- III - Chùa Cổ Lâm
Làng An Định, huyện Đại Lộc, thuộc miền thượng du tỉnh Quảng Nam; phía tây làng ấy có một hòn núi đất cây cối cằn còi, lưa thưa có năm ba cổ thụ; quanh triền núi xa xa lác đác những túp nhà tranh. Ngoài những thì giờ hoạt động của rừng quê: cày ruộng, cuốc bờ, đốt than, đốn củi, thì khu tây lâm của làng An Định trở nên một vùng êm đềm tĩnh mịch, đáng là nơi ẩn dật của khách mẫn thế ưu thời.
Đặt trên đồi ấy một ngôi chùa cổ là Cổ Lâm tự. Ngôi chùa ấy không biết có từ đời nào, nhưng cứ xem ở lối kiến trúc cho đến những miếng ngói, viên gạch đã đầy vết tang thương, lại với cái tên Cổ Lâm, ta cũng đoán được là lâu lắm.
Chùa Cổ Lâm không phải là nơi giảng kinh thuyết pháp phổ độ chúng sinh, mà chỉ là nơi yên tĩnh tu hành của một ít nhà sư, và để bói quẻ xin xăm hỏi việc kiết hung họa phước của dân quê quanh vùng ấy.
Giáp cận làng An Định, có làng Đại Giang, tục thường gọi là Bồ Phan. Làng Đại Giang có gia đình cụ cai tổng Trưng, một gia đình có quyền thế trong vùng chín xã Sông Con của thời ấy, lại cũng một gia đình có liên quan đến hành động cụ Cao Vân nên cần chép sơ vào đây.
Cụ cai tổng Trưng có đông con, nhưng chỉ còn một trai là Võ Thạch mà người ta hay gọi là ông Thừa Tô, và một gái.
Ông Thừa Tô cũng là một thư sinh thời ấy; người ông vậm vỡ khôi ngô, tính ông khảng khái cương trực. Về văn học, so với cụ Cao Vân thì ông không giỏi, nhưng về võ nghệ thì ông đã nổi tiếng miền sơn cước Đại Lộc, có lúc ông đã khắc phục được dân Mọi vùng ấy.
Ông và cụ Cao Vân đã hiểu biết nhau, mến phục nhau, và cũng đã kết giao mật thiết từ trong những ngày cùng đi nghe giảng sách hoặc chấm bài ở các trường. Thế nên công việc từ biệt gia hương, cụ Cao Vân đã bàn tính trước cùng ông và được ông nhiệt thành tán trợ.
Cũng trong năm Ất Dậu, vào khoảng giữa mùa đông, cụ Cao Vân cùng người nhà trên khoảng đường hai mươi cây số, một thầy một tớ dắt nhau thẳng đến nhà ông Thừa Tô, rồi vào chùa Cổ Lâm.
Vào chùa Cổ Lâm, một ý định đã xếp đặt tổ chức từ mấy tháng trước, mục đích tránh khỏi những bó buộc của gia đình để được nơi tự do kết nạp bạn bè mưu đồ công cuộc cứu nước. Vậy nên sau ngày đặt chân vào chùa, cụ Cao Vân nghiễm nhiên đã đóng lấy vai tuồng một tu sĩ, khoác lấy chiếc áo đạo sĩ. Ông Thừa Tô là một thương khách lặn lội đó đây, nay phủ huyện này mai phủ huyện khác giao du để tìm người đồng chí.
Hoạt động trong thời gian, chùa Cổ Lâm trở nên có bóng người đi lại ngày một đông đảo, rồi đến không còn là nơi tĩnh mịch nữa; tuy nhiên công việc hành động vẫn được kín nhiệm.
Lúc ban đầu, quanh vùng An Định người ta có phần ngạc nhiên, nhưng về sau ngày lại tháng qua, người ta vẫn không tìm thấy gì lạ, các công việc ở chùa trước kia các sư đã làm, thì ngày nay ông đạo sĩ thời thế ấy vẫn tiếp tục...
Từ ngày kinh thành Huế mất, phong trào cần vương ở Quảng Nam do cụ Nguyễn Duy Hiệu (Hường Hiệu) điều động. Tuy đám dân quân ô hợp hồi ấy không tổ chức, không kỹ thuật, - vũ khí có một tí đạn dược, còn thì chỉ mác, phạng, dao, gươm, làm sao địch nổi với súng đồng, tàu sắt của quân Pháp, - nhưng vì tinh thần quá hăng hái, họ đã gây nên những trận đánh Đạo rùng rợn ở các vùng Gia Cốc, Trà Kiệu, thuộc phủ Duy Xuyên, Quảng Nam. Cứ như thế dằng co đến hai năm trời làm cho người Pháp phải mệt nhọc mà không sao đặt được bộ máy cai trị.
Theo bức thư của Nguyễn Thân gởi cho Toàn quyền Paul Doumer hồi 1902 [1] và theo tài liệu cần vương do cụ Huỳnh Thúc Kháng chép lại, thì năm Đinh Hợi (1887), Nguyễn Thân phụng mệnh vua Đồng Khánh, từ Bình Định mang quân ra Quảng Nam đánh tan giặc Văn thân và bắt sống tướng lãnh Nguyễn Duy Hiệu tại núi Ngũ Hành.
