. Rồi mày chở bà ấy đi đâu hồi tối. Sân bay phải không? Bà ấy đi rồi, phải không? Một vụ li dị - đàn ông nhà giàu ngày nay ai cũng li dị vợ hết. Mấy người giàu này...” Hắn lắc đầu. Đôi môi cong lên khinh bỉ, để lộ nướu răng đỏ sẫm, bị trầu làm mục. “Chẳng có tôn trọng thánh thần, hôn nhân, gia đình - chẳng gì hết.”
“Bà ta chỉ ra ngoài để hít thở chút không khí trong lành thôi. Rồi tao chở bà về. Tay gác cổng ấy mù rồi.”
“Trung thành đến chết. Thời buổi này đâu có ai làm đầy tớ như mày nữa.”
Tôi chờ tiếng chuông reo suốt buổi sáng - nhưng nó không reo. Đến chiều, tôi đi lên tầng mười ba, bấm chuông và đợi cửa. Ông ấy mở cửa, hai mắt đỏ ngầu.
“Có chuyện gì?”
“Không có gì ạ, thưa ông. Con đến để... nấu bữa trưa.”
“Không cần đâu.” Tôi nghĩ ông sẽ xin lỗi vì suýt giết tôi, nhưng ông chẳng nói gì về chuyện ấy.
“Thưa ông, ông phải ăn. Nhịn đói không tốt cho sức khỏe... Xin ông làm ơn.”
Thở dài, ông để tôi vào.
Giờ thì bà ta đã đi, tôi biết mình có bổn phận giống như người vợ đối với ông ấy. Tôi phải đảm bảo ông ăn ngủ tử tế, không bị gầy đi. Tôi làm bữa trưa, dọn cho ông ăn, rồi rửa bát. Sau đó tôi đi xuống và chờ chuông reo. Lúc tám giờ, tôi đi thang máy lên lần nữa. Áp tai vào cửa, tôi nghe ngóng.
Chẳng có gì. Tịnh không tiếng động.
Tôi bấm chuông: không trả lời. Tôi biết ông ấy không thể nào đi ra ngoài - dù gì tôi cũng là tài xế của ông ấy. Ông có thể đi đâu mà không có tôi?
Cửa mở. Tôi bước vào.
Ông nằm dưới tấm hình đóng khung của hai con chó Pomeran, một cái chai nằm trên chiếc bàn gỗ gụ trước mặt, hai mắt nhắm nghiền.
Tôi ngửi cái chai. Whisky. Gần hết. Tôi đưa nó lên mồm nốc sạch chỗ còn lại.
“Ông ơi,” tôi gọi, nhưng ông ấy không tỉnh dậy. Tôi ấn vào người ông. Tôi tát vào mặt ông. Ông ấy liếm môi, rít răng. Ông ấy sắp tỉnh, nhưng tôi vẫn tát ông thêm cái nữa.
(Một thói quen của đầy tớ lâu năm. Tát mặt chủ khi ông ta đang ngủ. Giống như nhảy lên gối khi chủ không có ở đấy. Hay tiểu tiện lên cây cối của họ. Hoặc là đánh, đá chó cưng của họ. Thú vui của những đầy tớ thơ ngây.)
Tôi lôi ông ấy vào phòng ngủ, kéo chăn đắp lên người, tắt đèn, rồi đi xuống. Tối nay sẽ chẳng phải lái xe đi đâu, vì thế tôi đi đến Cửa hàng rượu Anh “Action”. Mũi tôi vẫn còn nồng nặc mùi rượu whisky của ông Ashok.
Chuyện tương tự cũng xảy ra đêm hôm sau.
Đêm thứ ba ông ấy cũng say khướt, nhưng còn tỉnh táo.
“Chở ta,” ông ta bảo. “Đi bất kì nơi nào cậu muốn. Đến khu mua sắm. Đến khách sạn. Đâu cũng được.”
