← Quay lại trang sách

- IV - Thành Bình Định

Thành Bình Định [1] cũng là nơi ghi chép nhiều dấu vết hùng cường của lịch sử dân tộc, chính nơi ấy Hậu quân Võ Công Tánh đã tử tiết, vị anh hùng áo vải Nguyễn Quang Trung đã xuất quân.

Đầu tiên cụ Cao Vân từ Quảng Nam vào trọ ở nhà một ông cả, bên thành ấy. Trước hết cụ mở trường dạy học, rồi đến bói quẻ làm thầy địa lý, là những tiểu thuật sở trường nhất của cụ; ngoài ra lại cũng vịnh phú ngâm thi là một trong những lối tiêu khiển của các nhà nho mà cũng là phương sách quyến rũ tri âm, tìm người tâm chí của các cụ ta ngày xưa.

Cụ Cao Vân vào đấy, cảnh lạ người lạ, không được quen biết nhiều, chỉ có các ông Văn thân thì sự tới lui giao du lúc bấy giờ vẫn đương trong e dè cẩn thận. Với dân chúng thì cũng một tình trạng như Quảng Nam, nghĩa là từ ngày nghĩa binh cụ Mai Xuân Thưởng bị tan vỡ, quân Bảo hộ do Nguyễn Thân và Đốc phủ Trần Bá Lộc kéo đến giày xéo trên đất Bình Định, Phú Yên [2]. Những nỗi đau thương khủng khiếp ấy tuy đã vùi dập trong thời gian, nhưng mãi đến ngày nay vẫn còn tiềm tàng trong lòng dân một mối căm hờn không sao nguôi được!

Trông vào lòng dân đương còn phẫn uất, nhìn vào dãy Trường Sơn thăm thẳm địa thế hiểm trở của tỉnh Bình Định, đường sá đi lại rất khó khăn, làng mạc phần nhiều trên rừng núi, chính phủ Bảo họ không sao kiểm soát chu đáo được, cụ Cao Vân lấy làm đắc ý đặt bao hy vọng trên miếng đất này!

Ở Bình Định được vài năm, nghề dạy học không kể, nghề địa lý là một phương thuật để cụ đi lại tự do từ làng này sang làng khác, trên những khu rừng mênh mông chồng chập, mặc tình cho nhà địa lý học thi thố cái thuật hô long điểm huyệt để thuận tiện truyền bá mầm mống cách mệnh chống lại chính sách Bảo hộ. Hơn nữa, nghề bói quẻ lục nhâm thái ất của cụ lại cũng được vang đồn là linh nghiệm. Tin đồn ấy ban đầu còn trong huyện Phù Mỹ, Phù Cát, lần lần lan khắp tỉnh Bình Định, rồi đến cả những người từ Phú Yên cũng tìm đến xin bói hoặc đón rước cụ; nhờ thế mà khách tình thân chủ tín phục cụ đi lại ngày một đông, và cụ cũng khéo áp dụng cái lối chinh phục khéo léo để lôi cuốn những người ấy làm cho họ về sau trở nên là nhưng đồng chí hoặc những đồ đệ trung thành.

Thầy chùa Đá Bạc

Ở Bình Định lúc bấy giờ xảy ra câu chuyện kỳ dị làm cho dân chúng phải một phen mệt nhọc, các chùa chiền bị khám xét, các thầy chùa bị tình nghi đòi hỏi bắt bớ lôi thôi. Ấy là câu chuyện: “thầy chùa Đá Bạc”, một câu chuyện dị đoan nhưng có liên hệ với tiểu sử này nên chép đại lược vào đây.

Bên sườn dãy Trường Sơn vào khoảng giữa huyện Phù Mỹ, Phù Cát, tỉnh Bình Định, một vùng núi sâu hiểm, ngoài những thổ dân Mọi, Mán và một số ít người chuyên nghiệp rừng núi thì không mấy ai đến nơi này. Vùng ấy có hang đá rộng lớn gọi là hang Đá Bạc. Hang đá này từ xưa đã có những đạo sĩ tu theo tiên thuật đến ở đấy tu luyện. Gần đây, một sơn tăng tuổi độ bảy mươi cũng đến chiếm lấy hang đá ấy. Lão sư này tu theo đạo Phật, ông lại tịch cốc, mỗi ngày chỉ uống ít nước lã và ít thức rau, trái cây sống sẵn có ở rừng. Người ông xuất sinh ở đâu, tông tích tên họ là gì? không một ai biết nên kẻ thì gọi ông là thầy chùa hang, người thì gọi là thầy chùa Đá Bạc.

