- XV - Thi văn-
Trải qua thời gian bôn ba từ tỉnh này sang tỉnh khác để mưu đồ phục quốc, trong những phút xúc cảm, chí sĩ Trần Cao Vân đã ngâm nên thi, vịnh thành phú, kể ra có rất nhiều! Nhưng đây soạn giả xin trích một ít thi phẩm của cụ mà soạn giả hân hạnh sưu tầm được, xin chép vào đây cống hiến bạn đọc ngâm lên, ca hát lên để tán thưởng tinh thần người chí sĩ và cũng để khuây khỏa bao nỗi thắc mắc trong lòng sau khi đọc qua một thiên lịch sử bi cảm!
Vào khoảng năm Bính Thìn, một hôm nọ, tại nhà một đồng chí, nhân chờ đợi đến giờ khai hội. Các cụ bày ra đánh cờ, cụ Cao Vân thắng luôn mấy bàn một dọc, nhân đấy cụ vịnh bài thi đầu đề “Bàn cờ thắng” để họa nguyên văn bài thi đầu đề “Bàn cờ thua”, của một thân sĩ đã vịnh từ trước.
Bài thứ nhất
Vịnh bàn cờ thắng
“Đừng quen pháo mạnh vọt ngang cung,
Mệnh tướng truyền ra sĩ vẫy vùng.
Voi ngự thân chinh toan mở nước,
Binh triều ngự giá giục sang sông.
Xe liên vạn sát kinh tài cả,
Mã nhựt song trì mặc sức tung.
Sau trước trong tay rành rỏi nước,
Cờ cao Hán Tổ dễ đua cùng”.
Đọc qua tám câu thi, ta cảm thấy về văn chương thật là hùng hồn, về ý chí thật là khẳng khái. Đọc đến câu “Xe liên vạn sát, mã nhựt song trì”, với cách hành văn đã khéo, với lời lẽ lại đanh thép, làm cho ta tưởng nhớ đến những lời hịch xuất sư của các vị quân sư ngày xưa đương hô hào hưng binh phục quốc.
Bài thi này cụ Cao Vân vịnh trong lúc cụ đương cùng Hoàng đế Duy Tân mưu đồ công cuộc cách mệnh năm 1916.
Bài thứ hai
Vịnh Hòn chồng đực, Hòn chồng cái hay là Hòn ông, Hòn bà
Tại tỉnh Phú Yên (Trung Việt), có hai quả núi cao vút đứng sững tương đối nhau, tục thường gọi tên “hòn chồng Đực, hòn chồng Cái”, hay là “hòn Ông, hòn Bà”. Cụ Cao Vân lấy tên núi ấy làm đầu đề vịnh tám câu thi.
“Đất nén trời nung khéo định đôi,
Hòn chồng Đực, Cái, sánh hai ngôi.
Ông xây nên đống cây trồi mụt,
Bà đúc y khuôn đá mọc chồi,
Mây núi phủ giăng màn tịnh túc,
Nước khe hầu rót chén giao bôi.
Non thề giai lão trơ trơ đấy,
Gió chẳng lung lay sóng chẳng nhồi”.
Bài thi này đáng gọi là kiệt tác, từ văn chương đến ý tưởng diễn đạt một cách rất khéo léo; đọc đến câu: “Ông xây nên đống cây trồi mụt, bà đúc y khuôn đá mọc chồi”, đã ngụ tả được cái đạo hóa dục của trời đất; đến câu: “Mây núi phủ giăng màn tịnh túc, nước khe hầu rót chén giao bôi”, thật là vừa thanh tao, vừa tình tứ! khéo vẽ được cái cảnh êm đềm của đôi tình chung non nước, lại đến câu thúc kết: “Non thề giai lão trơ trơ đấy, gió chẳng lung lay sóng chẳng nhồi”. Người chí sĩ lại cả quyết và cũng tự phụ đôi vợ chồng non nước Việt ấy sẽ trường tồn mãi mãi, sẽ đứng vững trước bao trận phong ba!
Bài thứ ba
Vịnh con tôm
“Loài ở lộn bùn cũng mọc râu,
Nguo ngoe nỏ biết mốc gì đâu?
Cong lưng cứ ỷ tài đâm bắn,
Lố mắt khôn dò lạch cạn sâu.
Ngoài ủ [1] lôm xôm càng múa gọng,
Trong oi [2] sùi sụt đít co đầu.
Dỡn rồng ta bảo đừng quen thói,
Một nhũi [3] là xong lựa tát, câu”.
Bài thứ tư
Vịnh vợ chồng lái đò
“Mặc ai chài lưới chẳng thèm lo,
Chưa gặp thời âu tạm chống đò.
Sông rộng lão toan cầm lái vững,
Lạch sâu mụ hãy cắm sào dò.
Dân trời đưa rước ngày thong thả,
Lộc nước ăn nhờ bữa ấm no.
Buồm thuận gió hồng khi đỗ bến,
Vợ chồng một giấc ngáy kho kho”.
