← Quay lại trang sách

Chương 5

Coraline khoá cánh cửa trong phòng khách bằng chiếc chìa màu đen lạnh lẽo.

Con bé quay lại bếp và leo lên ghế. Nó cố gắng trả chùm chìa khoá trở lại mép cửa. Con bé thử bốn năm lần cho tới lúc đành phải thừa nhận là mình chưa đủ lớn, vậy là nó đặt chùm chìa khoá lên quầy bếp cạnh cửa.

Mẹ nó vẫn chưa đi chợ về.

Coraline đến chỗ tủ lạnh lôi từ ngăn dưới cùng ra một ổ bánh mì thừa cứng queo lạnh ngắt. Con bé tự làm cho mình vài lát bánh mì nướng phết mứt và bơ lạc. Rồi nó uống một cốc nước.

Con bé đợi cha mẹ về.

Đến lúc trời sẫm tối, Coraline tự lấy một chiếc pizza cứng queo nguội ngắt nguội ngơ cho vào lò vi sóng.

Rồi Coraline xem ti vi. Nó băn khoăn không hiểu tại sao người lớn lại vơ về cho mình hết thảy những chương trình hay ho với tất tần tật trò la hét và chơi đùa náo nhiệt đó.

Được một lúc thì con bé bắt đầu chán ngán ngáp dài. Vậy là nó cởi quần áo, đánh răng, rồi chui vào giường.

Đến sáng, con bé tới phòng cha mẹ, nhưng giường nệm không có dấu hiệu đã có người nằm, còn quanh đấy cũng chẳng thấy bóng dáng hai người đâu. Con bé lấy mì ống đóng hộp để ăn sáng.

Bữa trưa, con bé ăn một tảng sô cô la thô và một quả táo. Quả táo đã ngả vàng và hơi nhăn nheo, nhưng vẫn thơm tho ngon lành.

Đến giờ lót dạ buổi chiều, Coraline xuống thăm bà Spink và bà Forcible. Con bé được chén ba cái bánh bích quy có lợi cho tiêu hoá, một cốc nước chanh có ga và một chén trà loãng. Nước chanh ngon tuyệt. Nó chẳng có vị chanh gì hết. Nó có màu xanh tươi tắn và phảng phất mùi hoá chất. Coraline thích nó kinh khủng. Con bé ước gì ở nhà cũng có món này.

“Cha mẹ yêu quý của cháu thế nào rồi?” bà Spink hỏi.

“Mất tích rồi ạ,” Coraline nói. “Từ hôm qua đến giờ cháu vẫn chưa nhìn thấy cha hay mẹ. Cháu phải tự làm mọi việc. Cháu nghĩ có khi cháu thành đứa trẻ độc thân rồi.”

“Cháu nhắn với mẹ là chúng ta đã tìm thấy những mẩu báo Glasgow Empire mà có lần chúng ta kể cho cô ấy nhé. Mẹ cháu có vẻ rất thích thú khi nghe Miriam nhắc đến chúng.”

“Mẹ cháu đã biến mất một cách bí ẩn rồi,” Coraline nói, “và cháu tin là cha cháu cũng vậy.”

“Coraline này, ta e rằng mai hai chúng ta sẽ phải vắng nhà cả ngày, cưng ạ,” bà Forcible nói. “Chúng ta sẽ ở lại Royal Tumbridge Wells với cháu của bà April.”

Hai bà cho Coraline xem một tập album bên trong có ảnh của cháu bà Spink, rồi sau đó Coraline quay về nhà.

Nó mở hộp tiền của mình rồi đến siêu thị. Nó mua hai chai to nước chanh có ga, một cái bánh sô cô la, một túi táo mới, sau đó quay trở về nhà và chén chỗ đó cho bữa tối.

Nó đánh răng rồi vào phòng làm việc của bố. Nó bật máy tính của ông lên và viết một câu chuyện.

TRUYỆN CỦA CORALINE

CÓ MỘT CÔ GÁI TÊN LÀ QUẢ TÁO. CÔ ẤY ĐÃ KHIÊU VŨ RẤT HĂNG. CÔ ẤY NHẢY VÀ NHẢY MÃI CHO ĐẾN KHI HAI CHÂN BIẾN THÀNH SOSSAJES.