Sau ngày cụ Nguyễn Duy Hiệu bị bắt, đám dân quân vỡ tan, các tổ chức công khai hoặc bí mật, trực tiếp hoặc gián tiếp với công cuộc Cần vương ấy lần lần hầu hết bị khám phá, rồi đến nhóm tu sĩ Cổ Lâm cũng bị bọn tay sai chính phủ Bảo hộ để mắt đến.
Vì công cuộc mưu đồ tan vỡ, vì sự lùng bắt ráo riết của chính phủ Bảo hộ, lại cũng vì sự giục thúc của gia đình, khoa Mậu Tý (1888), cụ Cao Vân từ giã Cổ Lâm ra kinh dự thí. Khoa ấy thi không đậu; tuy cụ trúng tuyển trường nhất, trường nhì, nhưng đến trường ba bài vở cụ phải cái lỗi động thời văn.
Hỏng thi, cụ trở về Cổ Lâm, lúc bấy giờ mới thật là ẩn dật, ngày cũng như đêm chuyên chú vào công cuộc khảo cứu, mãi đến năm Tân Mão (1891), ròng rã ba năm, cụ Cao Vân với bộ kinh “Dịch” là thầy, là bọn, là đồng chí, mà cũng là tri âm; ngoài ra, sự đi lại, còn có ông Thừa Tô, khách tình bạn bè thì không mấy ai dám lui tới nữa.
Tạm gác sự giao du để tránh khỏi những cơn khủng bố ghê tởm của nhà cầm quyền Bảo hộ, nhưng mà có tránh được nào. Năm Tân Mão chùa Cổ Lâm rung bị khám xét; vì tình thế không ở đây được nữa, duyên nợ ông sư thời thế với chùa Cổ Lâm chỉ có sáu năm, đến đây là mãn hạn!
Từ biệt Cổ Lâm, cụ Cao Vân lại trở về làng Đại Giang mở trường dạy học, rồi cũng trong năm Tân Mão, do sự chủ trương của ông Thừa Tô đưa đến cuộc thành hôn cho cụ với em gái ông là Võ thị Quyền, mà ở địa phương ấy người ta quen gọi là cô Ba Bàn.
Gần một năm trời ở Đại Giang, bên ngoài tuy dạy học, nhưng tâm trí cụ lúc nào cũng đuổi theo tình thế nước nhà. Nhiều lần cụ đã thốt ra cùng các bạn: “Làm trai sinh gặp lúc nước nhà biến cố, chẳng lẽ cứ ngồi yên để chịu làm tên rợ mất nước!” Mà nói đến công việc cứu nước thì khốn nỗi tình cảnh dân ta hồi ấy, lòng thù ghét chính sách thống trị, thủ đoạn đàn áp tuy chan chứa tràn ngập, nhưng từ nghĩa binh vỡ tan, tiếp đến các cuộc tàn phá, khủng bố gớm ghiếc làm cho rời rạc tan tác, đã thế, bên Bảo hộ thế lực ngày một mạnh, bọn chim muông theo phò tá ngày một đông, sự kiểm soát ngày một chu đáo, khó có phương nào tổ chức được! Chỉ có một cách mà cụ Phan Đình Phùng đã thực hành ở vùng Nghệ Tĩnh, là tìm lấy một địa hạt rừng núi sâu, địa thế hiểm, lúa gạo nhiều, để đủ điều kiện tạo nên một công cuộc tranh đấu trường kỳ... Nhưng địa hạt ấy lúc bấy giờ, sau bao lần dọ hỏi ý kiến các bạn bè đồng chí, thì không có đâu phương tiện bằng tỉnh Bình Định; vì thế cụ lại quyết định rời khỏi Quảng Nam.
Mùa thu năm Nhâm Thìn (1892), nhờ sự hướng dẫn của anh em Văn thân, cụ Cao Vân, cô Ba Bàn và một đệ tử thân tín, Nguyễn Nhuận tức Xã Soạn, từ giã đất Quảng Nam...
Để kết luận mục Cổ Lâm, để hiểu biết thêm tinh thần, ý chí cụ Cao Vân trong thời gian đương là một đạo sĩ, xin chép vào đây một bài thi chính tay cụ viết còn sót lại, lúc chúng tôi đến Cổ Lâm sưu tầm tài liệu để chép tập sử này đã tìm được trên một mảnh giấy, nét mực đã lu lờ theo thời gian.
THI
“Chí quyết tang bồng vỡ bốn phương,
Chõng nằm chi để ghé râu vương.
Ba thù quyết trả đền ơn trọng,
Một giận mong ra gỡ tiếng ương.
Nợ nước đã toan tròn nghĩa vụ,
Tình nhà đành gác nỗi tư lương.
Nam mô nguyện trả xong rồi nợ,
Mối thánh đem về cõi Hạ, Thương”.
Chú thích:
[1] Trích ở tập “Phan Đình Phùng”, trương 189.