Bài thi này về ý tứ rất dồi dào. Người chí sĩ Trần Cao Vân khéo mượn cảnh của đôi vợ chồng người lái đò để diễn đạt ý chí mình. Mở đầu bài thi, người chí sĩ đã tỏ ra không tham luyến danh lợi như một số người đang đuổi theo võng, lọng, áo, mão. Khoảng giữa bài, người chí sĩ lại khéo trình bày cảnh trạng của đôi vợ chồng người dân Việt đương thực hành nghĩa vụ của mình, đương lèo lái con thuyền dân tộc trên khúc sông rộng sâu, sóng gió mịt mờ! Đến cuối bài, người chí sĩ lại nêu lên một mối hy vọng chan chứa với một tinh thần cao khiết, mong đến ngày đưa dân tộc lên bờ tự do rồi thì vợ chồng anh lái đò sẽ đánh một giấc ngủ say sưa, không mong dự hưởng cái công cuộc thành công ấy.
Bài thứ năm
Vịnh Hòn Vay, Hòn Trả
Tại tỉnh Phủ yên (Trung Việt) có quả núi, tục truyền gọi tên: “hòn Vay, hòn Trả”; cụ Cao Vân cũng lấy lên núi ấy làm đầu đề vịnh bài thi:
“Ai nhủ hỏi đòi khéo lá lay,
Ờ qua hòn Trả bởi vì Vay.
Tờ mây bóng rập bà so chỉ,
Nợ nước ơn đền ổng phủi tay.
Ngày tháng rảnh chân muôn cụm bước,
Cỏ cây dâng lộc bốn mùa thay.
Khách giang hồ những tha hồ mượn,
Lên Hải Vân rồi đó sẽ hay”.
LOẠI THI TRÀO PHÚNG
Bài thứ sáu
Vịnh Ông Trời N. C. (Động cỡn)
Cũng ở Phú Yên, vào khoảng cuối tháng ba ta, tiết trời nắng hạn không mấy khi mưa, nông dân đua nhau gặt hái lúa thóc khuân mang về phơi phóng bừa bãi. Một hôm nọ, bất ngờ trời mưa ầm xuống. Các bác nông dân tức quá, la ó lên: “Ông trời nứng cặc!”... Lúc bấy giờ cụ Cao Vân đương giảng sách cho học trò, nghe câu nói quê tục, nhưng nghĩ ra có triết lý rất lý thú, cụ liền lấy làm đầu đề vịnh tám câu thi:
“Từ xưa Thái cực đúc nên hòn,
Mới biết ông trời cặc thẳng bon.
Gù mống vỗng nằm ngang góc bể,
Ngù mây sựng đứng trất đầu non.
Nhởn nhơ dì gió trêu qua lại,
Thấp thoáng mường trăng ghẹo méo tròn.
Hang nguyệt ước rờ cha chả sướng...
Đẻ vua rồi lại chán tôi con”.
Bài thi này về văn liệu đã ly kỳ, về ý tứ lại xuất sắc, cụ khéo điều khiền những câu: “gù mống vỗng nằm”, “ngù mây”, “sựng đứng”, “ngang góc bể”, “trất đầu non”... thật vừa lẳng lơ vừa ngạo nghễ, tưởng không kém các bài thi cổ được truyền tụng, như thi Hồ Xuân Hương.
Bài thứ bảy
Gửi cho cụ bà Cao Vân
Cụ Cao Vân ở Côn Đảo được mấy năm, biết cụ bà ở nhà không khỏi buồn phiền. Vì cụ Cao Vân đi đày lần này với cái án chung thân khổ sai, thì có mong gì mà trở về được! Thế nên cụ Cao Vân viết tám câu thi vừa là trào phúng mà cũng vừa là hứa hẹn để cụ bà đọc cho đỡ buồn.
“Xe trở bánh gần hết khúc eo,
Trông chồng chi lắm mặt buồn teo.
Thân chàng chắc vững không nao núng,
Dạ thiếp đừng lo chút mẻo meo.
Trướng liễu xũ màn khuyên hãy giấc,
Vườn đào sẵn giống để rồi gieo.
Thung dung mặc sức cùng nhau sẽ...
Chót núi thôi đừng ngó mỏi nheo”.
Đại khái thi văn của cụ Cao Vân như thế cả, lời lẽ hùng hồn, ý từ ngạo nghễ, bất cứ trong trường hợp nào, cảnh nào, bài thi nào, hễ cụ đã ngâm lên thì đều có xen vào những triết lý, như thế ta đủ thấy được cụ Cao Vân chẳng những là nhà cách mệnh, nhà thi văn, mà cũng là một người giàu tư tưởng, thích triết học.
Thi văn của cụ còn nhiều lắm, nào thi chữ Tàu, thi chữ Việt, ca trù, trường thiên, phú, v.v... Đại khái như những bài: “Phú nhủ một trăm vận”, “Giang hồ vịnh chí”, “Vịnh Ngũ Hành sơn”, “Vịnh Côn Lôn”, “Tự thuật”, v.v... xin hẹn bạn đọc lúc nào sưu tầm được nhiều hơn nữa sẽ có tập “Thi văn của chí sĩ Trần Cao Vân” để thân tặng các bạn.
Chú thích:
[1] Ủ: nhiều cành cây lá xanh bó lại thả dưới sông để nhử tôm, cá vào ở.
[2] Oi: cái giỏ đựng cá.
[3] Nhũi: cái nhũi cá, tôm.
HẾT