HẾT TRUYỆN.

Nó in câu chuyện ra giấy và tắt máy tính. Rồi dưới những dòng chữ trên giấy, nó vẽ lên giấy hình một cô bé đang khiêu vũ.

Nó tự chuẩn bị nước tắm, cho quá nhiều chất tạo bọt vào trong nước làm bọt tràn hết lên thành bồn và lênh láng khắp nền nhà. Nó lau người, rồi cố hết sức lau khô sàn nhà, và sau đó lên giường đi ngủ.

Đến đêm thì Coraline tỉnh giấc. Nó vào phòng ngủ của cha mẹ, nhưng chiếc giường vẫn được trải gọn gàng và trống trơn. Những con số màu xanh sáng rực trên đồng hồ chỉ 3 giờ 12 phút sáng.

Hoàn toàn cô đơn giữa đêm thâu, Coraline oà khóc. Không có một âm thanh nào khác trong căn hộ trống huơ trống hoắc.

Con bé trèo lên giường cha mẹ, và, sau một lúc, nó ngủ thiếp đi.

Coraline tỉnh giấc khi bị những bàn chân lạnh ngắt đập vào mặt. Nó mở mắt. Hai con mắt màu xanh to cồ cộ nhìn nó chằm chằm. Là con mèo.

“Ôi chào,” Coraline nói. “Sao cậu vào được đây.”

Con mèo không nói gì. Coraline rời khỏi giường. Con bé đang mặc áo sơ mi dài và quần ngủ. “Cậu đến nói với tớ chuyện gì à?”

Con mèo ngoác miệng ra ngáp, làm hai con mắt sáng loé lên.

“Cậu có biết cha mẹ tớ đang ở đâu không?”

Con mèo nhìn Coraline, chớp mắt chậm rãi.

“Thế nghĩa là cậu có biết à?”

Con mèo lại chớp mắt. Coraline quyết định rằng như thế đích thực có nghĩa là đúng. “Cậu sẽ đưa tớ tới chỗ họ chứ?”

Con mèo nhìn Coraline chằm chằm. Rồi nó bước ra ngoài hành lang. Con bé bám theo sau. Con mèo đi dọc hành lang và đến kịch đường thì dừng lại, đúng chỗ có treo một tấm gương đứng soi được cả người. Tấm gương, từ cái thời xa xửa xa xưa, đã được gắn lên cánh cửa tủ quần áo. Khi gia đình con bé chuyển đến đây, tấm gương đã được treo sẵn trên bức tường đó rồi, và mặc dù thỉnh thoảng mẹ Coraline vẫn nhắc đến chuyện phải thay nó bằng cái mới hơn, bà vẫn chẳng bao giờ thực hiện cả.

Coraline bật đèn hành lang.

Tấm gương phản chiếu hành lang sau lưng nó; ngoài hình ảnh đó ra thì người ta còn trông đợi nhìn thấy gì nữa chứ. Vậy mà trong tấm gương ấy còn hiện lên cả hình ảnh cha mẹ nó nữa. Họ đứng bối rối trên hành lang phản chiếu trong gương. Họ có vẻ buồn bã, cô đơn. Khi Coraline nhìn họ thì cả hai người giơ những bàn tay ẻo lả lên vẫy nó, một cách chậm chạp. Cha Coraline đang vòng tay ôm mẹ nó.

Trong tấm gương, cha mẹ Coraline nhìn con bé chằm chằm. Cha nó há miệng nói gì đó, nhưng con bé không tài nào nghe ra được lấy một từ. Mẹ nó hà hơi vào mặt bên trong của lớp kính, và vội vàng, trước khi hơi nước kịp mờ đi, bà lấy đầu ngón tay viết:

CỨU BỐ MẸ VỚI

Làn hơi nước ở mặt bên kia tấm gương mờ dần, rồi cả cha mẹ nó cũng vậy, và đến lúc này thì tấm gương chỉ phản chiếu mỗi hành lang, Coraline cùng con mèo.

“Họ đâu rồi?” Coraline hỏi con mèo. Con mèo không trả lời, nhưng Coraline có thể tưởng tượng ra giọng nói của chú ta, khô queo như con ruồi chết trên bậu cửa mùa đông, đang cất lên, Vậy đấy, cậu nghĩ họ còn ở đâu được chứ?