Tôi chở ông lòng vòng quanh những khu mua sắm và khách sạn hào nhoáng ở Gurgaon, ông ngồi rũ rượi ở băng ghế sau - đến điện thoại cũng không buồn nhấc lên, dù chỉ một lần.
Khi cuộc sống của chủ bị đảo lộn, cuộc sống của đầy tớ cũng thế. Tôi nghĩ, Có thể ông ấy chán Delhi rồi. Liệu ông ấy có trở về Dhanbad không nhỉ? Khi đó thì chuyện gì sẽ xảy ra với mình? Bụng dạ tôi rối bời. Tôi nghĩ mình sẽ phọt cứt ra ngay đấy, lên yên xe, lên hộp số.
“Dừng xe lại,” ông bảo.
Ông mở cửa xe, đặt tay lên bụng, cúi xuống nôn ra đất. Tôi lấy tay lau miệng cho ông, giúp ông ngồi xuống bên vệ đường. Xe cộ lao ầm ĩ qua chúng tôi. Tôi vỗ lưng ông.
“Ông uống nhiều quá, thưa ông.”
“Tại sao đàn ông lại uống rượu, hở Balram?”
“Con không biết ạ.”
“Dĩ nhiên rồi, ở giai cấp của cậu thì biết gì... Để ta nói cho mà nghe, Balram. Đàn ông uống rượu vì họ chán ngán cuộc sống. Ta nghĩ ngày nay giai cấp và tín ngưỡng chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Bố ta bảo, “Không, đừng cưới nó, nó khác...” Ta...”
Ông Ashok quay mặt đi, tôi xoa lưng ông, nghĩ ông sắp nôn lần nữa, nhưng cơn co thắt qua đi.
“Đôi khi ta thắc mắc, Balram ạ. Ta thắc mắc cuộc sống có ý nghĩa gì. Ta thực sự thắc mắc...”
Cuộc sống có ý nghĩa gì ư? Tim tôi đập thình thịch. Ý nghĩa cuộc sống của ông là nếu ông chết đi, ai sẽ trả tôi ba nghìn rưỡi rupee một tháng?
“Ông phải tin vào Thượng đế, thưa ông. Ông phải sống tiếp. Bà của con nói nếu tin vào Thượng đế thì phúc lành sẽ đến.”
“Đúng đấy, rất đúng. Chúng ta phải tin tưởng,” ông nức nở.
“Có lần một người nọ không còn tin vào Thượng đế, ông biết chuyện gì xảy ra không?”
“Chuyện gì?”
“Con trâu của người đó lăn ra chết.”
“Ta hiểu rồi.” Ông bật cười. “Ta hiểu.”
“Đúng đấy ông ạ, chuyện đấy có thật. Ngày hôm sau người ấy nói, “Thưa Thượng đế, con xin lỗi, con tin vào Người,” và đố ông chuyện gì xảy ra?”
“Con trâu của người ấy sống lại?”
“Chính xác!”
Ông ấy lại cười. Tôi kể cho ông nghe một câu chuyện khác, và nó làm ông cười nhiều hơn.
Đã bao giờ có một mối quan hệ chủ-tớ như thế này? Ông ấy quá ư yếu đuối, quá ư lạc lõng, trái tim tôi chỉ muốn tan chảy. Mọi cảm giác tức giận vì ông ấy đã tìm cách đổ tội đâm xe chết người rồi bỏ trốn của bà Pinky cho tôi đều biến mất vào tối hôm ấy. Đó là lỗi của bà ta. Ông Ashok đâu có tội tình gì. Tôi hoàn toàn tha thứ cho ông ấy.