Theo địa thế, từ hang Đá Bạc đổ về miền bể là những núi lúp xúp, qua khỏi làng Thạch Bàn, Đại Phong đến chợ Gòm là nơi giáp tiếp con đường thiên lý từ Bắc vào Nam. Khỏi chợ Gòm, lại mọc lên một doi núi khá cao dài độ hai mươi cây số, chạy thẳng xuống cửa bể Đề Di. Khoảng thung lũng giữa doi núi ấy, chồng lên một cụm đá cao vút, từ xa trông về giống như một hình người quái gở, nên người ta gọi đó là núi Bà Chằn.

Núi Bà Chằn cũng có một hang đá, và trước núi này là địa phận làng Chánh Danh, một làng có ngôi chùa rất cổ, và tại chùa ấy đã tạo ra câu chuyện kỳ quái sau này.

Vào khoảng năm Giáp Ngọ (1894), ở Bình Định gặp phải tai biến, bệnh ôn dịch lan khắp mọi nơi, nhất là huyện Phù Cát số người đau rất nhiều và số người thiệt mạng cũng không ít. Vì tai nạn ấy, thầy chùa Đá Bạc rời khỏi hang Đá Bạc, xuống ở hang núi Bà Chằn, hằng ngày ra chùa Chánh Danh cho thuốc.

Việc cho thuốc của thầy chùa Đá Bạc có một cử chỉ mới lạ: không thâu tiền, cũng không nhận lễ vật.

Thuốc ông thì không gì lạ, chỉ một tấm giấy vàng có in hình năm phật Quan Âm bằng mực đỏ gọi là bùa Ngũ công Quan Âm, phát cho mỗi người một bùa ấy và truyền họ về van vái rồi đốt, hòa với nước uống.

Người ta trong lúc đau chân há miệng, ai bảo gì nghe nấy, huống nữa trình độ dân chúng hồi ấy, chính cái thời mà lý trí con người còn kém cỏi, thần mê tín đương đắc thế hoành hành, cố nhiên phù pháp đương được kính trọng.

Oái oăm thay, uống bùa ấy người ta lại bảo là linh nghiệm! Đầu tiên mới những người quanh vùng Chánh Danh, lần lần tiếng đồn rộng ra, khắp các nơi người ta tấp nập chen nhau đến để xin thuốc, cứ như thế ròng rã mấy tháng trời làm cho làng Chánh Danh hóa ra náo nhiệt.

Vì quá huyên náo, quan địa phương tìm cách giải tán, không cho người các nơi đi lại chùa Chánh Danh, nhưng cấm cách này người ta lại đi lối khác, bởi họ đã quá tin ở thầy chùa Đá Bạc là thánh, là thần, là ông gì gì! Cuối cùng đến phải có lệnh bắt thầy chùa Đá Bạc và xét hỏi lung tung.

Vì vụ thầy chùa Đá Bạc mà về sau nhà ông Tuần Thượng, người làng Chánh Danh, là nơi thầy thường đến, và nhiều gia đình khác cũng phải liên lụy đến khuynh gia bại sản.

Lúc bấy giờ cụ Cao Vân đương ở thành Bình Định, nghe thấy câu chuyện kỳ dị như thế, muốn tìm hiểu thì người thân tín cụ bảo cho biết qua hành động của thầy chùa Đá Bạc, và trong đám môn đồ ô hợp của thầy có được một ít người khá, mà Võ Trứ là người hoạt bát hơn hết.

Cụ muốn gặp ngay thầy chùa Đá Bạc hoặc Võ Trứ để biết thêm công việc họ làm như thế có nghĩa gì? Nhưng làm sao gặp được! Vì giữa lúc có sự nghi ngờ ngăn cấm thế ấy, thầy chùa Đá Bạc thì khi ẩn khi hiện không thường; Võ Trứ cũng không ở yên một chỗ, vì thế, cụ Cao Vân đến làng Chánh Danh mấy lần đều không gặp. Lần chót cụ vào chùa Chánh Danh, sẵn có bút mực, cụ viết ngay trên cái mõ lớn năm chữ: “Tất giả chính danh hồ?” [3]. Câu này lời của đức Khổng tử ở sách “Luận ngữ”, có nghĩa: tất là chính danh ư?

Thâm ý cụ muốn hỏi thầy chùa Đá Bạc và Võ Trứ, công việc các ông làm như thế cũng là vì chính danh, chính nghĩa chứ?

Viết xong, cụ ra đi...

Chú thích:

[1] Thành cũ (thành Đồ Bàn), không phải thành mới hiện nay.

[2] Tài liệu trích ở thư Nguyễn Thân gởi cho Toàn quyền Paul Doumer, tập “Phan Đình Phùng” trang 190.

[3] Sách “Luận ngữ”, thiên “Tử Lộ” thứ 13.