“Cha mẹ sẽ không quay về, phải không?” Coraline hỏi. “Không thể tự mình quay về được.”

Chú mèo chớp chớp mắt với con bé, và Coraline hiểu rằng như thế nghĩa là đúng vậy.

“Phải rồi,” Coraline nói. “Vậy thì tớ đoán là chỉ có mỗi một việc để làm thôi.”

Con bé vào phòng làm việc của cha mình. Nó ngồi vào bàn làm việc. Rồi nó nhấc điện thoại lên, mở danh bạ và gọi đến đồn cảnh sát địa phương.

“Cảnh sát đây,” giọng đàn ông cộc cằn vang lên.

“Chào chú ạ,” con bé nói. “Cháu là Coraline Jones.”

“Không phải là cháu đã hơi trễ giờ đi ngủ rồi sao, cô gái?” viên cảnh sát nói.

“Có lẽ vậy ạ,” Coraline nói, không bị lạc ra khỏi chủ đề chính, “nhưng cháu gọi để thông báo một vụ phạm pháp.”

“Thế nó là vụ phạm pháp kiểu gì vậy?”

“Bắt cóc ạ. Bắt cóc người lớn, thật đấy ạ. Cha mẹ cháu đã bị đánh cắp vào trong thế giới ở phía bên kia tấm gương trong hành lang nhà cháu.”

“Vậy cháu có biết ai đã đánh cắp họ không?” viên cảnh sát hỏi. Coraline có thể nghe thấy tiếng cười trong giọng ông ta, và con bé cố gắng hơn gấp bội để ăn nói cho ra dáng người lớn, nhằm khiến ông ta hiểu được sự nghiêm túc của nó.

“Cháu nghĩ mẹ khác của cháu đã tóm được cả cha lẫn mẹ rồi. Có lẽ bà ấy muốn giữ cha mẹ lại và lấy những cái cúc màu đen khâu mắt cha mẹ, hay có lẽ bà ấy bắt cha mẹ chỉ để dụ dỗ cháu quay lại trong tầm tay của bà ấy. Cháu không chắc nữa.”

“Ái chà chà. Sự nắm giữ tàn bạo từ những ngón tay độc ác, phải không?” ông ta nói. “Hừm. Cô biết tôi nghĩ gì không, cô Jones?”

“Không ạ,” Coraline nói. “Nghĩ gì cơ?”

“Cháu hãy bảo mẹ pha cho một cốc sô cô la nóng hổi to tổ chảng, rồi thì bảo mẹ ôm cháu một cái thật tha thiết diết da vào. Để tống cổ cơn ác mộng thì chẳng có gì so sánh được với sô cô la nóng và những cái ôm đâu. Và nếu mẹ cháu la rầy vì đêm hôm thế này mà cháu còn dựng bà ấy dậy, thì cháu cứ nói rằng đấy là tại chú cảnh sát bảo thế.” Giọng ông ta trầm, vẻ trấn an.

Coraline không thấy được trấn an.

“Khi nào gặp mẹ,” Coraline nói, “cháu sẽ nhắn lại thế.” Và con bé bỏ điện thoại xuống.

Suốt thời gian cuộc đàm thoại, con mèo đen ngồi trên sàn chải chuốt bộ lông, và giờ chú ta đứng dậy, dẫn đường vào sảnh.

Coraline quay về phòng ngủ, choàng thêm chiếc áo khoác ngoài và xỏ đôi dép lê. Con bé lục dưới bồn rửa tìm đèn pin và thấy một cái, nhưng pin đã tã lắm rồi nên cái đèn gần như chỉ yếu ớt phát ra được một thứ ánh sáng vàng vọt. Con bé trả cái đèn pin lại chỗ cũ, và tìm thấy một hộp nến trắng dự phòng, nó bèn cắm một cây vào châm nến. Con bé nhét vào mỗi túi áo một quả táo. Nó nhặt chùm chìa khoá lên rồi tháo chiếc chìa đen cổ lỗ ra khỏi chùm.