Tôi kể cho ông nghe về sự thông thái của làng tôi - nửa nhắc lại những gì bà nội đã kể mà tôi nhớ, nửa tự nghĩ ra tại chỗ - và ông gật đầu. Cảnh ấy gợi đến một đoạn trong Bhagavad Gita[21], khi thần Krishna - một người lái xe lừng danh sử sách - dừng cỗ xe đang đánh và cho hành khách của mình lời khuyên tuyệt vời về sự sống và cái chết. Như Krishna, tôi nói chuyện triết lí - tôi pha trò - thậm chí tôi hát - tất cả để làm ông Ashok thấy thư thái hơn.
Bé con, tôi nghĩ trong lúc xoa lưng ông ấy khi ông ọe và nôn ra lần nữa, bé con to xác đáng thương.
Tôi đưa tay lau chất nôn trên môi ông, rồi nói những câu vỗ về. Tim tôi thắt lại khi chứng kiến ông phải khổ sở thế này - nhưng từ lúc nào mối lo lắng thực tâm của tôi dành cho ông chấm dứt và từ đâu lợi ích bản thân tôi trỗi dậy, tôi cũng không biết: không một đầy tớ nào có thể nói trong thâm tâm y có động cơ gì.
Chúng tôi căm ghét chủ mình đằng sau vẻ ngoài yêu mến - hay là chúng tôi yêu mến họ đằng sau vẻ ngoài căm ghét?
Chiếc Chuồng Gà giam hãm đã khiến chúng tôi trở nên khó hiểu với chính mình.
Ngày hôm sau tôi đến một ngôi đền bên đường ở Gurgaon. Tôi đặt một rupee trước hai cặp mông thần được thờ ở đấy rồi cầu nguyện bà Pinky và ông Ashok sẽ đoàn viên, sống cuộc đời hạnh phúc bên nhau tại New Delhi.
***
Một tuần lễ trôi qua như thế, và rồi Cầy Mangut xuất hiện từ Dhanbad. Ông Ashok cùng tôi đến ga tàu để đón ông ta.
Ông ta vừa đến, mọi thứ đối với tôi thay đổi. Sự thân mật giữa tôi và ông Ashok chấm dứt.
Một lần nữa, tôi chỉ là thằng tài xế. Một lần nữa, tôi chỉ là kẻ nghe lỏm.
“Em nói chuyện với cô ấy tối hôm qua rồi. Cô ấy sẽ không quay về Ấn Độ nữa. Bố mẹ cô ấy rất hài lòng với quyết định của con. Chuyện chỉ có thể kết thúc theo cách này.”
“Đừng lo lắng gì về chuyện ấy cả, Ashok ạ. Không sao đâu. Và đừng gọi cho nó nữa. Anh sẽ lo liệu từ Dhanbad. Nếu nó làm ầm ĩ đòi tiền của chú, anh chỉ cần nhẹ nhàng nhắc lại chuyện đâm xe rồi bỏ trốn, thấy chưa?”
“Em không lo về chuyện tiền nong, anh Mukesh...”
“Anh biết, anh biết.”
Cầy Mangut đặt tay lên vai ông Ashok - như Kishan từng nhiều lần đặt lên vai tôi.
Xe chạy ngang qua một khu ổ chuột: đó là một dãy lều tạm bợ của những công nhân làm việc ở một công trường nào đó. Cầy Mangut nói gì đấy, nhưng ông Ashok không chú tâm - ông đang nhìn ra ngoài cửa sổ. Mắt tôi tuân theo mắt ông ấy. Tôi thấy những cái bóng san sát nhau của dân cư khu ổ chuột trong các túp lều; ngài có thể nhận ra một gia đình - một người chồng, một người vợ, một đứa con - tất cả quây quần quanh bếp lò trong một túp lều, thắp sáng bằng một chiếc đèn vàng. Mối thâm tình quá ư trọn vẹn - trọn vẹn đến đau lòng. Tôi hiểu những gì ông Ashok đang trải qua. Ông nhấc tay lên - tôi chuẩn bị chờ cái chạm tay của ông - nhưng ông đã quàng nó qua vai Cầy Mangut.