Coraline bước vào trong phòng khách, đứng nhìn cánh cửa. Con bé cảm thấy dường như cánh cửa ấy cũng đang nhìn trả lại, một cảm giác nó biết là thật ngớ ngẩn, nhưng ở mức độ sâu sắc hơn, con bé cũng biết điều này có phần là sự thực.

Coraline quay về phòng ngủ, sục sạo trong túi quần jean. Con bé tìm thấy viên đá có mắt bèn nhét nó vào trong túi áo choàng.

Con bé quẹt diêm châm lửa vào ngọn bấc nến; quan sát bấc cháy xèo xèo và ngọn lửa toả sáng, rồi nó nhặt chiếc chìa khoá đen lên. Chiếc chìa khoá lạnh ngắt trong tay nó. Con bé đút chiếc chìa khoá vào trong ổ khoá trên cánh cửa nhưng không xoay chìa.

“Khi tớ còn nhỏ,” Coraline nói với con mèo, “cách đây lâu lắm rồi, khi gia đình tớ còn sống ở nhà cũ, cha đã dẫn tớ đi dạo trên khu đất bỏ hoang nằm giữa nhà tớ và các cửa hàng cửa hiệu.

“Thật ra đó không phải là chỗ đi dạo lý tưởng nhất. Ở đó có đủ mọi thứ hầm bà lằng mà mọi người vứt đi, nồi niêu xoong chảo cũ, bát đĩa vỡ, búp bê mất chân mất tay, thùng hộp rỗng và chai vỡ. Cha mẹ đã bắt tớ phải hứa là sẽ không quay lại đó thám hiểm nữa, vì ở đó có quá nhiều thứ sắc nhọn, vi trùng uốn ván và đủ thứ tương tự.

“Nhưng tớ vẫn nói với cha mẹ là tớ muốn thám hiểm nơi đó. Vậy là một hôm, cha tớ đi găng tay và xỏ đôi ủng màu nâu to sụ, rồi cha giúp tớ đi ủng, mặc quần jean, áo len dài tay và cả hai cha con cùng đi dạo.

“Tớ và cha phải đi bộ đến hai mươi phút. Hai cha con tớ đi xuống đồi, và khi đến cuối rãnh nước chỗ có một dòng suối nhỏ, thì đột nhiên cha bảo tớ, ‘Coraline, chạy đi. Lên trên đồi ấy. Nhanh lên!’ Cha nói với giọng rất căng thẳng, khẩn cấp, vậy là tớ làm theo. Tớ chạy lên đồi. Trong lúc tớ chạy, có thứ gì đó đâm vào phía sau cánh tay tớ đau điếng, nhưng tớ vẫn không dừng lại.

“Khi lên được đến đỉnh đồi, tớ nghe thấy đằng sau có tiếng ai đó đang chạy thình thịch lên đồi. Người đó là cha tớ, đang lao ầm ầm như một con tê giác. Khi đến được chỗ tớ, cha bế xốc tớ lên và lao qua đỉnh đồi.

“Rồi thì cha con tớ dừng lại, thở hổn hà hổn hển, tim đập thình thịch, và chúng tớ quay lại nhìn xuống rãnh nước.

“Trong không trung kín đặc những con ong bắp cày vàng. Chắc hẳn trên đường đi cha con tớ đã giẫm phải một tổ ong trên cành cây mục nào đó. Vậy là trong lúc tớ chạy lên đồi, cha đã ở lại chịu trận, để tớ có thời gian chạy trốn. Đôi kính của cha đã bị rơi trong lúc chạy.

“Tớ chỉ bị một vết chích ở phía sau cánh tay. Còn cả người cha tớ có đến ba mươi chín vết chích. Lúc sau, trong phòng tắm, cha con tớ đã đếm.”

Con mèo đen bắt đầu xoa mặt vuốt râu với một thái độ cho thấy rõ chú ta đang càng lúc càng sốt ruột. Coraline cúi xuống vỗ vỗ vào gáy và cổ con mèo. Chú ta đứng dậy, bước vài bước cho tới khi tránh xa khỏi tầm tay của con bé, rồi ngồi xuống và lại ngước nhìn nó.

“Vậy là,” Coraline nói, “một lúc sau ngay trong buổi chiều hôm đó, cha tớ quay lại bãi đất hoang để tìm kính. Cha tớ bảo nếu đợi đến ngày hôm sau thì cha tớ sẽ không nhớ nổi đã làm rơi nó ở chỗ nào nữa.”

“Cha tớ đi một lát rồi về, mắt đã đeo kính. Cha tớ nói cha không hề cảm thấy sợ khi đứng ở đó để cho lũ ong bắp cày đốt đau điếng cả người và nhìn tớ chạy trốn. Bởi vì cha biết rằng cha phải cho tớ có đủ thời gian chạy đi, nếu không đàn ong sẽ đuổi theo cả hai cha con.”

Coraline xoay chìa khoá trên cánh cửa. Chiếc chìa xoay kèm theo một tiếng tách rất to.

Cánh cửa mở ra.

Phía bên kia cánh cửa không có bức tường gạch nào: chỉ là bóng tối. Một luồng gió lạnh buốt thổi qua hành lang.

Coraline không có bất cứ cử động nào cho thấy nó sẽ bước qua cánh cửa đó.

“Và cha nói rằng không phải là cha dũng cảm khi làm như vậy, cứ đứng yên đó chịu bị ong đốt,” Coraline nói với con mèo. “Hành động đó không được gọi là dũng cảm vì cha đã không hề sợ: đó là điều duy nhất cha có thể làm. Nhưng khi quay lại để tìm kính, và biết rằng lũ ong bắp cày vẫn còn ở đó, thì cha thật sự sợ hãi. Đó mới là sự dũng cảm.”

Con bé đặt bước chân đầu tiên vào hành lang tối om.

Nó có thể ngửi thấy mùi bụi bặm, mùi mốc meo ẩm ướt.

Con mèo thong thả bước bên cạnh.

“Vậy tại sao lại thế?” con mèo hỏi, mặc dù giọng nói nghe như chẳng có chút hứng thú nào.

“Bởi vì,” con bé nói, “tuy sợ phải làm điều gì đó nhưng dù sao đi nữa cậu vẫn cứ làm, đó chính là dũng cảm.”

Cây nến chiếu lên tường những cái bóng khổng lồ, chập chờn, hình thù kỳ dị. Con bé nghe thấy trong bóng tối có tiếng di chuyển - hoặc ngay bên cạnh hoặc đang tiến đến sát sườn nó. Coraline không biết chắc. Dường như dù cho sinh vật đó có là gì đi nữa thì nó cũng đang kiên trì bám theo con bé.

“Vậy ra vì thế mà cậu quay lại thế giới của bà ta hả?” con mèo hỏi. “Vì cha cậu đã từng cứu cậu thoát khỏi đàn ong bắp cày?”

“Đừng có ngốc thế chứ,” Coraline nói. “Tớ quay lại tìm họ vì họ là cha mẹ tớ. Và nếu họ nhận ra tớ đã biến mất thì tớ tin chắc họ cũng đang làm điều tương tự vì tớ. Cậu biết là cậu lại đang nói chuyện đấy chứ?”

“Tôi mới may mắn làm sao,” con mèo nói, “vì có được một người bạn đường khôn ngoan hiểu biết thế này.” Giọng nó vẫn châm biếm như thường, nhưng lông xù hết cả lên còn cái đuôi dựng thẳng đứng trong không trung.

Coraline toan nói gì đó, kiểu như xin lỗi hay không phải lần trước đường đi ngắn hơn nhiều hay sao? thì đột nhiên cây nến tắt phụp như bị ai đó đưa tay dập mất lửa.

Có tiếng quờ quạng, lộp cộp, và Coraline có thể cảm thấy trái tim đang đập thình thịch trong lồng ngực. Nó giơ một tay ra… và cảm giác có thứ gì đó mỏng manh, giống như một tấm mạng nhện, quệt vào tay và vào mặt nó.

Đèn điện cuối hành lang bật sáng, chói loà đằng sau bóng tối. Một người phụ nữ đứng phía trước cách Coraline một đoạn ngắn, hình dáng bà ta hiện lên rõ mồm một dưới ánh điện.

“Coraline? Con yêu?” bà ta gọi.