“Khi còn ở Mỹ, em nghĩ gia đình là gánh nặng, em không phủ nhận chuyện đó. Khi anh và Bố tìm cách ngăn cản em cưới Pinky vì cô ấy không phải tín đồ Ấn Độ giáo, em đã rất giận hai người, em không phủ nhận chuyện đó. Nhưng nếu không có gia đình thì một thằng đàn ông chẳng là cái gì cả. Hoàn toàn chẳng là cái đinh gì. Em chẳng có gì ngoài cậu tài xế này trước mặt em trong năm đêm liền. Bây giờ thì ít ra em cũng có một người nào đó thực sự bên cạnh: anh.”
Tôi đi lên căn hộ cùng họ; Cầy Mangut muốn tôi nấu cho ông ta ăn, tôi làm món daal và chapatis[22], kèm một đĩa đậu bắp. Tôi phục vụ họ, sau đó rửa dao đĩa.
Suốt bữa tối, Cầy Mangut bảo, “Ashok, nếu chú bị trầm cảm, sao không thử tập yoga và ngồi thiền? Có một ông thầy dạy yoga trên ti vi, hay lắm - mỗi buổi sáng trong chương trình ông ấy làm thế này này.” Ông ta nhắm mắt lại, hít vào, rồi từ từ thở ra, nói, “Ooooooom.”
Khi tôi rời khỏi nhà bếp, lau tay vào đùi quần, Cầy Mangut bảo, “Đợi đã.”
Ông ta lấy ra một tờ giấy từ trong túi rồi vẫy nó với một nụ cười toe toét, như thể đấy là phần thưởng cho tôi.
“Mày có thư của bà đây. Tên bà ta là gì ấy nhỉ?”
Ông ta xé toạc bì thư bằng ngón tay múp míp đen sì.
“Kusum, thưa ông.”
“Một bà già đặc biệt,” ông ta nói, chà xát cánh tay mình.
Tôi đáp, “Thưa ông, không cần mất công ông đâu ạ. Con đọc được.”
Ông ta mở thư ra, bắt đầu đọc to lên.
Ông Ashok nói tiếng Anh - và tôi đoán ông ấy nói: “Cậu ấy không có quyền đọc thư riêng của mình sao?”
Anh của ông ấy đáp bằng tiếng Anh, và một lần nữa tôi đoán thay vì hiểu, ý câu nói đó: “Nó không bận tâm mấy chuyện này đâu. Nó làm gì biết đến hai chữ riêng tư. Trong làng không có phòng riêng nên bọn chúng cứ nằm ngủ chung với nhau rồi cứ thế mà làm tình với nhau. Tin anh đi, nó không bận tâm đâu.”
Ông ta quay người để ánh đèn nằm phía sau ông rồi bắt đầu đọc to:
“Cháu trai yêu dấu. Thư này do thầy giáo Krishna viết. Ông ấy nhớ cháu ghê lắm và nhắc cháu bằng biệt danh cũ của cháu là Cọp Trắng. Cuộc sống nơi đây đang trở nên khó khăn. Trời chưa chịu mưa. Cháu có thể xin chủ ít tiền cho gia đình mình không? Và nhớ gửi tiền về nhà.”
Cầy Mangut đặt thư xuống.
“Đầy tớ chỉ mong có thế. Tiền, tiền, tiền. Gọi chúng là đầy tớ chứ chúng toàn là hút máu mình thôi, đúng không?”
Ông ta tiếp tục đọc thư.