“Mẹ!” Coraline kêu lên, và nó hăm hở chạy về phía trước, cảm giác như vừa trút được gánh nặng.

“Con yêu,” người phụ nữ nói. “Sao con lại trốn mẹ vậy?”

Coraline không thể dừng lại vì đã đến quá gần, và nó cảm thấy hai cánh tay lạnh giá của mẹ khác ôm lấy nó. Con bé chết đứng ở đó, toàn thân run lẩy bẩy khi bị mẹ khác ôm chặt.

“Cha mẹ tôi đâu?” Coraline hỏi.

“Chúng ta ở đây,” mẹ khác nói, bằng một giọng giống với mẹ thật của nó đến nỗi Coraline hầu như không tài nào phân biệt nổi. “Chúng ta ở đây. Chúng ta sẵn sàng yêu thương con, chơi đùa cùng con, cho con đồ ăn thức uống và khiến cuộc sống của con trở nên thú vị.”

Coraline vùng người lùi lại phía sau, và mẹ khác miễn cưỡng để nó thoát ra.

Cha khác, lúc này đang ngồi trên chiếc ghế trong sảnh, liền mỉm cười đứng dậy. “Vào trong bếp thôi,” ông ta nói. “Cha sẽ làm bữa ăn đêm cho cả nhà. Và con sẽ muốn uống chút gì đó - có lẽ là sô cô la nóng chăng?”

Coraline đi dọc hành lang cho tới khi đến bên tấm gương đặt ở cuối đường. Chẳng có gì phản chiếu trong đó ngoại trừ hình ảnh một cô bé mặc áo ngủ đi dép lê trông như vừa mới khóc, nhưng cả hai mắt đều là thật chứ không phải những chiếc cúc áo màu đen, và cô bé đó đang nắm chặt trong tay một châm nến mà cây nến cắm bên trong đã tắt ngóm.

Nó nhìn cô bé trong gương và cô bé trong gương nhìn lại nó.

Mình sẽ dũng cảm, Coraline nghĩ. Không, mình đang dũng cảm.

Nó đặt cái chân nến xuống sàn rồi quay người lại. Mẹ khác và cha khác đang hau háu nhìn nó.

“Tôi không cần bữa ăn đêm,” con bé nói. “Tôi có táo rồi. Thấy không?” Và nó lôi một quả táo ra khỏi túi áo choàng, rồi cắn một miếng với vẻ thích thú và hăng hái mà thật ra nó không hề cảm thấy.

Cha khác có vẻ thất vọng. Mẹ khác mỉm cười, để lộ hàm răng lổn nhổn, cái răng nào cũng có phần quá dài. Ánh điện trong hành lang làm đôi mắt cúc áo màu đen của bà ta sáng lên lấp lánh.

“Các người không làm tôi sợ được đâu,” Coraline nói, mặt dù họ đã làm nó thấy sợ hãi thật, rất sợ là đằng khác. “Tôi muốn cha mẹ tôi quay về.”

Thế giới này dường như hơi mờ đi ở các đường rìa.

“Ta có thể làm gì với cha mẹ cũ của con được chứ? Nếu họ bỏ con mà đi, Coraline à, thì chắc hẳn là tại họ đã thấy chán ngấy hay mệt mỏi vì con rồi. Nghe này, ta sẽ không bao giờ chán con và cũng sẽ không bao giờ bỏ rơi con. Ở đây với ta thì lúc nào con cũng được an toàn.” Mái tóc đen trông ẩm ướt của mẹ khác dập dờn quanh đầu bà ta, hệt như những xúc tu của một sinh vật biển.

“Họ không chán tôi,” Coraline nói. “Bà nói dối. Bà đã bắt cóc họ.”

“Coraline ngốc nghếch, Coraline ngốc nghếch. Cho dù ở đâu thì họ cũng đang ổn cả thôi mà.”

Coraline chỉ nhìn mẹ khác chằm chằm.

“Ta sẽ chứng minh cho mà xem,” mẹ khác nói, và lấy những ngón tay dài ngoẵng trắng bệch quệt qua quệt lại trên mặt gương. Tấm gương mờ đục như bị một con rồng hà hơi lên, rồi lại sáng rõ.