“Với anh Kishan của cháu bà chỉ cần nói, “Bây giờ đến lúc rồi” là nó làm ngay - nó cưới vợ liền. Với cháu, bà không ra lệnh. Cháu khác với tất cả những đứa còn lại. Cháu sâu sắc, giống mẹ cháu. Từ khi còn bé cháu đã như thế rồi; khi cháu đứng gần cái ao và nhìn chăm chú Pháo đài đen với cái mồm há hốc, bất kể sáng, chiều, tối. Vì vậy bà không ra lệnh cho cháu cưới vợ. Mà bà chỉ gợi nhắc cho cháu về những niềm vui của đời sống hôn nhân. Nó tốt cho mọi người. Mỗi khi trong làng có một đám cưới thì trời mưa nhiều hơn. Con trâu nước béo hơn lên. Nó sẽ cho nhiều sữa hơn. Đây toàn là chuyện thực cả. Tất cả chúng ta đều rất tự hào về cháu, vì được lên thành phố. Nhưng cháu phải thôi chỉ nghĩ về bản thân mà còn phải nghĩ về cả chúng ta nữa. Trước tiên cháu phải về thăm nhà và ăn món cà ri gà của bà. Bà nội yêu của cháu. Kusum.”
Cầy Mangut định đưa thư cho tôi, nhưng ông Ashok cầm lấy nó để đọc lại.
“Đôi khi họ thể hiện tình cảm thật xúc động, những người dân làng này,” ông ta nói, trước khi ném lá thư lên bàn để tôi tự nhặt lên.
Sáng hôm sau, tôi lái xe đưa Cầy Mangut ra ga tàu hỏa, mua món ăn nhẹ ưa thích của ông ấy, món dosa, rồi lại moi khoai tây ra vứt xuống đường ray trước khi đưa cho ông ta. Tôi ngồi bẹp xuống sàn chờ đợi. Ông ta ngồi trên xe nhai dosa nhồm nhoàm; ở phía dưới trên đường ray, một con chuột đang gặm nhấm những miếng khoai tây bị vứt bỏ.
Tôi lái xe về căn hộ. Tôi đi thang máy lên tầng mười ba. Cửa mở.
“Thưa ông!” tôi thét lên khi nhìn thấy cảnh tượng trong phòng khách. “Thưa ông, như thế này là điên rồ!”
Ông ấy đã cho chân vào một chiếc xô nhựa và đang tự tay xoa bóp chúng.
“Ông phải nói với con chứ, con sẽ xoa bóp cho ông!”
Tôi hét lên, cúi xuống chạm vào chân ông.
Ông ta rít. “Không!”
Tôi đáp. “Vâng, thưa ông, phải thế - con sẽ không làm tròn bổn phận nếu để ông tự mình làm thế!” rồi thọc tay vào nước bẩn trong xô, bóp chân chân ông.
“Không!”
Ông Ashok đá cái xô, nước tràn lênh láng lên sàn nhà.
“Các người còn ngu ngốc đến mức nào nữa?” Ông ta chỉ tay ra cửa. “Đi ra! Có thể để cho ta yên trong năm phút một ngày được không? Cậu nghĩ cậu có làm được thế không?”
Tối hôm ấy tôi lại phải chở ông đến khu mua sắm. Tôi ngồi trong xe sau khi ông ấy đã bước xuống; không nhập hội với đứa tài xế nào.
Dù vào ban đêm, các công trường xây dựng ở Gurgaon vẫn làm việc - những ngọn đèn to chiếu xuống từ các cao ốc, bụi bốc lên từ những hố hầm, giàn giáo đang được dựng lên, còn con người và động vật, bị dựng dậy trong lúc ngủ, mắt nhắm mắt mở lững thững vác xà bần, gạch đá.
Tại một công trường có người đang dắt theo một con lừa; nó chở cái yên màu đỏ tươi, trên yên là hai máng kim loại chất đầy xà bần. Phía sau nó có hai con lừa bé hơn, màu giống nhau, cũng bị chất lên những cái máng đầy ngập xà bần. Mấy con lừa bé đi chậm hơn, còn con lừa đầu đàn thường hay dừng lại và ngoái đầu ra sau như thể nó là mẹ của hai con kia.
Ngay lập tức tôi biết chuyện gì đang làm tôi bức bối.