Trong gương đang là ban ngày. Coraline nhìn vào hành lang, nhìn xuống tận cuối đường chỗ cửa ra vào. Cửa mở từ bên ngoài và cha mẹ Coraline bước vào trong nhà. Họ đều mang theo hành lý.

“Kỳ nghỉ thật tuyệt,” cha Coraline nói.

“Thật dễ chịu biết bao khi không còn Coraline nữa,” mẹ nó nói kèm theo nụ cười hạnh phúc. “Bây giờ chúng ta có thể làm tất cả những gì chúng ta lúc nào cũng mong muốn nhưng lại không thể làm được vì vướng đứa con gái nhỏ, như đi du lịch chẳng hạn.”

“Và,” cha nói, “anh nhẹ hết cả người khi biết rằng mẹ khác của con bé sẽ chăm sóc nó chu đáo hơn hẳn khả năng của chúng ta.”

Tấm gương như bị che phủ bởi một màn sương, mờ dần cho đến lúc trong gương chỉ còn là đêm tối như trước.

“Con thấy chưa?” mẹ khác của con bé nói.

“Không,” Coraline nói. “Tôi không thấy. Mà tôi cũng chẳng tin chuyện đó.”

Con bé hy vọng những gì mình vừa nhìn thấy không phải sự thật, nhưng trong lòng nó không tin tưởng chắc chắn như vẻ bề ngoài. Trong nó có một cảm giác nghi ngờ nhỏ xíu xiu, giống như một con dòi trong lõi táo. Rồi nó ngước mắc lên và nhìn thấy biểu hiện cảm xúc trên khuôn mặt mẹ khác: một thoáng giận dữ thực sự lướt ngang khuôn mặt bà ta như ánh chớp mùa hè, và từ tận đáy lòng Coraline chắc chắn những điều nó vừa nhìn thấy trong tấm gương chỉ là ảo ảnh.

Coraline ngồi xuống ghế sofa và ăn trái táo nó mang theo.

“Thôi nào con,” mẹ khác của con bé nói. “Đừng có khó tính thế chứ.” Bà ta bước vào phòng khách và vỗ tay hai lần. Có tiếng sột soạt và một con chuột đen xuất hiện. Con chuột ngước lên nhìn bà ta chăm chú. “Mang chìa khóa đến cho ta,” bà ta nói.

Con chuột kêu chít chít, rồi phóng qua cánh cửa vẫn đang mở dẫn đến căn hộ thật của Coraline.

Con chuột quay lại, lôi chiếc chìa khóa theo sau.

“Sao ở bên này bà không có chìa khóa riêng?” Coraline hỏi.

“Chỉ có một chiếc chìa khóa duy nhất. Một cánh cửa duy nhất,” cha khác nói.

“Suỵt,” mẹ khác nói. “Anh đừng làm điên đầu Coraline yêu dấu của chúng ta bằng những chuyện vớ vẩn như vậy.” Bà ta nhét chìa vào trong ổ khóa rồi xoay. Ổ khóa cứng đơ, nhưng nó đóng lại đánh tách một cái.

Bà ta thả cái chìa vào trong túi chiếc tạp dề.

Bên ngoài, bầu trời đã bắt đầu chuyển sang màu xám bạc rạng rỡ.

“Nếu không ăn đêm,” mẹ khác nói, “thì chúng ta sẽ cần giấc ngủ ngon lành đấy. Mẹ quay về giường đây, Coraline. Mẹ thật sự mong là con cũng thế.”

Bà ta đặt những ngón tay dài ngoằng trắng bệch lên vai cha khác và cùng ông ta đi ra khỏi phòng.

Coraline bước ngang qua phòng khách đến bên cánh cửa nằm ở góc. Con bé giật mạnh cửa, nhưng nó đã bị khóa chặt. Lúc này cánh cửa phòng cha mẹ khác của nó cũng đã đóng.

Quả thật con bé đã mệt rồi, nhưng nó không muốn ngủ trong phòng ngủ đó. Nó không muốn ngủ dưới cùng một mái nhà với cha mẹ khác của mình.

Cửa ra vào không khóa. Coraline đi ra ngoài trời dưới ánh bình minh và bước xuống những bậc thềm đá. Nó ngồi xuống bậc cấp cuối cùng. Bậc đá lạnh toát.

Một thứ gì đó có lông hích hích vào sườn con bé, uyển chuyển và mềm mại. Coraline nhảy bật dậy, rồi thở phào nhẹ nhõm khi nhận ra con vật đó.

“Ồ, chính là cậu,” nó nói với con mèo đen.

“Thấy không?” con mèo nói. “Nhận ra tôi đâu có khó đến thế đâu, phải không? Ngay cả khi không có tên.”

“Thôi được, vậy nếu tớ muốn gọi cậu thì sao?”

Con mèo nhăn mũi, cố hết sức làm ra vẻ chẳng mảy may xúc động.

“Gọi mèo,” nó giãi bày, “có vẻ như là hành động được đánh giá hơi cao đấy. Cũng như là gọi một cơn lốc xoáy vậy.”

“Vậy nếu đến giờ ăn tối thì sao?” Coraline nói. “Lúc đó cậu cũng không muốn được gọi à?”

“Tất nhiên là có chứ,” con mèo nói. “Nhưng chỉ cần kêu to ‘bữa tối!’ là được rồi. Thấy chưa? Cần gì tên chứ?”

“Sao bà ta lại muốn tớ?” Coraline hỏi con mèo. “Sao bà ta muốn tớ ở lại đây với bà ta?”

“Tớ đoán bà ta muốn có thứ gì đó để yêu thương,” con mèo nói. “Thứ gì đó không thuộc về bà ta. Có lẽ bà ta cũng muốn có thứ gì đó để ăn. Thật khó dám chắc về những sinh vật kiểu đấy.”

“Cậu có lời khuyên nào đấy không?” Coraline hỏi.

Trông con mèo có vẻ như sắp buông ra một câu châm chọc nào đó. Rồi nó khẽ vuốt râu và nói, “Thách đấu với bà ta đi. Chẳng có gì đảm bảo rằng bà ta sẽ chơi đẹp, nhưng bà ta thuộc kiểu người đam mê thi thố và sự thách thức.”

“Kiểu đó là như thế nào?” Coraline hỏi.

Nhưng con mèo không trả lời, chỉ duỗi người ra hết cỡ rồi bỏ đi. Sau đó nó dừng lại và quay người nói, “Nếu là cậu thì tớ sẽ vào bên trong. Chợp mắt một lúc đi. Cậu còn cả một ngày dài đang đợi phía trước đấy.”

Và sau đó con mèo đi mất. Nhưng Coraline nhận ra nó nói cũng có lý. Con bé rón rén quay vào bên trong ngôi nhà im ắng, đi qua cửa phòng ngủ khép kín nơi cha mẹ khác của nó đang… làm gì nhỉ? nó tự hỏi. Ngủ? Chờ đợi? Rồi, con bé đột nhiên nhận ra, nếu mở cánh cửa phòng ngủ này thì nó sẽ phát hiện ra căn phòng đó trống huơ trống hoác, hay, nói chính xác hơn, đó là căn phòng trống và sẽ vẫn là căn phòng trống cho tới đúng thời điểm con bé mở cửa.

Phần nào đó, điều này khiến mọi chuyện dễ dàng hơn. Coraline bước vào trong căn phòng sơn màu xanh-hồng bắt chước phòng ngủ của nó. Con bé đóng cửa lại rồi lôi hộp đồ chơi ra chặn trước cửa - cái hộp sẽ chẳng ngăn nổi người nào muốn vào trong, nhưng con bé hy vọng tiếng động phát ra khi có người cố đẩy hộp ra sẽ khua nó dậy.

Đống đồ chơi trong hộp hầu hết vẫn đang say ngủ, và chúng khẽ cựa mình lầm bầm khi con bé di chuyển chiếc hộp, rồi sau đó lại quay về với giấc mộng. Coraline kiểm tra dưới gầm giường tìm đàn chuột, nhưng ở đó chẳng có gì hết. Con bé cởi áo choàng, bỏ đôi dép lê ra rồi trèo lên giường và chìm ngay vào giấc ngủ, gần như chẳng có đủ thời gian để ngẫm nghĩ liệu con mèo muốn ám chỉ gì khi nói đến sự thách thức.