Tôi không muốn phục tùng bà Kusum. Bà ta đang đe dọa tôi; tôi hiểu tại sao bà gửi lá thư đó thông qua Cầy Mangut. Nếu tôi khước từ, bà ta sẽ thổi còi tôi ngay - nói với ông Ashok rằng tôi đã không gửi tiền về nhà.
Bây giờ, cũng đã lâu rồi tôi không đút cái ấy của mình vào đâu hết, thưa ngài, và áp lực đang ngày càng tăng. Đứa con gái hẳn còn trẻ lắm - mười bảy mười tám thôi - và ngài biết gái cỡ tuổi ấy thì mùi vị thế nào đấy, như dưa hấu. Bất cứ bệnh tật gì, thuộc về cơ thể hay tinh thần, đều được chữa hết nếu đâm vào một em còn trinh. Đây là thực tế. Rồi lại còn món hồi môn mà bà Kusum sẽ khoắng từ nhà gái nữa chứ. Nào là vàng hai mươi bốn carat, nào là tiền mặt mới cáu từ nhà băng. Ít nhất tôi cũng giữ được một ít cho mình. Tất cả những điều này đều là lập luận vững chắc ủng hộ cho việc kết hôn.
Nhưng về mặt khác.
Ngài thấy đấy, bây giờ tôi cũng như con lừa rồi. Và những gì tôi sẽ làm, nếu tôi có con, là dạy chúng trở thành những con lừa như tôi, chở xà bần đi khắp nơi cho bọn nhà giàu.
Tôi đặt tay lên vô lăng, các ngón tay nắm chặt thành một cú siết mạnh.
Giống như cách mà tôi đã vội vã ào đến bóp chân ông Ashok, vào giây phút tôi trông thấy chúng, dù ông ấy không hề yêu cầu tôi! Tại sao tôi lại cảm thấy mình phải đến gần đôi chân ông ấy, chạm vào chúng và xoa bóp chúng để làm chúng thoải mái - tại sao? Vì khát khao được làm một kẻ hầu người hạ đã thấm vào máu tôi rồi: đóng vào sọ tôi, lần lượt từng cây đinh, và đổ vào huyết mạch tôi, như nước cống và chất độc công nghiệp đổ vào Mẹ Hằng Hà.
Tôi mường tượng một bàn chân cứng nhợt nhạt thò ra từ lửa.
“Không,” tôi nói.
Tôi thu chân lên ghế, ngồi thế hoa sen, và nói, “Om,” hết lần này đến lần khác. Buổi tối hôm ấy tôi đã ngồi bao lâu trong xe với hai mắt nhắm lại và chân xếp bằng như Phật, tôi thật không biết, nhưng tiếng cười hinh hích và tiếng cào vào xe khiến tôi mở mắt. Toàn thể bọn tài xế đã tụ tập quanh tôi - một đứa đang lấy móng tay cào lên cửa kính. Có đứa đã bắt gặp tôi ngồi tư thế hoa sen trong chiếc xe đóng kín. Bọn chúng nhìn tôi trân trối như thể tôi là con vật gì trong vườn thú.
Tôi bỏ thế hoa sen ngay lập tức. Tôi nhe răng cười - đi ra khỏi xe trước một loạt những cái đấm và giúi tay, những tiếng cười chói tai, ngoan ngoãn để chúng muốn làm gì thì làm trong lúc lẩm bẩm, “Chỉ thử chút thôi, yoga đấy - người ta chiếu trên tivi suốt mà, đúng không?”
Chiếc Chuồng Gà đã có tác dụng. Đám đầy tớ phải ngăn cản những đầy tớ khác biến thành nhà cải cách, kẻ thử nghiệm hay người khởi nghiệp.
Vâng, đó là một thực tế buồn, thưa thủ tướng.
Chiếc chuồng được canh gác từ bên trong.
Thưa thủ tướng, xin ngài thứ lỗi - điện thoại tôi đang reo.
Tôi sẽ quay lại sau một phút.